Nghị Quyết 30 Của Chính Phủ Về Cải Cách Hành Chính / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Thực Hiện Nghị Quyết 30C Của Chính Phủ: Nhiều Chuyển Biến Trong Cải Cách Hành Chính

– Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sâu sát của Tỉnh ủy, UBND tỉnh; hướng dẫn về công tác CCHC của Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ và các bộ, ngành trung ương và sự phối hợp của các sở, ban ngành, địa phương, việc triển khai thực hiện Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011-2020 của Chính phủ trên địa bàn tỉnh đạt nhiều kết quả, cơ bản hoàn thành các nhiệm vụ.

* Xin đồng chí cho biết cụ thể hơn về những kết quả nổi bật trong thực hiện CCHC của tỉnh giai đoạn này?  – Thực hiện Nghị quyết 30c của Chính phủ, UBND tỉnh đã xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện trên toàn tỉnh và đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Đó là, công tác xây dựng, kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật được thực hiện nghiêm túc. Chất lượng văn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền quy định. Công tác kiểm soát thủ tục hành chính (TTHC) được thực hiện thường xuyên; kịp thời sửa đổi, bổ sung TTHC theo hướng đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện đối với nhân dân và doanh nghiệp. Việc giải quyết TTHC theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” được đảm bảo theo quy định, chất lượng giải quyết được nâng cao. Việc đưa Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh đi vào hoạt động đã tạo chuyển biến tích cực trong việc đẩy mạnh cải cách TTHC. Mở rộng hình thức, phạm vi công khai, minh bạch hóa TTHC và các thông tin quản lý nhà nước, tập trung cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư. Mở rộng hình thức, nâng cao chất lượng của việc đánh giá mức độ hài lòng của công dân, tổ chức, lấy kết quả đánh giá làm thước đo về chất lượng phục vụ dịch vụ hành chính công.  Sắp xếp tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn; công tác đào tạo, bồi dưỡng được chú trọng; thực hiện cơ chế tự chủ đã tạo quyền chủ động cho các cơ quan, đơn vị. Ứng dụng công nghệ thông tin được triển khai một cách đồng bộ từ cấp tỉnh đến cơ sở, từng bước xây dựng chính quyền điện tử. Nổi bật là, hệ thống một cửa điện tử hiện đại tỉnh giúp cho việc điều hành, xử lý công việc của các cơ quan được nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian, chi phí tiến tới xóa bỏ việc lạm dụng giấy tờ trong hoạt động hành chính.  * Qua thực tế 10 năm triển khai thực hiện Chương trình tổng thể CCHC nhà nước theo Nghị quyết 30c của Chính phủ, tỉnh đã rút ra những bài học kinh nghiệm gì, thưa đồng chí?  – Có 6 bài học kinh nghiệm được rút ra trong quá trình triển khai công tác CCHC của tỉnh giai đoạn này.  Công chức Trung tâm Hành chính công của tỉnh, ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết công việc cho công dân. Ảnh: NGUYỄN HƯNG Một là, CCHC nhà nước phải có sự quan tâm, cùng chung tay của cả hệ thống chính trị và sự chỉ đạo, điều hành, đôn đốc kiểm tra thường xuyên của lãnh đạo các cấp. Đây là động lực lớn thúc đẩy các giải pháp về CCHC được triển khai hiệu quả trên thực tế. Hai là, để đạt được hiệu quả cao trong CCHC nhà nước, nhận thức của người đứng đầu các cấp, ngành về mục tiêu, ý nghĩa, tầm quan trọng của CCHC và quá trình CCHC cần được tiến hành một cách kiên trì, liên tục, lâu dài và toàn diện. Thực tế cho thấy, nơi nào thủ trưởng cơ quan, đơn vị quan tâm chỉ đạo tốt thì hiệu quả triển khai rất tốt.  Ba là, từng cơ quan, đơn vị phải chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện công tác CCHC của đơn vị, địa phương mình với mục tiêu, hoạt động, phân công, phân nhiệm cụ thể, rõ ràng, gắn với thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, phù hợp với tình hình thực tiễn.  Bốn là, CCHC phải gắn liền với Quy chế thực hiện dân chủ tại cơ quan, đơn vị, địa phương; phát huy được sức mạnh tập thể, tạo sự đồng thuận cao của nhân dân cùng thực hiện, giám sát, kiểm tra, góp ý xây dựng nền hành chính hoàn thiện hơn.  Cán bộ ngành công an làm chứng minh nhân dân cho người dân tại Trung tâm Phục vụ hành chính công của tỉnh. Ảnh: NGUYỄN HƯNG Năm là, phải quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức “vừa hồng vừa chuyên”; thực hiện tuyển dụng, bố trí, đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có đủ năng lực, có khả năng đáp ứng được các yêu cầu CCHC ngày càng cao trong giai đoạn hiện nay.  Sáu là, CCHC trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phải gắn với thực hiện chính quyền điện tử và công nghệ thông tin là công cụ để thực hiện mục tiêu cải cách.

Thực hiện Nghị quyết 30c của Chính phủ, việc giải quyết TTHC theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” được đảm bảo theo quy định, chất lượng giải quyết được nâng cao. Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh đi vào hoạt động đã tạo chuyển biến tích cực trong việc đẩy mạnh cải cách TTHC.

– UBND tỉnh kiến nghị Chính phủ sớm ban hành văn bản sửa đổi Nghị định 85 về cơ chế hoạt động, tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập và giá dịch vụ khám, chữa bệnh của các cơ sở khám, chữa bệnh công lập; sớm ban hành các nghị định quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong từng lĩnh vực. Kiến nghị Bộ Tài chính sớm ban hành các định mức kinh tế – kỹ thuật áp dụng trong các lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công và các tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ sự nghiệp công; Bộ Nội vụ ban hành quy định, hướng dẫn về thành lập các phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc các sở, ngành nhằm giảm bớt đầu mối trung gian.  Đồng thời đề xuất Chính phủ mở rộng các chính sách ưu đãi hiện hành để khuyến khích xã hội hóa; có chủ trương đổi mới cơ cấu đầu tư, phương thức đầu tư từ ngân sách nhà nước đối với các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng xác định giá trị tài sản để giao cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao vốn như doanh nghiệp. Đề nghị Bộ TT-TT sớm ban hành đề án Chuyển giao một số nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công; có cơ chế giảm chi phí cấp và phí sử dụng chứng thư số cho người dân, doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ của tỉnh để khuyến khích người dân, doanh nghiệp sử dụng chữ ký số trong các giao dịch điện tử.  Các cấp, ngành tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát quá trình cấp phép đầu tư và triển khai dự án nhằm tạo sự phối hợp đồng bộ và kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho nhà đầu tư khi triển khai dự án, đảm bảo các dự án được cấp phép phù hợp với quy hoạch chung và theo đúng trình tự quy định…  * Xin cảm ơn đồng chí! 

– Thực hiện Nghị quyết 30c của Chính phủ, UBND tỉnh đã xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện trên toàn tỉnh và đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Đó là, công tác xây dựng, kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật được thực hiện nghiêm túc. Chất lượng văn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền quy định. Công tác kiểm soát thủ tục hành chính (TTHC) được thực hiện thường xuyên; kịp thời sửa đổi, bổ sung TTHC theo hướng đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện đối với nhân dân và doanh nghiệp. Việc giải quyết TTHC theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” được đảm bảo theo quy định, chất lượng giải quyết được nâng cao. Việc đưa Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh đi vào hoạt động đã tạo chuyển biến tích cực trong việc đẩy mạnh cải cách TTHC. Mở rộng hình thức, phạm vi công khai, minh bạch hóa TTHC và các thông tin quản lý nhà nước, tập trung cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư. Mở rộng hình thức, nâng cao chất lượng của việc đánh giá mức độ hài lòng của công dân, tổ chức, lấy kết quả đánh giá làm thước đo về chất lượng phục vụ dịch vụ hành chính công.Sắp xếp tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn; công tác đào tạo, bồi dưỡng được chú trọng; thực hiện cơ chế tự chủ đã tạo quyền chủ động cho các cơ quan, đơn vị. Ứng dụng công nghệ thông tin được triển khai một cách đồng bộ từ cấp tỉnh đến cơ sở, từng bước xây dựng chính quyền điện tử. Nổi bật là, hệ thống một cửa điện tử hiện đại tỉnh giúp cho việc điều hành, xử lý công việc của các cơ quan được nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian, chi phí tiến tới xóa bỏ việc lạm dụng giấy tờ trong hoạt động hành chính.- Có 6 bài học kinh nghiệm được rút ra trong quá trình triển khai công tác CCHC của tỉnh giai đoạn này.Một là, CCHC nhà nước phải có sự quan tâm, cùng chung tay của cả hệ thống chính trị và sự chỉ đạo, điều hành, đôn đốc kiểm tra thường xuyên của lãnh đạo các cấp. Đây là động lực lớn thúc đẩy các giải pháp về CCHC được triển khai hiệu quả trên thực tế.Hai là, để đạt được hiệu quả cao trong CCHC nhà nước, nhận thức của người đứng đầu các cấp, ngành về mục tiêu, ý nghĩa, tầm quan trọng của CCHC và quá trình CCHC cần được tiến hành một cách kiên trì, liên tục, lâu dài và toàn diện. Thực tế cho thấy, nơi nào thủ trưởng cơ quan, đơn vị quan tâm chỉ đạo tốt thì hiệu quả triển khai rất tốt.Ba là, từng cơ quan, đơn vị phải chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện công tác CCHC của đơn vị, địa phương mình với mục tiêu, hoạt động, phân công, phân nhiệm cụ thể, rõ ràng, gắn với thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, phù hợp với tình hình thực tiễn.Bốn là, CCHC phải gắn liền với Quy chế thực hiện dân chủ tại cơ quan, đơn vị, địa phương; phát huy được sức mạnh tập thể, tạo sự đồng thuận cao của nhân dân cùng thực hiện, giám sát, kiểm tra, góp ý xây dựng nền hành chính hoàn thiện hơn.Năm là, phải quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức “vừa hồng vừa chuyên”; thực hiện tuyển dụng, bố trí, đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có đủ năng lực, có khả năng đáp ứng được các yêu cầu CCHC ngày càng cao trong giai đoạn hiện nay.Sáu là, CCHC trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phải gắn với thực hiện chính quyền điện tử và công nghệ thông tin là công cụ để thực hiện mục tiêu cải cách.- UBND tỉnh kiến nghị Chính phủ sớm ban hành văn bản sửa đổi Nghị định 85 về cơ chế hoạt động, tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập và giá dịch vụ khám, chữa bệnh của các cơ sở khám, chữa bệnh công lập; sớm ban hành các nghị định quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong từng lĩnh vực. Kiến nghị Bộ Tài chính sớm ban hành các định mức kinh tế – kỹ thuật áp dụng trong các lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công và các tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ sự nghiệp công; Bộ Nội vụ ban hành quy định, hướng dẫn về thành lập các phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc các sở, ngành nhằm giảm bớt đầu mối trung gian.Đồng thời đề xuất Chính phủ mở rộng các chính sách ưu đãi hiện hành để khuyến khích xã hội hóa; có chủ trương đổi mới cơ cấu đầu tư, phương thức đầu tư từ ngân sách nhà nước đối với các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng xác định giá trị tài sản để giao cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao vốn như doanh nghiệp. Đề nghị Bộ TT-TT sớm ban hành đề án Chuyển giao một số nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công; có cơ chế giảm chi phí cấp và phí sử dụng chứng thư số cho người dân, doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ của tỉnh để khuyến khích người dân, doanh nghiệp sử dụng chữ ký số trong các giao dịch điện tử.Các cấp, ngành tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát quá trình cấp phép đầu tư và triển khai dự án nhằm tạo sự phối hợp đồng bộ và kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho nhà đầu tư khi triển khai dự án, đảm bảo các dự án được cấp phép phù hợp với quy hoạch chung và theo đúng trình tự quy định…

Chương Trình Hành Động Của Chính Phủ Về Cải Cách Chính Sách Tiền Lương

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết về Chương trình hành động của Chính phủ về cải cách chính sách tiền lương. Ảnh: TTXVN

Chương trình phấn đấu đạt mục tiêu đến năm 2021 thực hiện áp dụng chế độ tiền lương mới theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo thống nhất đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang trong toàn bộ hệ thống chính trị; tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức, viên chức bằng mức lương thấp nhất bình quân các vùng của khu vực doanh nghiệp; thực hiện điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu vùng phù hợp tình hình phát triển kinh tế – xã hội, khả năng chi trả của doanh nghiệp để đến năm 2020 mức lương tối thiểu bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào chính sách tiền lương của doanh nghiệp.

Đến năm 2030, thực hiện nâng mức tiền lương của khu vực công phù hợp với chỉ số giá tiêu dùng, mức tăng trưởng kinh tế và khả năng của ngân sách nhà nước; tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức, viên chức bằng hoặc cao hơn mức lương thấp nhất bình quân các vùng của khu vực doanh nghiệp; điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng của khu vực doanh nghiệp trên cơ sở khuyến nghị của Hội đồng Tiền lương Quốc gia; thực hiện quản lý lao động, tiền lương trong doanh nghiệp nhà nước theo phương thức khoán nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Đồng thời, Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính căn cứ Nghị quyết số 25/2016/QH14 ngày 9/11/2016 và các Nghị quyết dự toán ngân sách nhà nước hàng năm của Quốc hội trình Chính phủ điều chỉnh mức lương cơ sở áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang năm 2019 và năm 2020.

Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các các cơ quan thành viên Ban Chỉ đạo Trung ương về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công xây dựng văn bản quy định chế độ tiền lương mới theo nội dung cải cách của Đề án báo cáo Ban cán sự đảng Chính phủ trình Bộ Chính trị xem xét, quyết định trước khi giao các cơ quan của Đảng, Quốc hội và Chính phủ ban hành theo chức năng, hoàn thành trong quý II/2020; đồng thời kiến nghị sửa đổi hoặc thay thế các văn bản quy phạm pháp luật có quy định về chế độ tiền lương khi ban hành chế độ tiền lương mới.

Góp Ý Dự Thảo Nghị Quyết Của Chính Phủ Về Cải Cách Thủ Tục Hành Chính Thực Hiện Dự Án

Bộ Xây dựng nhận được Văn bản số 6773/BTP-KSTT ngày 17/9/2013 của Bộ Tư pháp đề nghị góp ý dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về một số nhiệm vụ trọng tâm cải cách thủ tục hành chính trong thực hiện dự án đầu tư để cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư.

Sau khi nghiên cứu, Bộ Xây dựng có một số ý kiến như sau:

1. Về cơ bản, Bộ Xây dựng thống nhất với dự thảo Báo cáo tóm tắt Đề án cải cách thủ tục hành chính trong thực hiện dự án đầu tư để cải thiện môi trường kinh doanh và dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về một số nhiệm vụ trọng tâm cải cách thủ tục hành chính trong thực hiện dự án đầu tư để cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư.

Việc ban hành và triển khai thực hiện Nghị quyết này sẽ có tác động thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 – 2020, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan quản lý nhà nước các cấp.

2. Một số ý kiến góp ý đối với dự thảo Nghị quyết của Chính phủ:

Về bố cục: Dự thảo Nghị quyết gồm 5 Điều và 3 phụ lục, trong đó Điều 3 (Tổ chức thực hiện) quy định nội dung Khoản 1 (thực hiện Phụ lục 3) là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu khi triển khi thực hiện Nghị quyết.

Kết quả thực hiện khoản 1 này là các văn bản quy phạm pháp luật đã được sửa đổi, bổ sung, thay thế và là cơ sở pháp lý để các tổ chức, cá nhân áp dụng trong quá trình thực hiện các thủ tục hành chính trong thực hiện dự án đầu tư. Vì vậy, đề nghị đưa Phụ lục 3 lên trước.

Phụ lục 1, Phụ lục 2 và các mẫu văn bản kèm theo (Tờ trình, Quyết định….): Đề nghị đưa vào hồ sơ Đề án thì hợp lý hơn để trong quá trình thực hiện các cơ quan, tổ chức đưa những nội dung cụ thể của các Phụ lục này trong quá trình sửa đổi, bổ sung, thay thế các văn bản quy phạm pháp luật của Phụ lục 3 theo nhiệm vụ được giao tại Điều 3.

Điều 1: Đề nghị cơ quan soạn thảo làm rõ hơn căn cứ xác định mục tiêu ” cắt giảm ít nhất 40% thời gian thực hiện ” tại Điều này. Chỉ số 40% này cần được làm rõ trong Đề án thông qua số liệu khảo sát, thống kê và mục tiêu của Đề án trên cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm đảm bảo tính khả thi trong quá trình thực hiện.

Dự thảo Nghị quyết cũng cần quy định các tiêu chí cụ thể để các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, theo dõi và đánh giá kết quả thực hiện của các cơ quan, tổ chức trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết đối với chỉ tiêu này.

Đề nghị nghiên cứu xem xét nội dung này để đảm bảo nguyên tắc trong quá trình thực hiện các thủ tục hành chính phải căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.

Điều 2: Gồm 4 khoản, trong đó Khoản 1 bao gồm 12 nhóm nhiệm vụ và các mục tiêu cụ mà các tổ chức, cơ quan cần đạt được trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết.

Để làm rõ các nhóm nhiệm vụ và phân định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết, đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu chia thành các nhóm theo lĩnh vực tương tự như Phụ lục 3, hạn chế sử dụng quá nhiều dấu “+” “-” như tại Điểm a, Khoản 1, đồng thời cần có sự gắn kết với các Phụ lục kèm theo.

Theo

Link gốc:

Cải Cách Hành Chính Và Vai Trò Của Đảng Chính Trị

Thứ tư, 02 Tháng 3 2016 15:30

(LLCT) – Trong tiến trình thực hiện đường lối đổi mới, cải cách hành chính được đặt ra như một đòi hỏi khách quan để tạo tiền đề và thúc đẩy cải cách kinh tế. Cải cách thể chế, thủ tục hành chính được xác định là trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trở thành một bộ phận quan trọng trong chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

1. Chủ trương và phương thức lãnh đạo trong tiến trình cải cách hành chính

Ngay từ Đại hội VI (1986), Đảng đã đề ra chủ trương thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tổ chức bộ máy nhà nước đã được sắp xếp lại một bước theo hướng gọn nhẹ, bớt đầu mối.

Tại Đại hội VII (1991), Đảng xác định tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước và đề ra những nhiệm vụ về sửa đổi Hiến pháp, cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội, sửa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương. Thực hiện Nghị quyết Đại hội, trong nhiệm kỳ, hệ thống chính trị gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân được sắp xếp, kiện toàn.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000 do Đại hội VII thông qua đã khẳng định bước tiến về lý luận, nhận thức về nền hành chính nhà nước. Cương lĩnh nêu rõ: về Nhà nước “phải có đủ quyền lực và có đủ khả năng định ra luật pháp về tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Sửa đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện toàn các cơ quan lập pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý của Nhà nước”. Chiến lược cũng nêu trọng tâm cải cách “nhằm vào hệ thống hành chính với nội dung chính là xây dựng một hệ thống hành chính và quản lý hành chính nhà nước thông suốt, có đủ quyền lực, năng lực, hiệu quả”.

Hội nghị Trung ương 8 khoá VII (1-1995) đánh dấu bước phát triển mới về xây dựng và phát triển nền hành chính nhà nước. Cải cách một bước nền hành chính nhà nước được xác định là trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, với mục tiêu là xây dựng một nền hành chính trong sạch có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hoá để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của Nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã hội. Lần đầu tiên 3 nội dung chủ yếu của cải cách hành chính (CCHC) nhà nước được trình bày một cách hệ thống trong Nghị quyết Trung ương 8, đó là cải cách thể chế của nền hành chính, chấn chỉnh tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.

Đại hội VIII của Đảng (1996) đề cập tới yêu cầu tiến hành CCHC đồng bộ, dựa trên cơ sở pháp luật, coi đó là một giải pháp cơ bản để thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm (1996-2000). Nghị quyết Đại hội VIII nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với cơ chế mới; cải tiến quy trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật của Chính phủ, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và sắp xếp lại bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương, hợp nhất một số cơ quan quản lý chuyên ngành về kinh tế trên cơ sở xác định rõ và thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành.

Một trong những chủ trương và giải pháp lớn về CCHC được nhấn mạnh trong Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII là bảo đảm thực hiện dân chủ hóa đời sống chính trị của xã hội, giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Nhà nước, trong giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước và hoạt động của cán bộ, công chức.

Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII đã biểu thị một quyết tâm chính trị rất lớn về việc tiếp tục tiến hành CCHC, đặt CCHC trong tổng thể của đổi mới hệ thống chính trị. Đảng ta khẳng định: Không thể tiến hành cải cách riêng nền hành chính tách rời sự đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các đoàn thể nhân dân. Cũng không thể CCHC một cách biệt lập mà không đồng thời đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các cơ quan lập pháp, cơ quan tư pháp.

Từ nhận thức đó, Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII đề ra chủ trương tiến hành sắp xếp lại tổ chức bộ máy đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị gắn liền với CCHC theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Đồng thời, với việc kiên quyết sắp xếp một bước bộ máy các tổ chức trong hệ thống chính trị, thực hiện tinh giản biên chế, cải cách chính sách tiền lương.

Đại hội IX của Đảng (2001) bên cạnh việc khẳng định mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá đã đưa ra một loạt chủ trương, giải pháp có ý nghĩa quan trọng trong CCHC như điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ, nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; phân công, phân cấp; tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước, tách rõ chức năng quản lý nhà nước với sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực; thiết lập trật tự kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng…

Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về đẩy mạnh CCHC, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, nhấn mạnh thực hiện CCHC phải đồng bộ với cải cách lập pháp và cải cách t­ư pháp, trong đó đặc biệt chú ý đến chất lượng xây dựng luật. Về cải cách thủ tục hành chính, Nghị quyết xác định “…đây là khâu đột phá để tạo môi trường thuận lợi, minh bạch cho hoạt động của nhân dân và doanh nghiệp”. Nghị quyết cũng đặc biệt đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác CCHC đó là: Đảng quyết định các mục tiêu, quan điểm, chủ trương và giải pháp lớn về CCHC và tăng cường lãnh đạo, kiểm tra, đôn đốc, uốn nắn kịp thời việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng về công tác CCHC.

Như vậy có thể thấy, xuyên suốt tiến trình CCHC nhà nước, Đảng luôn giữ vai trò “tiên phong” trong việc chỉ đạo, lãnh đạo, đề ra đường lối, chủ trương cải cách. Các quyết sách chính trị đó của Đảng có ý nghĩa quyết định trong việc định hướng, chỉ đạo và tác động trực tiếp đến hoạt động quản lý nhà nước nói chung và thực hiện thủ tục hành chính nói riêng.

Để thực hiện đường lối đổi mới đất nước, Đảng, Nhà nước đã đề ra và thực hiện phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Điều 4 Hiến pháp năm 1992 ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

Trong những năm qua, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ngày càng đổi mới theo hướng vừa tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy trách nhiệm, tính chủ động sáng tạo, tự chủ của các cơ quan, các cấp chính quyền nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, từ đó góp phần tạo ra những chuyển biến tích cực, cải thiện và giải quyết ngày càng tốt hơn mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội.

Như vậy, xét trên mọi phương diện, nguyên tắc Đảng lãnh đạo không bao trùm lên việc Đảng làm thay các hoạt động của chính quyền, song mọi hoạt động của chính quyền lại chịu sự chi phối lớn bởi các quyết sách của Đảng, vì thế, nếu hoạt động của chính quyền có những sai sót, tất yếu phải xét tới vai trò của Đảng.

2. Một số kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo cải cách hành chính

Một số địa phương khi tiến hành sơ kết, tổng kết triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa X đã rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích về vai trò của Đảng trong tiến trình CCHC như sau:

Hai là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cơ quan hành chính các cấp có phẩm chất đạo đức, vững về chính trị, giỏi về chuyên môn, có tính chuyên nghiệp, tận tụy phục vụ nhân dân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị là nhân tố quyết định đến sự thành công của công tác CCHC. Thực tế cho thấy, nơi nào cấp uỷ quan tâm, người đứng đầu thể hiện rõ quyết tâm và sự quyết liệt trong chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ CCHC thì nơi đó sẽ có chuyển biến rõ rệt và ngược lại, bên cạnh đó cần phải có đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác CCHC nhiệt tình, tâm huyết và năng lực nhất định để tham mưu, đề xuất giúp người đứng đầu chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính đạt kết quả.

Năm là, đề cao vai trò giám sát của nhân dân và tạo điều kiện để nhân dân tham gia nhiều hơn vào giải quyết các công việc của địa phương, xây dựng cộng đồng dân cư đoàn kết, thống nhất.

Phải quán triệt tư tưởng dân là chủ, lấy dân làm gốc, phải hướng vào mục tiêu phục vụ nhân dân, khắc phục mọi phiền hà, sách nhiễu đối với dân. Mở rộng về phạm vi và tính thực chất trong các quy định về quyền của công dân tham gia các công việc của Nhà nước và xã hội, xây dựng các quyết định chính trị quan trọng của Đảng, Nhà nước. Từ đó từng bước nâng cao trình độ, năng lực làm chủ của người dân.

Sáu là, cần cải cách thủ tục hành chính trong Đảng theo hướng xây dựng các quy chế, quy định,quy trình thực hiện các mối quan hệ của cấp ủy với các tổ chức, cơ quan, đơn vị và người đứng đầu các tổ chức nhà nước, các đoàn thể chính trị – xã hội.

Xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức thực sự có đủ tâm, đủ tầm, trung thực, tận tuỵ với công việc và am hiểu pháp luật. Các cơ quan, đơn vị có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng thường xuyên, định kỳ đối với cán bộ, công chức, đặc biệt là với đội ngũ cán bộ làm công tác lãnh đạo để kịp thời nắm bắt thông tin, kiến thức mới, phục vụ cho công tác lãnh đạo, điều hành; kịp thời loại bỏ những cán bộ, công chức không hoàn thành nhiệm vụ, tham nhũng, biến chất, cơ hội, gây cản trở công cuộc cải cách hành chính hiện nay.

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 6 – 2015

TS Nguyễn Văn Hậu

Học viện Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh