Nghị Quyết 29/2012/Qh13 / Top 7 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Quy Định Chi Tiết Thi Hành Nghị Quyết Số 29/2012/Qh13

CHÍNH PHỦ

Số: 60/2012/NĐ-CPCỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập – Tự do – Hạnh phúc

Hà Nội, ngày 30 tháng 7 năm 2012

NGHỊ ĐỊNHQuy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 29/2012/QH13 về ban hành một số chính sách thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho tổ chức và cá nhân

Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;Căn cứ Luật quản lý thuế ngày 29 tháng 11 năm 2006;Căn cứ Luật thuế thu nhập cá nhân ngày 21 tháng 11 năm 2007;Căn cứ Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và Luật thuế giá trị gia tăng ngày 03 tháng 6 năm 2008;Căn cứ Nghị quyết số 29/2012/QH13 ngày 28 tháng 6 năm 2012 của Quốc hội về ban hành một số chính sách thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho tổ chức và cá nhân;Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính,Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 29/2012/QH13 về ban hành một số chính sách thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho tổ chức và cá nhân.Điều 1. Phạm vi điều chỉnhNghị định này quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 29/2012/QH13 ngày 21 tháng 6 năm 2012 của Quốc hội về ban hành một số chính sách thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho tổ chức và cá nhân.Điều 2. Giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2012 đối với doanh nghiệp quy định tại Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 29/2012/QH13 như sau:1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa, không bao gồm doanh nghiệp nhỏ và vừa kinh doanh trong lĩnh vực xổ số, bất động sản, chứng khoán, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, sản xuất hàng hoá, dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, doanh nghiệp được xếp hạng 1, hạng đặc biệt thuộc tập đoàn kinh tế, tổng công ty.a) Doanh nghiệp nhỏ và vừa được giảm thuế quy định tại Khoản này là doanh nghiệp, kể cả hợp tác xã (không bao gồm đơn vị sự nghiệp) đáp ứng các tiêu chí về vốn hoặc lao động theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30 tháng 6 năm 2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.Số vốn làm căn cứ xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa là tổng nguồn vốn được thể hiện trong Bảng cân đối kế toán lập ngày 31 tháng 12 năm 2011 của doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp thành lập mới từ ngày 01 tháng 01 năm 2012 thì số vốn làm căn cứ xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa là vốn điều lệ ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư lần đầu.Số lao động bình quân năm làm căn cứ xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa (bao gồm cả số lao động của chi nhánh và đơn vị trực thuộc) là số lao động mà doanh nghiệp sử dụng thường xuyên bình quân trong năm 2011, không kể lao động có hợp đồng ngắn hạn dưới 3 tháng. Số lao động sử dụng thường xuyên bình quân năm được xác định theo hướng dẫn của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.b) Không giảm thuế theo quy định tại Khoản này đối với:Doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ kinh doanh: Xổ số; bất động sản; chứng khoán; tài chính; ngân hàng; bảo hiểm; sản xuất hàng hoá, dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Trường hợp doanh nghiệp nhỏ và vừa có hoạt động kinh doanh trong nhiều lĩnh vực thì số thuế thu nhập doanh nghiệp được giảm không bao gồm số thuế tính trên phần thu nhập từ hoạt động kinh doanh xổ số, bất động sản, chứng khoán, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, sản xuất hàng hoá, dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.2. Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong lĩnh vực sản xuất, gia công, chế biến: Nông sản, lâm sản, thủy sản, dệt may, da giày, linh kiện điện tử; doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động xây dựng công trình hạ tầng kinh tế – xã hội.Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động thuộc đối tượng được giảm thuế tại Khoản này là doanh nghiệp có tổng số lao động sử dụng thường xuyên bình quân năm 2012 trên 300 người, không kể lao động có hợp đồng ngắn hạn dưới 3 tháng. Trường hợp doanh nghiệp tổ chức theo mô hình công ty mẹ – công ty con thì số lao động làm căn cứ xác định công ty mẹ thuộc đối tượng giảm thuế không bao gồm số lao động của công ty con.Số thuế thu nhập doanh nghiệp được giảm là số thuế tính trên thu nhập của hoạt động sản xuất, gia công, chế biến: Nông sản, lâm sản, thủy sản, dệt

Nghị Quyết 39/2012/Qh13 Của Quốc Hội Ban Hành Ngày 23/11/2012

chúng tôi độc quyền cung cấp bản dịch chính thống Công báo tiếng Anh của Thông Tấn Xã Việt Nam

Nghị quyết số: 39/2012/QH13

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Hà Nội, ngày 23 tháng 11 năm 2012 VỀ VIỆC TIẾP TỤC NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN ĐỐI VỚI CÁC QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH VỀ ĐẤT ĐAI

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10; Căn cứ Luật hoạt động giám sát của Quốc hội số 05/2003/QH11; Căn cứ Nghị quyết số 15/2011/QH13 về Chương trình hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2012; Trên cơ sở xem xét Báo cáo kết quả giám sát số 263/BC-UBTVQH13 ngày 5 tháng 11 năm 2012 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Báo cáo số 304/BC-CP ngày 26 tháng 10 năm 2012 của Chính phủ về việc thực hiện chính sách, pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định hành chính về đất đai và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội;

Quốc hội cơ bản tán thành nội dung Báo cáo kết quả giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện chính sách, pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định hành chính về đất đai .

Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém như: chưa bảo đảm sự thống nhất giữa các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo với các quy định của một số luật chuyên ngành trong việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai. Chủ trương, chính sách, pháp luật về đất đai hiện hành còn một số nội dung chưa đủ rõ, chưa thật đồng bộ. Một số văn bản hướng dẫn thi hành luật chưa kịp thời, chưa đầy đủ. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, định giá đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ và tái định cư, các thủ tục hành chính về đất đai còn nhiều hạn chế, chưa đảm bảo lợi ích của Nhà nước và người dân có đất bị thu hồi. Tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực đất đai còn lớn. Có nhiều quyết định hành chính về đất đai chưa bảo đảm trình tự, thủ tục, hình thức, thẩm quyền, nội dung theo quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn chậm, có nhiều sai sót. Hiệu lực, hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai chưa cao. Một số cơ quan có thẩm quyền chưa quan tâm đúng mức đến công tác tiếp dân; một bộ phận cán bộ, công chức thiếu gương mẫu, sa sút về phẩm chất đạo đức; công tác tuyên truyền, giáo dục và quán triệt các chủ trương, chính sách pháp luật về đất đai còn kém hiệu quả. Việc thanh tra, giám sát chưa thường xuyên và xử lý các hành vi sai phạm về đất đai chưa nghiêm, còn sai sót. Tình hình khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai còn diễn biến phức tạp, k hiếu nại đông người có xu hướng tăng lên.

Để thực hiện tốt chính sách, pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong việc ban hành, thực hiện các quyết định hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định hành chính về đất đai , Quốc hội yêu cầu tập trung thực hiện một số nội dung sau:

Sửa đổi, bổ sung Luật đất đai theo hướng cụ thể hóa tối đa các quy định đã áp dụng ổn định trong thực tiễn. Quy định rõ các quyền đại diện chủ sở hữu và quyền thống nhất quản lý của Nhà nước, quyền của người sử dụng đất, các trường hợp Nhà nước thu hồi đất. Công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Nhà nước chủ động thu hồi đất theo kế hoạch sử dụng đất hàng năm đã được phê duyệt. Việc giao đất, cho thuê đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế, xã hội được thực hiện chủ yếu thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất. Nhà nước quyết định chính sách điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất không phải do người sử dụng đất tạo ra, bảo đảm hài hoà về lợi ích của Nhà nước, của người sử dụng đất và của nhà đầu tư. Sửa đổi, bổ sung quy định về giá đất theo hướng giá đất do Nhà nước quy định theo mục đích sử dụng đất tại thời điểm định giá, bảo đảm nguyên tắc phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; Nhà nước ban hành khung giá đất, bảng giá đất và quy định về điều chỉnh khung giá đất, bảng giá đất bảo đảm linh hoạt, phù hợp với từng loại đất, các đối tượng sử dụng đất và các trường hợp giao đất, cho thuê đất; có cơ chế xử lý chênh lệch giá đất tại khu vực giáp ranh giữa các địa phương. Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, công khai, khách quan, công bằng và đúng quy định của pháp luật. Quy định cụ thể trình tự, thủ tục cưỡng chế thu hồi đất, cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về đất đai.

Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật đầy đủ, kịp thời, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hiện.

2. Trước năm 2015 cơ bản hoàn thành việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo bản đồ địa chính, trích đo địa chính có tọa độ. Bảo đảm kinh phí đáp ứng nhu cầu hoàn thiện và hiện đại hoá hệ thống bản đồ địa chính, hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu đất đai, thống nhất hệ thống hồ sơ địa chính trên cả nước. Hoàn thiện hệ thống điều tra, đánh giá tài nguyên đất, số lượng, chất lượng, tiềm năng và môi trường đất, bảo đảm cung cấp đầy đủ thông tin, tư liệu, dữ liệu về đất đai phục vụ cho việc hoạch định chính sách và ban hành quyết định của cơ quan nhà nước trong việc quản lý và sử dụng đất đai.

3. Thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước theo thẩm quyền chủ động xem xét từng vụ việc tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai trong phạm vi quản lý để giải quyết kịp thời, dứt điểm, công bố công khai kết quả giải quyết, không để khiếu kiện vượt cấp, diễn biến phức tạp, khiếu kiện đông người; chịu trách nhiệm về việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo. Nâng cao vai trò của Tòa án nhân dân các cấp trong việc giải quyết các khiếu kiện đối với các quyết định hành chính về đất đai. Từ nay đến cuối năm 2012, tập trung rà soát, có phương án giải quyết cơ bản 528 vụ việc phức tạp, tồn đọng, kéo dài.

4. Thực hiện nghiêm chế độ tiếp dân, kiện toàn về tổ chức và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiếp dân từ trung ương đến địa phương. Bố trí cán bộ có năng lực, đạo đức làm công tác quản lý nhà nước về đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là cấp huyện và cấp cơ sở. Chú trọng công tác hòa giải tại cơ sở và hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn; lãnh đạo các cấp chủ động, làm tốt công tác đối thoại trực tiếp với người khiếu nại, tố cáo bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Xử lý kiên quyết, nghiêm minh đối với các trường hợp lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để kích động, gây rối, làm mất trật tự an toàn xã hội.

5. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng thanh tra Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo nhiệm vụ được giao chỉ đạo thanh tra, kiểm tra công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với các quyết định hành chính về đất đai, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm. Kiên quyết xử lý cán bộ thiếu trách nhiệm trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham nhũng trong lĩnh vực đất đai.

6. Cơ quan, người có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính về đất đai phải chịu trách nhiệm về tính đúng đắn của quyết định ban hành; có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra để xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện các quyết định hành chính. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong quản lý nhà nước về đất đai. Áp dụng công nghệ thông tin trong việc tiếp nhận, thụ lý, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo của công dân, bảo đảm cung cấp đầy đủ thông tin cho các cơ quan có thẩm quyền về quá trình xem xét, xử lý, giải quyết, tránh tình trạng chồng chéo, trùng lắp, một vụ việc nhưng nhiều cơ quan hành chính, Tòa án cùng đồng thời giải quyết.

7. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, khắc phục tình trạng chuyển đơn thư lòng vòng, chậm giải quyết, né tránh trách nhiệm; không để xảy ra việc cấp có thẩm quyền đã xử lý đúng pháp luật nhưng cơ quan khác lại có ý kiến làm vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, cơ quan báo chí đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.

Quốc hội giao Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức thực hiện Nghị quyết và hàng năm báo cáo Quốc hội.

Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm giám sát việc thực hiện Nghị quyết này.

Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn tham gia giám sát và tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện Nghị quyết này.

Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 23 tháng 11 năm 2012.

Nghị quyết 39/2012/QH13 của Quốc hội về việc tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định hành chính về đất đai

Cơ quan ban hành:

Quốc hội

Số công báo:

Đã biết

Số hiệu:

39/2012/QH13

Ngày đăng công báo:

Đã biết

Loại văn bản:

Nghị quyết

Người ký:

Nguyễn Sinh Hùng

Ngày ban hành:

23/11/2012

Ngày hết hiệu lực:

Đang cập nhật

Áp dụng:

Đã biết

Tình trạng hiệu lực:

Đã biết

Lĩnh vực:

Đất đai-Nhà ở

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

* Lưu ý: Để đọc được văn bản tải trên chúng tôi bạn cần cài phần mềm đọc file DOC, DOCX và phần mềm đọc file PDF.

Văn bản này chưa có chỉ dẫn thay đổi

Nghị Quyết 37/2012/Qh13 Của Quốc Hội Ban Hành Ngày 23/11/2012

chúng tôi độc quyền cung cấp bản dịch chính thống Công báo tiếng Anh của Thông Tấn Xã Việt Nam

Xem có chú thích thay đổi nội dung

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10; Căn cứ Luật hoạt động giám sát của Quốc hội số 05/2003/QH11; Trên cơ sở xem xét các Báo cáo số 278/BC-CP ngày 16/10/2012 của Chính phủ về công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm năm 2012, Báo cáo số 289/BC-CP ngày 19/10/2012 của Chính phủ về công tác thi hành án năm 2012, Báo cáo số 116/BC-VKSTC ngày 08/10/2012 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2012, Báo cáo số 26/BC-TA ngày 09/10/2012 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công tác của các Tòa án, Báo cáo thẩm tra số 916/BC-UBTP13 ngày 20/10/2012 của Ủy ban tư pháp của Quốc hội và ý kiến các vị đại biểu Quốc hội; QUYẾT NGHỊ:

Điều 1 Năm 2012, tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động phức tạp, kinh tế – xã hội của đất nước gặp nhiều khó khăn, nhưng Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân đã nỗ lực triển khai nhiều biện pháp đấu tranh phòng, chống có hiệu quả vi phạm pháp luật và tội phạm; công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án có chuyển biến tích cực, bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, góp phần quan trọng vào việc duy trì ổn định và phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, phòng, chống tham nhũng, công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án còn có những hạn chế. Tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm, tham nhũng còn diễn biến phức tạp, trên một số lĩnh vực có xu hướng gia tăng, nghiêm trọng hơn cả về quy mô và tính chất. Công tác phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật và tội phạm, tham nhũng hiệu quả chưa cao, hiệu lực răn đe, phòng ngừa thấp. Tiến độ và chất lượng giải quyết nhiều vụ án, nhất là các vụ án về kinh tế, tham nhũng lớn, trọng điểm còn kéo dài, chưa nghiêm minh. Tranh tụng tại phiên tòa còn hạn chế. Việc xem xét, giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự chuyển biến chậm. Số bản án, quyết định về dân sự chưa được thi hành còn khá lớn. Số người bị kết án phạt tù trốn ngoài xã hội chưa truy bắt được còn nhiều; hiệu quả công tác giáo dục, cải tạo phạm nhân còn những hạn chế, số người tái phạm còn cao. Chưa triển khai được việc thi hành án tử hình bằng tiêm thuốc độc. Nhiều văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp luật chậm được ban hành. Tình trạng thiếu cán bộ có chức danh tư pháp, nhất là tại các tỉnh phía Nam, Tây Nguyên và miền núi phía Bắc kéo dài nhiều năm chưa được khắc phục. Năng lực và trách nhiệm của một bộ phận cán bộ tư pháp còn yếu, nhiều trường hợp tiêu cực, sa sút phẩm chất đạo đức, vi phạm pháp luật, một số trường hợp phải xử lý hình sự.

Điều 2 Quốc hội ghi nhận các giải pháp mà Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao đã đề ra và yêu cầu năm 2013 tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp và đạt được những chỉ tiêu cụ thể sau đây:

1. Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ các giải pháp, chủ động khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong hoạch định và thực thi chính sách, pháp luật để kiềm chế sự gia tăng của vi phạm pháp luật và tội phạm; tiếp tục giảm tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường, vi phạm trật tự xây dựng, mất vệ sinh an toàn thực phẩm, cháy nổ, tai nạn lao động, tệ nạn xã hội và các vi phạm pháp luật khác; thực hiện có hiệu quả Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm; phòng, chống ma túy; phòng, chống mua bán người. Quản lý chặt chẽ mạng internet để ngăn chặn kịp thời những thông tin xấu, văn hóa phẩm độc hại; kết hợp tuyên truyền, vận động, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật với việc xử lý nghiêm vi phạm pháp luật, tội phạm, tham nhũng, tạo sự chuyển biến rõ rệt trong năm 2013, tạo đà ngăn chặn, từng bước đẩy lùi vi phạm pháp luật, tội phạm, tham nhũng trong những năm tiếp theo. Các cơ quan điều tra phải xác minh đầy đủ, xử lý theo quy định của pháp luật các tố giác, tin báo về tội phạm; phát hiện, điều tra có hiệu quả các loại tội phạm, hạn chế tình trạng bỏ lọt tội phạm; cơ bản khắc phục tình trạng vi phạm pháp luật trong công tác bắt, tạm giữ, tạm giam; bảo đảm chất lượng thu thập chứng cứ và lập hồ sơ các vụ án hình sự; chủ động phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động điều tra với thanh tra, kiểm toán, kiểm sát, giám định tài chính, kế toán; nâng cao tỷ lệ phát hiện và xử lý nghiêm các vụ án về kinh tế, chức vụ, tham nhũng. Nâng tỷ lệ xử lý tố giác, tin báo về tội phạm đạt trên 90%; điều tra, khám phá các loại tội phạm đạt trên 70%, các tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng đạt trên 90% trên tổng số án khởi tố. Giảm ít nhất 1% số người tạm giữ hình sự sau đó chuyển xử lý hành chính vì hành vi không cấu thành tội phạm so với năm 2012. Giảm số đối tượng bị tạm giữ, tạm giam chết thuộc trách nhiệm quản lý của nhà tạm giữ, trại tạm giam; cơ bản khắc phục tình trạng tạm giữ, tạm giam chung người trong cùng vụ án, người chưa thành niên với người thành niên; tạo điều kiện để luật sư tham gia tố tụng theo đúng quy định của pháp luật. Từ năm 2013, Chính phủ phải báo cáo, đánh giá đầy đủ tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm xảy ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội; kết quả xử lý; phân tích nguyên nhân và đề ra biện pháp khắc phục.

2. Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ đạo các Viện kiểm sát áp dụng đồng bộ các giải pháp, bảo đảm thực hành quyền công tố, làm tốt hơn công tác kiểm sát xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, kiểm sát 100% số vụ án hình sự ngay từ khi khởi tố, kiểm sát chặt chẽ các hoạt động điều tra, kịp thời đề ra yêu cầu điều tra để chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; phát hiện kịp thời và yêu cầu xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Ra quyết định truy tố đúng thời hạn trên 90% số vụ án hình sự đã có kết luận điều tra đề nghị truy tố; bảo đảm truy tố bị can đúng tội đạt trên 95%. Kiểm sát viên phải chủ động, tích cực tranh luận, đối đáp tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự. Bảo đảm các kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các loại án phải có căn cứ và đúng pháp luật, nâng tỷ lệ các kháng nghị được Tòa án chấp nhận đạt trên 70%. Từ năm 2013, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải báo cáo, đánh giá đầy đủ tình hình vi phạm pháp luật trong các hoạt động tư pháp; thống kê, phân tích tội phạm và đề xuất các biện pháp phòng ngừa tội phạm thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân.

3. Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo các Tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa; bảo đảm việc giải quyết, xét xử và ra bản án, quyết định đúng pháp luật, nhất là đối với các vụ án dân sự, hành chính. Nâng tỷ lệ hòa giải thành các vụ việc dân sự và tăng số vụ án hình sự xét xử lưu động; không để xảy ra trường hợp kết án oan người không phạm tội, giảm ít nhất 1% tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan so với năm 2012; chấm dứt việc trả hồ sơ điều tra bổ sung không đúng quy định của pháp luật; khắc phục tình trạng bản án, quyết định tuyên không rõ ràng gây khó khăn cho công tác thi hành án. Việc cho bị cáo hưởng án treo, cải tạo không giam giữ phải đúng quy định của pháp luật; khắc phục triệt để tình trạng án quá hạn luật định, nhất là các vụ án dân sự được giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Đẩy nhanh tiến độ và nâng tỷ lệ giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đạt trên 60%; cơ bản khắc phục tình trạng đã trả lời không có căn cứ kháng nghị nhưng sau đó lại phải kháng nghị để giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm; bảo đảm ra quyết định thi hành án hình sự đúng thời hạn luật định đối với người bị kết án đạt tỷ lệ 100%. Việc hoãn, tạm đình chỉ thi hành án, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù phải đúng pháp luật; chấm dứt tình trạng chậm gửi bản án, quyết định của Tòa án cho đương sự và các cơ quan hữu quan. Từ năm 2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải báo cáo, đánh giá tình hình hoạt động và chất lượng của đội ngũ Hội thẩm nhân dân.

4. Chính phủ chỉ đạo Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp và Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện các giải pháp chủ động, quyết liệt, mang tính đột phá để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án; bảo đảm chính xác, đúng pháp luật trong việc xác minh, phân loại án dân sự có điều kiện thi hành và chưa có điều kiện thi hành; phối hợp chặt chẽ với Tòa án, Viện kiểm sát, bảo đảm các trường hợp được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, đặc xá đúng mục đích, yêu cầu theo quy định của pháp luật. Giảm mạnh số bị án phạt tù trốn ngoài xã hội; hạn chế các trường hợp phạm nhân chết do đánh nhau, tự sát, vi phạm pháp luật, tiếp tục phạm tội trong các trại giam. Chấm dứt tình trạng để lại số phạm nhân tại các trại tạm giam, nhà tạm giữ không đúng tỷ lệ và mức án theo quy định của Luật thi hành án hình sự. Bảo đảm 100% cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện có cán bộ chuyên trách theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ. Khẩn trương tổ chức thi hành án tử hình theo đúng quy định của pháp luật. Năm 2013, tỷ lệ thi hành án dân sự xong đạt trên 88% về việc, trên 77% về tiền trên tổng số án có điều kiện thi hành. Ra quyết định thi hành án đúng thời hạn đối với 100% các bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực theo đúng quy định của pháp luật; cơ bản khắc phục tình trạng vi phạm pháp luật trong hoạt động thi hành án.

5. Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao tập trung xây dựng và tổ chức thực hiện các Đề án về cải cách tư pháp bảo đảm chất lượng, tiến độ; khắc phục tình trạng thiếu cán bộ có chức danh tư pháp, phấn đấu đến năm 2015 cơ bản tuyển dụng đủ cán bộ tư pháp; thường xuyên kiểm tra, thanh tra nội bộ, kỷ luật công vụ; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các sai phạm, tiêu cực; đổi mới công tác đào tạo, đào tạo lại, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, giáo dục chính trị, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, công chức nhằm xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh. Khẩn trương tổng kết việc thi hành Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, các luật về tổ chức các cơ quan tư pháp và soạn thảo các dự án luật (sửa đổi) này để trình Quốc hội xem xét thông qua theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII; đẩy nhanh tiến độ ban hành và nâng cao chất lượng các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp luật; chủ động đề xuất và trình Ủy ban thường vụ Quốc hội giải thích pháp luật để tháo gỡ vướng mắc, khó khăn cho hoạt động tư pháp.

6. Chính phủ tạo điều kiện về ngân sách đầu tư xây dựng trụ sở và phương tiện làm việc để các cơ quan tư pháp, các lực lượng trực tiếp đấu tranh chống vi phạm pháp luật và tội phạm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.

Điều 3 Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của Quốc hội và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ 6 (năm 2013).

Điều 4 Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban tư pháp và các Ủy ban khác của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên giám sát thực hiện Nghị quyết này. Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 23 tháng 11 năm 2012.

chúng tôi độc quyền cung cấp bản dịch chính thống Công báo tiếng Anh của Thông Tấn Xã Việt Nam

VỀ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ TỘI PHẠM, CÔNG TÁC CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN, CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN VÀ CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN NĂM 2013

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10; Căn cứ Luật hoạt động giám sát của Quốc hội số 05/2003/QH11; Trên cơ sở xem xét các Báo cáo số 278/BC-CP ngày 16/10/2012 của Chính phủ về công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm năm 2012, Báo cáo số 289/BC-CP ngày 19/10/2012 của Chính phủ về công tác thi hành án năm 2012, Báo cáo số 116/BC-VKSTC ngày 08/10/2012 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2012, Báo cáo số 26/BC-TA ngày 09/10/2012 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công tác của các Tòa án, Báo cáo thẩm tra số 916/BC-UBTP13 ngày 20/10/2012 của Ủy ban tư pháp của Quốc hội và ý kiến các vị đại biểu Quốc hội;

Năm 2012, tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động phức tạp, kinh tế – xã hội của đất nước gặp nhiều khó khăn, nhưng Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân đã nỗ lực triển khai nhiều biện pháp đấu tranh phòng, chống có hiệu quả vi phạm pháp luật và tội phạm; công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án có chuyển biến tích cực, bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, góp phần quan trọng vào việc duy trì ổn định và phát triển kinh tế – xã hội.

Tuy nhiên, công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, phòng, chống tham nhũng, công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án còn có những hạn chế. Tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm, tham nhũng còn diễn biến phức tạp, trên một số lĩnh vực có xu hướng gia tăng, nghiêm trọng hơn cả về quy mô và tính chất. Công tác phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật và tội phạm, tham nhũng hiệu quả chưa cao, hiệu lực răn đe, phòng ngừa thấp. Tiến độ và chất lượng giải quyết nhiều vụ án, nhất là các vụ án về kinh tế, tham nhũng lớn, trọng điểm còn kéo dài, chưa nghiêm minh. Tranh tụng tại phiên tòa còn hạn chế. Việc xem xét, giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự chuyển biến chậm. Số bản án, quyết định về dân sự chưa được thi hành còn khá lớn. Số người bị kết án phạt tù trốn ngoài xã hội chưa truy bắt được còn nhiều; hiệu quả công tác giáo dục, cải tạo phạm nhân còn những hạn chế, số người tái phạm còn cao. Chưa triển khai được việc thi hành án tử hình bằng tiêm thuốc độc. Nhiều văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp luật chậm được ban hành. Tình trạng thiếu cán bộ có chức danh tư pháp, nhất là tại các tỉnh phía Nam, Tây Nguyên và miền núi phía Bắc kéo dài nhiều năm chưa được khắc phục. Năng lực và trách nhiệm của một bộ phận cán bộ tư pháp còn yếu, nhiều trường hợp tiêu cực, sa sút phẩm chất đạo đức, vi phạm pháp luật, một số trường hợp phải xử lý hình sự.

Quốc hội ghi nhận các giải pháp mà Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao đã đề ra và yêu cầu năm 2013 tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp và đạt được những chỉ tiêu cụ thể sau đây:

1. Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ các giải pháp, chủ động khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong hoạch định và thực thi chính sách, pháp luật để kiềm chế sự gia tăng của vi phạm pháp luật và tội phạm; tiếp tục giảm tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường, vi phạm trật tự xây dựng, mất vệ sinh an toàn thực phẩm, cháy nổ, tai nạn lao động, tệ nạn xã hội và các vi phạm pháp luật khác; thực hiện có hiệu quả Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm; phòng, chống ma túy; phòng, chống mua bán người. Quản lý chặt chẽ mạng internet để ngăn chặn kịp thời những thông tin xấu, văn hóa phẩm độc hại; kết hợp tuyên truyền, vận động, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật với việc xử lý nghiêm vi phạm pháp luật, tội phạm, tham nhũng, tạo sự chuyển biến rõ rệt trong năm 2013, tạo đà ngăn chặn, từng bước đẩy lùi vi phạm pháp luật, tội phạm, tham nhũng trong những năm tiếp theo.

Các cơ quan điều tra phải xác minh đầy đủ, xử lý theo quy định của pháp luật các tố giác, tin báo về tội phạm; phát hiện, điều tra có hiệu quả các loại tội phạm, hạn chế tình trạng bỏ lọt tội phạm; cơ bản khắc phục tình trạng vi phạm pháp luật trong công tác bắt, tạm giữ, tạm giam; bảo đảm chất lượng thu thập chứng cứ và lập hồ sơ các vụ án hình sự; chủ động phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động điều tra với thanh tra, kiểm toán, kiểm sát, giám định tài chính, kế toán; nâng cao tỷ lệ phát hiện và xử lý nghiêm các vụ án về kinh tế, chức vụ, tham nhũng.

Nâng tỷ lệ xử lý tố giác, tin báo về tội phạm đạt trên 90%; điều tra, khám phá các loại tội phạm đạt trên 70%, các tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng đạt trên 90% trên tổng số án khởi tố. Giảm ít nhất 1% số người tạm giữ hình sự sau đó chuyển xử lý hành chính vì hành vi không cấu thành tội phạm so với năm 2012. Giảm số đối tượng bị tạm giữ, tạm giam chết thuộc trách nhiệm quản lý của nhà tạm giữ, trại tạm giam; cơ bản khắc phục tình trạng tạm giữ, tạm giam chung người trong cùng vụ án, người chưa thành niên với người thành niên; tạo điều kiện để luật sư tham gia tố tụng theo đúng quy định của pháp luật.

Từ năm 2013, Chính phủ phải báo cáo, đánh giá đầy đủ tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm xảy ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội; kết quả xử lý; phân tích nguyên nhân và đề ra biện pháp khắc phục.

2. Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ đạo các Viện kiểm sát áp dụng đồng bộ các giải pháp, bảo đảm thực hành quyền công tố, làm tốt hơn công tác kiểm sát xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, kiểm sát 100% số vụ án hình sự ngay từ khi khởi tố, kiểm sát chặt chẽ các hoạt động điều tra, kịp thời đề ra yêu cầu điều tra để chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; phát hiện kịp thời và yêu cầu xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Ra quyết định truy tố đúng thời hạn trên 90% số vụ án hình sự đã có kết luận điều tra đề nghị truy tố; bảo đảm truy tố bị can đúng tội đạt trên 95%. Kiểm sát viên phải chủ động, tích cực tranh luận, đối đáp tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự. Bảo đảm các kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các loại án phải có căn cứ và đúng pháp luật, nâng tỷ lệ các kháng nghị được Tòa án chấp nhận đạt trên 70%.

Từ năm 2013, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải báo cáo, đánh giá đầy đủ tình hình vi phạm pháp luật trong các hoạt động tư pháp; thống kê, phân tích tội phạm và đề xuất các biện pháp phòng ngừa tội phạm thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân.

3. Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo các Tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa; bảo đảm việc giải quyết, xét xử và ra bản án, quyết định đúng pháp luật, nhất là đối với các vụ án dân sự, hành chính. Nâng tỷ lệ hòa giải thành các vụ việc dân sự và tăng số vụ án hình sự xét xử lưu động; không để xảy ra trường hợp kết án oan người không phạm tội, giảm ít nhất 1% tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan so với năm 2012; chấm dứt việc trả hồ sơ điều tra bổ sung không đúng quy định của pháp luật; khắc phục tình trạng bản án, quyết định tuyên không rõ ràng gây khó khăn cho công tác thi hành án. Việc cho bị cáo hưởng án treo, cải tạo không giam giữ phải đúng quy định của pháp luật; khắc phục triệt để tình trạng án quá hạn luật định, nhất là các vụ án dân sự được giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Đẩy nhanh tiến độ và nâng tỷ lệ giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đạt trên 60%; cơ bản khắc phục tình trạng đã trả lời không có căn cứ kháng nghị nhưng sau đó lại phải kháng nghị để giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm; bảo đảm ra quyết định thi hành án hình sự đúng thời hạn luật định đối với người bị kết án đạt tỷ lệ 100%. Việc hoãn, tạm đình chỉ thi hành án, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù phải đúng pháp luật; chấm dứt tình trạng chậm gửi bản án, quyết định của Tòa án cho đương sự và các cơ quan hữu quan.

Từ năm 2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải báo cáo, đánh giá tình hình hoạt động và chất lượng của đội ngũ Hội thẩm nhân dân.

4. Chính phủ chỉ đạo Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp và Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện các giải pháp chủ động, quyết liệt, mang tính đột phá để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án; bảo đảm chính xác, đúng pháp luật trong việc xác minh, phân loại án dân sự có điều kiện thi hành và chưa có điều kiện thi hành; phối hợp chặt chẽ với Tòa án, Viện kiểm sát, bảo đảm các trường hợp được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, đặc xá đúng mục đích, yêu cầu theo quy định của pháp luật.

Giảm mạnh số bị án phạt tù trốn ngoài xã hội; hạn chế các trường hợp phạm nhân chết do đánh nhau, tự sát, vi phạm pháp luật, tiếp tục phạm tội trong các trại giam. Chấm dứt tình trạng để lại số phạm nhân tại các trại tạm giam, nhà tạm giữ không đúng tỷ lệ và mức án theo quy định của Luật thi hành án hình sự. Bảo đảm 100% cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện có cán bộ chuyên trách theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ. Khẩn trương tổ chức thi hành án tử hình theo đúng quy định của pháp luật.

Năm 2013, tỷ lệ thi hành án dân sự xong đạt trên 88% về việc, trên 77% về tiền trên tổng số án có điều kiện thi hành. Ra quyết định thi hành án đúng thời hạn đối với 100% các bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực theo đúng quy định của pháp luật; cơ bản khắc phục tình trạng vi phạm pháp luật trong hoạt động thi hành án.

5. Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao tập trung xây dựng và tổ chức thực hiện các Đề án về cải cách tư pháp bảo đảm chất lượng, tiến độ; khắc phục tình trạng thiếu cán bộ có chức danh tư pháp, phấn đấu đến năm 2015 cơ bản tuyển dụng đủ cán bộ tư pháp; thường xuyên kiểm tra, thanh tra nội bộ, kỷ luật công vụ; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các sai phạm, tiêu cực; đổi mới công tác đào tạo, đào tạo lại, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, giáo dục chính trị, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, công chức nhằm xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh. Khẩn trương tổng kết việc thi hành Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, các luật về tổ chức các cơ quan tư pháp và soạn thảo các dự án luật (sửa đổi) này để trình Quốc hội xem xét thông qua theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII; đẩy nhanh tiến độ ban hành và nâng cao chất lượng các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp luật; chủ động đề xuất và trình Ủy ban thường vụ Quốc hội giải thích pháp luật để tháo gỡ vướng mắc, khó khăn cho hoạt động tư pháp.

6. Chính phủ tạo điều kiện về ngân sách đầu tư xây dựng trụ sở và phương tiện làm việc để các cơ quan tư pháp, các lực lượng trực tiếp đấu tranh chống vi phạm pháp luật và tội phạm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.

Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của Quốc hội và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ 6 (năm 2013).

Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban tư pháp và các Ủy ban khác của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên giám sát thực hiện Nghị quyết này.

Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 23 tháng 11 năm 2012. * Lưu ý: Để đọc được văn bản tải trên chúng tôi bạn cần cài phần mềm đọc file DOC, DOCX và phần mềm đọc file PDF.

Luật Bảo Hiểm Tiền Gửi 2012 Số 06/2012/Qh13

Luật Bảo hiểm tiền gửi 2012

Luật Bảo hiểm tiền gửi 2012 số 06/2012/QH13

LUẬT BẢO HIỂM TIỀN GỬI

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10; Quốc hội ban hành Luật bảo hiểm tiền gửi. Chương I NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Luật này quy định về hoạt động bảo hiểm tiền gửi, quyền và nghĩa vụ của người được bảo hiểm tiền gửi, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi và quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi.

Điều 3. Mục đích của bảo hiểm tiền gửi

Bảo hiểm tiền gửi nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.

1. Bảo hiểm tiền gửi là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người được bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản.

2. Người được bảo hiểm tiền gửi là cá nhân có tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.

3. Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng được nhận tiền gửi của cá nhân.

4. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tài chính nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, thực hiện chính sách bảo hiểm tiền gửi, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.

5. Phí bảo hiểm tiền gửi là khoản tiền mà tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải nộp cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi để bảo hiểm cho tiền gửi của người được bảo hiểm tiền gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.

Điều 5. Nguyên tắc bảo hiểm tiền gửi

1. Bảo hiểm tiền gửi là loại hình bảo hiểm bắt buộc theo quy định của Luật này.

2. Hoạt động bảo hiểm tiền gửi phải công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được bảo hiểm tiền gửi, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi.

Điều 6. Tham gia bảo hiểm tiền gửi

1. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

2. Ngân hàng chính sách không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi.

Điều 7. Chính sách của nhà nước về bảo hiểm tiền gửi

1. Nhà nước có chính sách bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền.

2. Nhà nước có chính sách quản lý, sử dụng nhằm bảo toàn và tăng trưởng nguồn vốn của tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Nguồn thu của tổ chức bảo hiểm tiền gửi được miễn nộp các loại thuế.

Điều 8. Cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi

1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi.

2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi.

3. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi.

4. Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi tại địa phương.

Điều 9. Trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

1. Ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về bảo hiểm tiền gửi.

2. Trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển bảo hiểm tiền gửi.

3. Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm tiền gửi.

4. Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định việc tham gia tổ chức quốc tế về bảo hiểm tiền gửi của tổ chức bảo hiểm tiền gửi.5. Ký kết thỏa thuận quốc tế hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ký kết, gia nhập điều ước quốc tế về bảo hiểm tiền gửi.

Điều 10. Các hành vi bị cấm

1. Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi không nộp phí bảo hiểm tiền gửi.

2. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi không chi trả hoặc chi trả không đầy đủ tiền bảo hiểm.

3. Gian lận, giả mạo hồ sơ, tài liệu, giấy tờ về bảo hiểm tiền gửi.

5. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái các quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi.

Chương II QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI ĐƯỢC BẢO HIỂM TIỀN GỬI, TỔ CHỨC THAM GIA BẢO HIỂM TIỀN GỬI, TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI Điều 11. Quyền và nghĩa vụ của người được bảo hiểm tiền gửi

1. Được bảo hiểm số tiền gửi của mình tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của Luật này.

2. Được nhận tiền bảo hiểm đầy đủ và đúng thời hạn theo quy định của Luật này.

3. Yêu cầu tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin, chế độ về bảo hiểm tiền gửi.

5. Có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin về tiền gửi theo yêu cầu của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi khi thực hiện thủ tục trả tiền bảo hiểm.

Điều 12. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi

1. Nộp hồ sơ đề nghị cấp Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi.

2. Được cấp Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi.

3. Nộp phí bảo hiểm tiền gửi đầy đủ và đúng thời hạn.

4. Yêu cầu tổ chức bảo hiểm tiền gửi chi trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm tiền gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm.

6. Cung cấp thông tin về tiền gửi được bảo hiểm cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi theo định kỳ hoặc theo yêu cầu của tổ chức bảo hiểm tiền gửi.