Nghị Luận Về Văn Bản Nhớ Rừng / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Nghị Luận Và Nhận Xet Bài Thơ Nhớ Rừng Rất Hay

Đây là một bài thơ có giá trị của nhà thơ Thế Lữ – ngọn cờ đầu của thơ mới giai đoạn 1930 – 1945. Bài thơ được sáng tác năm 1934 vào thời điểm phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân ta vừa phải trải qua thời kì khủng bố hắng của thực dân Pháp. Bài thơ là lời độc thoại của con hổ bị nhốt ở vườn bách thú đã nói lên nỗi uất hận vì bị mất tự do, bị giam cầm và lòng nhớ tiếc quãng đời được tự do tung hoành và làm chúa tể chốn sơn lâm của nó.

Miêu tả tâm trạng của ‘chúa sơn lâm’ trong một tình huống đầy bi kịch, nhà văn Thế Lữ đã phải vận dụng ngôn ngữ một cách sinh động nhằm thể hiện cho được cái hình hài bề ngoài của con hổ bị nhốt trong cũi sắt – làm cái thú tiêu khiển cho thiên hạ – nhưng bên trong hồn vía nó vẫn là một ‘chúa tể của muôn loài’.

Vì vậy nhà phê bình Hoài Thanh đã nói: ‘Ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được’.

Thật vậy, tác giả đã sử dụng ngôn ngữ một cách sinh động, tài tình, thể loại nào cũng được vận dụng thật đắc địa nhằm khắc hoạ cho được, cho hay cái tầm trạng ngao ngán đầy bi kịch của con hổ.

Nổi bật lên trước hết trong tâm trạng con hể bị nhốt này là lòng căm hờn, niềm uất hận, nỗi chán chường và khinh ghét tất thảy mọi vật xung quanh nó: ‘Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt’. Thậm chí mối căm hờn của nó như cũng được ‘vật chất hoá’ thành một vật cụ thể, một ‘khối’ cụ thể rắn chắc khó có thể tan đi được để nó phải nhẫn nhục mà ‘gậm’! Bởi vậy thái độ của nó là ‘Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua’: hình ảnh con hổ ‘nằm dài’ ở đây rõ ràng đã bộc lộ một tâm trạng chán chường của nó, chán đến mức nó không muốn hành động không thiết hoạt động gì nữa và chỉ ‘nằm dài’. Và ‘Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu’: ‘niềm uất hận’ của con hổ cũng lại được ‘vật chất hoá’ cũng trở thành cụ thể, có hình, có khối, buộc nó phải ‘ôm’ lấy cho tới ‘ngàn thâu’! Để mà khinh ghét hết thảy:

‘Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm’.

rồi khinh cả ‘bọn gấu dở hơi’ cùng với ‘cặp báo vô tư lự’…

hàng xóm láng giềng, và nó ghét:

‘Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,

Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;

Giải nước đen giả dối, chẳng thông dòng

Len dưới nách những mô gò thấp kém… ‘

Tóm lại, nó ghét toàn bộ những cái cảnh vườn bách thú quá tầm thường này! Đúng vậy, cảnh núi rừng hùng vĩ của ông ‘chúa sơn lâm’ xưa kia đem so sánh với cảnh vườn bách thú trước mắt, thì cảnh trước mắt này quả thật là thảm hại, tầm thường và giả dối!

Bởi vậy, nó mới da diết nhớ đến cái ‘thuở tung hoành hống hách những ngày xưa’ và da diết nhớ đến ‘cảnh sơn lâm bóng cả, cây già với tiếng gió gào ngàn, với giọng buồn hét núi’ của nó. Nó bỗng tự ngắm mình trong ‘giấc mộng ngàn to lớn’ để hồi tưởng lại cái thời nó còn được tự do ‘vùng vẫy ngày xưa’. Và lúc này, hình ảnh con hổ chợt hiện lên trang thơ thật là đẹp:

‘Với khí thét khúc trường ca dữ dội,

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,

Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc’ và cũng thật là oai phong lẫm liệt:

‘Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,

Là khiến cho mọi vật đều im hơi,

Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,

Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi’

Với cảnh núi rừng tươi đẹp, hùng vĩ, nó đã tự do tận hưởng mọi lạc thú ở địa vị một vị chúa tể:

– ‘… Những đêm vàng bên bờ suối,

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan’

– ‘… Những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,

Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới’

– ‘… Những bình minh cây xanh nắng gội,

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng’.

– ‘… Những chiều lênh láng máu sau rừng Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật’…

Quả thực trong hồi ức của con hổ, cảnh núi rừng, thiên nhiên hùng vĩ đầy vẻ hoang sơ và thơ mộng! Song, ngoài nỗi nhớ và niềm kiêu hãnh, ta còn thấy cả nỗi thất vọng với tiếng thở dài chua xót của nó:

‘Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu? ‘

Câu hỏi tu từ này vừa nói lên sự nuối tiếc day dứt vừa nói lên nỗi thất vọng lớn lao. Chúng ta cảm nhận được nỗi nhớ tiếc này ở nó thật là da diết (‘Ta sông mãi trong tình thương nỗi nhớ’) và nỗi nhớ tiếc đó đã trở thành ‘giấc mộng ngàn to lớn’ của nó:

‘Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,

Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,

-Hỡi cảnh rừng ghê ghớm của ta ơi! ‘

Như vậy, rõ ràng Thế Lữ xứng đáng là vị tướng giỏi, tài hoa điều khiển đội quân Việt ngữ tung hoành trong bài thơ Nhớ rừng. Chính nhờ sự sắp xếp các từ ngữ phù hợp mà chúng phát huy được sức mạnh và không thể cưỡng được, vì nhiệm vụ được giao mỗi loại từ ngữ đều phù hợp với vị trí thể hiện trong câu trong cụm từ. Một hệ thống hình ảnh thơ rất giàu chất tạo hình, với đường nét hình khối, màu sắc rực rỡ, tác giả đã tạo nên những bức tranh đẹp một cách tráng lệ, gây ấn tượng mạnh đối với người đọc. Có những hình ảnh thơ thể hiện sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo, bất ngờ (‘Đêm vàng bên bờ suối’, ‘uống ánh trăng tan’, ‘lênh láng máu sau rừng’, ‘đợi chết mảnh mặt trời gay gắt’… )

Và ngôn ngữ, nhạc điệu, tiết tấu cực kỳ phong phú, gợi cảm… thể hiện thành công ý tưởng, cảm xúc của nhà thơ.

Ta có thể đọc lại một loạt động từ, tính từ rất mạnh và gợi cảm, thể hiện cảnh rừng thiêng liêng hùng vĩ và sức mạnh chế ngự của mãnh hổ: (‘bóng cả’, ‘cây già’, ‘tiếng gió gào’…, ‘giọng nguồn hét’, ‘thét khúc trường ca’, ‘dõng dạc’, ‘đường hoàng’, ‘lượn tấm thân’, ‘sóng cuộn nhịp nhàng’, ‘vờn bóng âm thầm’, ‘mắt thần khi đã quắc’… )

Nhạc điệu, tiết tấu rất linh hoạt ở mỗi câu thơ.

Câu thơ thứ nhất nhiều vần trắc, diễn tả nỗi dằn vặt, âm điệu dồn vào hai chữ ‘căm hờn’ như dồn nén u uất: ‘Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt’.

Câu thơ thứ hai nhiều vần bằng làm giọng thơ trầm hẳn xuống diễn tả tâm trạng buồn bã, ngao ngán: ‘Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua’.

Câu cảm thán như tiếng thở dài não ruột, đầy tiếc nhớ: ‘Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu? ‘

Cái âm vang trong giọng thơ ở câu kết như một tiếng vang vọng của lời nhắn gửi thống thiết: ‘Hỡi cảnh rừng ghê ghớm của ta ơi! ‘

Từ hình ảnh và tâm trạng con hổ được biểu hiện trong bài thơ, ta có thể liên tưởng tới tâm trạng của những lớp người trong xã hội Việt Nam thời bấy giờ đang bị giam cầm trong vồng nô lệ nghiệt ngã của thực dân Pháp. Bởi vậy, bài thơ đã nói lên nỗi nhục nhằn của người nô lệ bị mất tự do và biểu hiện được mong ước và khát vọng tự do của họ.

Bài Văn Mẫu Nghị Luận Về Câu Ăn Quả Nhớ Kẻ Trồng Cây, Văn Nghị Luận Lớ

Biết ơn vốn là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam từ bao đời nay, điều này đã được đúc kết qua nhiều câu tục ngữ ngắn gọn mà sâu sắc, cùng nghị luận về câu Ăn quả nhớ kẻ trồng cây để hiểu hơn về điều này.

Đề bài: Nghị luận về câu Ăn quả nhớ kẻ trồng cây

I. Dàn ý Nghị luận về câu Ăn quả nhớ kẻ trồng cây

1. Mở bài

– Giới thiệu câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.

2. Thân bài

b. Biểu hiện:

– Biết ơn cha mẹ, những người có công sinh thành nuôi dưỡng.– Biết ơn thầy cô những người đã truyền đạt cho ta kiến thức bước vào đời.– Biết ơn những thế hệ cha anh đi trước đã hy sinh xương máu để cho chúng ta một cuộc sống hòa bình.(Tự nêu thêm một số ví dụ khác).

c. Ý nghĩa của lòng biết ơn:

– Việc sống với tấm lòng biết ơn sâu sắc khiến cho bạn trở nên hiền hòa, tình cảm, tâm hồn ngày càng trở nên trong sáng, bạn sẽ được mọi người xung quanh yêu quý tín nhiệm vì lối sống tình nghĩa, được bạn bè coi trọng và tin tưởng.– Việc sống ân tình, ân nghĩa sẽ là tấm gương sáng cho con cái và các thế hệ tiếp nối.- Nêu cảm nhận chung.

3. Kết bài

– Nêu cảm nhận cá nhân

II. Bài văn mẫu Nghị luận về câu Ăn quả nhớ kẻ trồng cây

Dân tộc ta với hơn 4000 năm văn hiến, trải qua biết bao nhiêu thay đổi của thời đại, thế nhưng những nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống của dân tộc, những phẩm chất đáng quý mà ông cha ta cố gắng giữ gìn và phát huy bao đời nay từ tiếng nói, chữ viết, văn hóa dân gian, phong tục tập quán,… và đặc biệt không thể thiếu đó là truyền thống ân nghĩa với cội nguồn dân tộc. Điều đó thể hiện qua rất nhiều các hoạt động lễ hội ví như lễ Hội Đền Hùng nổi tiếng với câu ca dao “Dù ai đi ngược về xuôi/Nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 3”. Hay trong các văn học dân gian ta cũng thấy có sự xuất hiện của nhiều những câu ca dao tục ngữ nhắc nhở con cháu về truyền thống tốt đẹp của dân tộc ví như “Uống nước nhớ nguồn”, “Chim có tổ, người có tông”, “Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu”… và một trong số đó là câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” với những tầng nghĩa sâu sắc, trở thành đạo lý sống mà chúng ta vẫn thường nghe cha mẹ bảo ban từ thuở còn ấu thơ.

Trước tiên ta cùng tìm hiểu câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Mỗi khi nhắc về “quả” , người ta thường mường tượng đến thứ sản phẩm ngọt lành và là kết tinh tuyệt vời nhất của cây, sao bao nhiêu ngày đơm bông, kết trái, nuôi dưỡng. Nhưng dĩ nhiên cây không thể tự mọc, rồi tự cho ra thứ quà thơm ngon thế được, nếu có thì là thứ quả dại vừa chua vừa chát, không thì cũng sâu xia, ỏng eo chẳng đáng giá. Mà ở đây để có được quả vừa ngon vừa ngọt vừa đẹp đẽ thì phải có bàn tay của “kẻ trồng cây”, bàn tay cần cù, tỉ mỉ, chăm bón hàng ngày. Dõi theo cây từ những ngày gieo hạt, lúc cây mọc lá, phát cành, cung cấp cho cây đủ nước nôi, phân bón, bảo vệ cây khỏi sâu bệnh hại. Chăm chút từng đóa hoa, từng cái quả, để cuối cùng sau bao ngày mong đợi những chùm quả trĩu nặng chín vàng, chín đỏ trên cây chính là phần thưởng cho người có công chịu khó bỏ tâm huyết của mình vào cái cây đó. Chính vì thế khi ta ăn một thứ quả ngọt lành thì trước tiên phải nghĩ đến người tạo ra nó đã phải vất vả, dãi nắng dầm sương bao lâu, phải nhớ đến công sức mà những người trồng đã bỏ ra. Để biết trân trọng hơn những thứ mà ta được tận hưởng, đồng thời cũng trân trọng và biết ơn sâu sắc những người đã vất vả tạo ra nó. Mở rộng ra ngoài khuôn khổ của quả ngọt và kẻ trồng cây, thì cây tục ngữ chính là lời khuyên dạy sâu sắc của cha ông ta đối với mỗi con người về lòng biết ơn, nhắc nhở chúng ta rằng mỗi một thành quả mà chúng ta hưởng dụng ngày hôm nay không phải tự nhiên mà xuất hiện. Mà nó là cả một quá trình phấn đấu, gây dựng của những người đi trước, trong đó thấm đẫm mồ hôi, nước mắt, xương máu, và tất cả tâm huyết của biết bao lớp người.

Người đầu tiên mà chúng ta phải biết ơn trên cõi đời này chính là cha mẹ của chúng ta, khi tôi ngồi đây viết nên những dòng chữ này, tôi đã thấy rất xúc động khi nghĩ về người mẹ tảo tần, mưa nắng, mang nặng đẻ đau 9 tháng 10 ngày để cho tôi một hình hài dáng vẻ lành lặn, tôi biết ơn phụ mẫu đã cho dạy dỗ nâng đỡ tôi từng bước tiến vào đời. Họ cho tôi một cuộc sống trải đầy những đóa hoa yêu thương hạnh phúc, còn bản thân mình thì chấp nhận dầm mưa dãi nắng, dành hết tất cả những gì tốt đẹp nhất về cho con bao gồm các điều kiện vật chất, giáo dục, giải trí,… Có lẽ rằng đối với các bậc cha mẹ, chúng ta chỉ biết ơn thôi thì không bao giờ là đủ, bản thân mỗi chúng ta phải có những hành động sâu sắc hơn, thiết thực hơn để báo đáp công ơn của cha mẹ.

Xa hơn một chút, bản thân chúng ta ngày một lớn lên, ngày một trưởng thành không chỉ là nhờ sự giáo dục chăm sóc của gia đình mà còn phụ thuộc rất nhiều vào công lao của những “người lái đò”, đó là những người thầy người cô dành cả đời đứng trên bục giảng, quanh năm hít mùi bụi phấn, dành mọi tâm huyết để truyền dạy cho chúng ta những lớp hành trang tri thức, để chúng ta bước vào đời một cách dễ dàng hơn. Hơn ai hết họ xứng đáng là những người được trân trọng, được tri ân sâu sắc, bởi một xã hội chỉ phát triển khi nền giáo dục của xã hội ấy phát triển. Ông cha ta từ xưa đến nay cũng đã dạy “Muốn sang thì bắc cầu Kiều/Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”, hay truyền thống “Tôn sư trọng đạo” cũng là một trong những biến thể của lòng biết ơn dành cho thầy cô giáo. Chung quy lại “Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy”, là con người có phẩm cách thì không bao giờ được quên điều đó.

Thêm nữa có bao giờ bạn ngẫm lại rằng, cuộc sống yên bình ngày hôm nay của chúng ta đã được xây dựng như thế nào không? Nói không ngoa thì bản thân chúng ta đang sống trên những gì được gây dựng bằng xương máu của hàng triệu con người. Trong hơn 4000 năm văn hiến lịch sử, từ thuở dựng nước, đã biết bao lần mảnh đất này bị giày xéo, đô hộ, và cứ mỗi lần như thế chưa khi nào ông cha chịu khuất phục họ đã đứng lên giành lại độc lập cho tổ quốc một cách anh hùng, họ sẵn sàng hy sinh cả tính mạng để đất nước được tự do. Bao nhiêu con người đã nằm xuống, bao nhiêu mồ hôi xương máu đã đổ xuống mảnh đất này, để ngày hôm nay chúng ta có một xã hội công bằng, một đất nước hòa bình không chiến tranh. Với tư cách là một công dân của đất nước chúng ta phải luôn luôn khắc sâu trong tim sự hy sinh của cha ông, mãi mãi trân trọng những con người anh hùng của đất nước bằng tấm lòng chân thành và biết ơn sâu sắc. Đồng thời bản thân chúng ta cũng phải ý thức giữ gìn đất nước này, noi theo tấm gương của cha ông sẵn sàng đứng lên khi đất nước gọi tên thế mới là tròn bổn phận.

Lòng biết ơn không chỉ giới hạn trong những việc tôi kể trên mà nó còn xảy ra trong mọi trường hợp khác, như bạn ăn một hạt cơm, hạt gạo thì bạn cũng phải nhớ đến những người nông dân cày cuốc sớm trưa, lội bùn, lội nước làm ra hạt lúa, hạt thóc. Bạn thưởng thức một tách trà thơm ngát bạn cũng phải nhớ đến người đã tỉ mẩn hái từng búp trà rồi phơi, rồi ướp, rồi sấy,… Khi bạn ngồi dưới ánh điện sáng trưng bạn cũng phải nhớ đến cách đây vài trăm năm đã có một người tên là Thomas Edison, từng thức trắng nhiều đêm để tạo ra bóng đèn. Khi bạn đọc một cuốn sách hay, nghe một bản nhạc độc đáo, hay coi một bộ phim tuyệt vời bạn cũng đừng quên những người đã dồn biết bao trí tuệ, tâm sức để sáng tác ra nó. Nói tóm lại bạn phải luôn có tấm lòng biết ơn, trân trọng những con người và những thành quả họ đã tạo dựng cho bạn hưởng thụ.

Việc sống với tấm lòng biết ơn sâu sắc khiến cho bạn trở nên hiền hòa, tình cảm, tâm hồn ngày càng trở nên trong sáng, bạn sẽ được mọi người xung quanh yêu quý tín nhiệm vì lối sống tình nghĩa, được bạn bè coi trọng và tin tưởng. Từ đó cuộc sống của bạn cũng dần trở nên tươi đẹp hơn, bởi nó được tô điểm bởi những giá trị truyền thống mà bao đời nay ông cha ta hết sức giữ gìn và khuyên dạy con cháu một cách sâu sắc. Đồng thời lối sống ân tình, thủy chung với nguồn cội, biết trân trọng những con người đã tạo ra thành quả cho chúng ta hưởng thụ có tầm ảnh hưởng sâu sắc đến những người xung quanh, đặc biệt là với con cái, các thế hệ tiếp nối, chúng ta sẽ trở thành tâ gương sáng truyền dạy lại truyền thống văn hóa của dân tộc cho đời sau. Những thế hệ tiếp nối của chúng ta từ đó mà cũng có một lối sống đẹp đẽ làm rạng danh gia đình.

“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là truyền thống vô cùng tốt đẹp và quý báu của dân tộc mà mỗi chúng ta cần có ý thức thực hiện, giữ gìn và phát huy nó. Bản thân chúng ta phải không ngừng nỗ lực học tập, sáng tạo để đền đáp lại những giá trị mà lớp người đi trước đã dày công xây dựng cho chúng ta hưởng thụ. Đồng thời góp phần xây dựng, kiến thiết đất nước để tạo ra những thành quả tốt đẹp cho các thế hệ đi sau, tiếp nối truyền thống của dân tộc.

https://thuthuat.taimienphi.vn/nghi-luan-ve-cau-an-qua-nho-ke-trong-cay-54047n.aspx Bên cạnh bài Nghị luận về câu Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, các em học sinh có thể tự củng cố kĩ năng viết bài nghị luận của mình qua việc tham khảo một số Bài văn hay lớp 9 khác như: Nghị luận xã hội về câu Uống nước nhớ nguồn, Nghị luận về câu nói: Đuổi theo đam mê, thành công sẽ đuổi theo bạn, Nghị luận câu tục ngữ Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, Nghị luận về câu ca dao: Cầm vàng mà lội qua sông…

Soạn Bài: Nhớ Rừng – Ngữ Văn 8 Tập 2

I. Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả (các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Thế Lữ trong SGK Ngữ văn 8 Tập 2).

2. Tác phẩm

* Nhớ rừng là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Thế Lữ và là tác phẩm góp phần mở đường cho sự thắng lợi của Thơ mới.

* Thể thơ: Văn bản Nhớ rừng được viết theo thể thơ 8 chữ.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

Bài thơ được ngắt thành 5 đoạn:

Đoạn 1: Cảnh ngộ bị tù hãm và nỗi uất hận, ngao ngán, buông xuôi và sự bất lực của con hổ.

Đoạn 2 + 3: Nỗi nhớ nhung, niềm khao khát tự do mãnh liệt qua những hoài niệm về cảnh núi rừng bạt ngàn, kì vĩ, rất tương xứng với sức mạnh của vị chúa tể sơn lâm.

Đoạn 4: Sự khinh ghét của con hổ với vẻ đơn điệu, tầm thường của khung cảnh vườn bách thú, hoàn toàn đối lập với sự hùng vĩ nơi chốn núi rừng.

Đoạn 5: Niềm đau đớn và nỗi tuyệt vọng của kẻ anh hùng sa cơ và những hoài niệm nơi núi rừng khi xưa với giấc mộng tàn.

Câu 2:

Trong bài thơ có 2 cảnh được miêu tả đầy ấn tượng: cảnh vườn bách thú, nơi con hổ bị nhốt (đoạn 2 và đoạn 4); cảnh núi rừng hùng vĩ, nơi con hổ ngự trị những “ngày xưa” ( đoạn 2 và 3).

a)

* Cảnh tượng ở vườn bách thú là cảnh tù túng, ngột ngạt

Đoạn 1: thể hiện tâm trạng chán ngán, căm hờn, uất ức của con hổ khi bị giam hãm trong cũi sắt, bị biến thành đồ chơi, trò tiêu khiển cho con người, bị xếp cùng với những loài thú “dở hơi”, “vô tư lự”. Mặc dù vậy, chúa sơn lâm vẫn vượt khỏi sự tù hãm bằng trí tưởng tượng, sống trong nỗi nhớ về cảnh núi rừng đại ngàn.

* Cảnh núi rừng hùng vĩ, oai nghiêm

Đoạn 2 và 3 miêu tả cảnh núi rừng đại ngàn – nơi con hổ ngự trị những “ngày xưa”. Nơi này, cái gì cũng lớn lao, cao cả và phi thường (bóng cả, cây già, gió gào ngàn, nguồn hét núi). Ở đoạn thơ này, chúa sơn lâm hiện lên với vẻ đẹp vừa tinh tế lại vừa dũng mãnh, uy nghi mà cũng không kém phần mềm mại, uyển chuyển.

b) Có thể nói, việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu các câu thơ trong đoạn 2 và đoạn 3 rất đặc biệt. Cảnh núi rừng được miêu tả với hàng loạt từ ngữ chỉ sự cao cả, lớn lao, phi thường (bóng cả, cây già, gào, hét, thét). Trong khi đó, chúa sơn lâm hiện lên với phong thái chậm rãi, khoan thai, được so sánh với sóng cuộn nhịp nhàng.

c)

* Qua sự đối lập sâu sắc giữa hai cảnh tượng nêu trên, tâm sự của con hổ ở vườn bách thú được thể hiện với những nỗi bất hòa, chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và nỗi nhớ da diết với quá khứ huy hoàng trước đây của nó.

* Tâm sự của con hổ cũng chính là tâm sự của người dân Việt Nam mất nước đang sống trong cảnh nô lệ và tiếc nhớ khôn nguôi thời oanh liệt với những chiến công chống giặc ngoại xâm vẻ vang của dân tộc ta trong lịch sử.

Câu 3:

Tác giả mượn “lời con hổ ở vườn bách thú” vì nó vừa thể hiện được thái độ chán ngán với thực tại tù túng, tầm thường và giả dối, vừa thể hiện được khát vọng tự do, khát vọng đạt tới sự cao cả, phi thường. Hơn thế nữa, khi mượn lời con hổ, tác giả cũng tránh được sự kiểm duyệt ngặt nghèo của thực dân khi đó. Nhưng dù sao, bài thơ vẫn thể hiện được niềm khao khát tự do thầm kín của những người đương thời.

Câu 4:

Nhà phê bình văn học Hoài Thanh có nhận xét về thơ Thế Lữ: “Đọc đôi bài, nhất là bài Nhớ rừng, ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được”. Điều này nói lên việc sử dụng từ ngữ vô cùng điêu luyện của Thế Lữ đã đạt đến độ chính xác cao.

Âm thanh núi rừng, Thế Lữ cho ta nghe thấy tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi, tiếng thét khúc trường ca dữ dội.

Một loạt những từ ngữ được điệp lại “nào đâu…”, “đâu những…” tạo ra sự tiếc nuối quá khứ huy hoàng.

Câu thơ nhịp nhàng, cân đối khi miêu tả dáng điệu hùng dũng, mềm mại của con hổ.

1.8

/

5

(

34

bình chọn

)

Soạn Bài Nhớ Rừng (Siêu Ngắn)

Soạn bài Nhớ rừng

Bài giảng: Nhớ rừng – Cô Phạm Lan Anh (Giáo viên VietJack)

Đọc hiểu văn bản

Câu 1 (trang 7 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):

Bài thơ chia làm 5 đoạn:

– Đoạn 1: Lòng uất hận, căm hờn khi bị giam cầm trong cũi sắt

– Đoạn 2: Nỗi nhớ núi rừng và sự oai phong của con hổ

– Đoạn 3: Nỗi nhớ vể một thời oanh liệt, tự do.

– Đoạn 4: Sự căm ghét khu vườn nhỏ hẹp, giả dối.

– Đoạn 5 : Giấc mơ và niềm khao khát được trở lại vùng vẫy chốn rừng xưa.

Câu 2 (trang 7 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):

a.

– Cảnh tượng vườn bách thú nơi con hổ bị nhốt:

+ Đoạn 1: Không gian “cũi sắt”, sống chung với lũ người ngạo mạn ngẩn ngơ, “bọn gấu dở hơi”, “cặp báo chuồng bên vô tư lự”. Thân phận là chúa sơn lâm nhưng giờ đây lại phải sống trong cũi sắt chật hẹp, tù túng. Sống chung bầy với những kẻ tầm thường, chịu làm trò mua vui cho thiên hạ. Đây là cảnh tượng nhục nhã, buồn chán khiến nó “căm hờn”,khinh bỉ và cay đắng.

+ Đoạn 4: Cảnh tượng nhân tạo, tầm thường, giả dối. Đó là nơi bàn tay con người tạo nên, học đòi cho giống chốn rừng xanh nhưng đâu thể sánh được với cảnh núi rừng hùng vĩ, hoang sơ ngoài kia. Cảnh tượng đáng khinh, thể hiện sự bất mãn, cao ngạo của con hổ.

– Cảnh núi rừng hùng vĩ, nơi con hổ ngự trị những ‘ngày xưa”

+ Đoạn 2: Cảnh núi rừng oai linh, cao cả, giàu có. Đó là nơi “bóng cả, cây già”, “tiếng gió gào ngàn”, “giọng nguồn hét núi”, “lá gai, cỏ sắc”, “thảo hoa”. Chỉ có nơi này mới xứng với chúa sơn lâm, nơi nó “thét khúc trường ca dữ dội”, nơi nó là “chúa tể muôn loài”.

+ Đoạn 3: Cảnh núi rừng lãng mạn, bi tráng. Đó là cảnh thơ mộng”những đêm vàng bên bờ suối”, con hổ “say mồi đứng uống ánh trăng tan”. Đó là cảnh hùng tráng khi “mưa chuyển bốn phương ngàn”, con hổ vẫn mang dáng vẻ của một bậc đế vương “Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới”. Đó là cảnh của những ngày yên bình “bình minh cây xanh nắng gội”, rộn rã “tiếng chim ca”, con hổ trong giấc ngủ bình yên. Đó là những cảnh dữ dội “chiểu lênh láng máu sau rừng”. Ở đây, con hổ hiện lên với một tư thế lẫm liệt, kiêu hùng

b. Nhận xét việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu các câu thơ đoạn 2 và 3:

– Từ ngữ: chọn lọc, sử dụng nhiều động từ mạnh, tính từ gợi hình, làm nổi vật sự hùng vĩ của núi rừng.

– Hình ảnh: Hình ảnh giàu sức gợi, chủ yếu là những hình ảnh nhân hóa, hình ảnh liên tưởng gợi sự hùng vĩ của đại ngàn, sự oai linh của chúa sơn lâm.

– Giọng điệu: Giọng điệu tự hào, cao ngạo đầy mạnh mẽ xen lẫn giọng điệu nhớ thương, uất hận.

c. Qua sự đối lập sâu sắc giữa hai cảnh tượng nêu trên, tâm sự của con hổ ở vườn bách thú: Nỗi căm hận cảnh tượng hiện tại, nhớ về rừng xanh với niềm tự hào khôn xiết, từ đó lại càng tiếc thương cho hoàn cảnh của mình. Tâm sự ấy cũng giống như tâm sự của người dân Việt Nam đương thời. Những người dân mất nước, tiếc nhớ một thời oanh liệt, yên bình của đất nước, căm thù hoàn cảnh đô hộ ở thực tại.

Câu 3 (trang 7 sgk Ngữ Văn 8 tập 2) :

– Tác dụng của việc mượn “lời con hổ ở vườn bách thú” là thích hợp vì:

+ Thể hiện được thái độ ngao ngán với thực tại tù túng, tầm thường, giả dối.

+ Khao khát vượt thoát để được tự do, không thỏa hiệp với hiện tại.

+ Hình ảnh con hổ bị nhốt trong vườn bách thú cũng là biểu tượng của sự giam cầm, mất tự do, thể hiện sự sa cơ, chiến bại, mang tâm sự uất hận.

+ Mượn lời con hổ để tránh sự kiểm duyệt ngặt nghèo của thực dân.

– Việc mượn lời của con hổ còn giúp tác giả thể hiện được tâm trạng, khát vọng tự do thầm kín của mình.

Câu 4 (trang 7 Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):

Câu nói của Hoài Thanh đề cao việc sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh, nhịp điệu của Thế Lữ:

+ Ngôn ngữ: Động từ mạnh, nhiều điệp từ, sử dụng ngôn ngữ một cách linh hoạt, chính xác.

+ Hình ảnh: Giàu liên tưởng, tưởng tượng, gợi sự mạnh mẽ, hùng tráng

+ Nhịp điệu: đa dạng, ngắt nhịp 5/5, 4/2/2, 3/5 theo dòng cảm xúc của con hổ.

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k7: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Các bài Soạn văn lớp 8 siêu ngắn được biên soạn bám sát câu hỏi sgk Ngữ Văn lớp 8 Tập 1, Tập 2 giúp bạn dễ dàng soạn bài Ngữ Văn 8 hơn.