Nghị Quyết Đại Hội Đại Biểu Đảng Bộ Quận Gò Vấp Lần Thứ Xi Nhiệm Kỳ 2023

Năm năm qua, có những khó khăn tác động bất lợi, song Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân quận đã phát huy truyền thống cách mạng, nỗ lực phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ quận lần thứ X đạt được những kết quả khá toàn diện.

Giá trị sản xuất các ngành kinh tế của quận hàng năm tiếp tục duy trì tăng trưởng khá; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng “Dịch vụ – Công nghiệp”. Thu ngân sách vượt chỉ tiêu hàng năm, đáp ứng các nhiệm vụ chi. Các chương trình, công trình mang tính đột phá được tập trung thực hiện quyết liệt và cơ bản hoàn thành, góp phần phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội phục vụ nhu cầu phúc lợi xã hội. Lĩnh vực giáo dục, văn hóa, thông tin, thể dục thể thao và y tế được cả hệ thống chính trị và Nhân dân quan tâm, tiếp tục có nhiều tiến bộ, đạt được kết quả tích cực; đời sống tinh thần của Nhân dân được nâng lên. Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Công tác quân sự – quốc phòng tiếp tục được tăng cường; thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia về đấu tranh, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, công tác cải cách hành chính phát huy hiệu quả. Phong trào thi đua yêu nước gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở” tiếp tục phát triển, nâng cao chất lượng, đi vào chiều sâu.

Công tác chính trị tư tưởng có chuyển biến; công tác xây dựng Đảng gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa X “một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” cơ bản đạt yêu cầu. Tình hình tư tưởng trong đại bộ phận cán bộ, đảng viên và Nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tự giác chấp hành pháp luật, phòng chống tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội. Công tác tổ chức, cán bộ được quan tâm, thực hiện đạt nhiều kết quả tích cực. Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên; công tác xây dựng tổ chức đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập có nhiều chuyển biến tích cực. Lãnh đạo thực hiện Nghị quyết về công tác cán bộ đạt hiệu quả, giải quyết được hạn chế đầu nhiệm kỳ về cán bộ trẻ, cán bộ nữ.

Công tác kiểm tra, giám sát đã tập trung thực hiện tốt các chương trình công tác kiểm tra, giám sát hàng năm; tăng cường kiểm tra, giám sát trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là các đợt giám sát chuyên đề tại các cơ sở. Qua kiểm tra, giám sát đã kịp thời phát hiện, biểu dương nhân rộng những điển hình tích cực, tiêu biểu; đồng thời chấn chỉnh tổ chức đảng và đảng viên có dấu hiệu vi phạm, tăng cường kỷ cương, kỷ luật, đoàn kết trong Đảng, nâng cao nhận thức và trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ được giao.

Tuy nhiên, trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ quận lần thứ X, có 08 chỉ tiêu phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội, quốc phòng và an ninh chưa đạt. Công tác vận động Nhân dân bàn giao mặt bằng để triển khai các dự án còn chậm; công tác tuyên truyền, vận động Nhân dân đồng thuận hiến đất mở rộng hẻm theo phương châm “Nhà nước và Nhân dân cùng làm” chưa cao; còn xảy ra tình trạng xây dựng không phép, sai phép, có trường hợp phải tiến hành cưỡng chế tháo dỡ; còn tình trạng lấn chiếm lòng, lề đường để kinh doanh; đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, số lượng trường, lớp xây mới chưa đáp ứng tỷ lệ học sinh học ngày 2 buổi. Công tác quản lý nhà nước về văn hoá trên địa bàn còn hạn chế; chương trình giảm nghèo chưa bền vững; hiệu quả công tác khám chữa bệnh bảo hiểm y tế… chưa cao; mô hình nhà văn hóa liên phường thiếu tính khả thi. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc hiệu quả chưa cao; các mô hình tự quản về an ninh, trật tự chậm được nhân rộng, tệ nạn xã hội ở một số địa bàn vẫn còn phức tạp; công tác giáo dục, cảm hóa, giúp đỡ đối tượng lầm lỗi tại cộng đồng chưa hiệu quả; một số vụ án dân sự phức tạp chậm được thi hành, gây bức xúc cho người được thi hành. Vẫn còn tình trạng giải quyết hồ sơ trễ hẹn; một số công chức chưa thật sự nêu cao tinh thần trách nhiệm, chưa thật sự là công bộc của dân.

Kết quả công tác xây dựng Đảng trên một số mặt còn hạn chế. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ quận. Công tác tổ chức, cán bộ: một số cấp ủy chưa quan tâm đúng mức, ngang tầm với vị trí, vai trò của tổ chức đảng trong việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, đơn vị; chất lượng tổ chức cơ sở đảng, quy hoạch cán bộ trẻ chưa đạt yêu cầu. Công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy có nơi, có lúc còn buông lỏng hoặc thực hiện hình thức, chưa đúng thực chất. Công tác kiểm tra của Ủy ban kiểm tra đối với tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên (kể cả cấp ủy viên cùng cấp) khi có dấu hiệu vi phạm chưa thực hiện kịp thời nên còn hạn chế về tính phòng ngừa vi phạm trong đảng và giữ nghiêm kỷ luật Đảng. Một số cấp ủy chi, đảng bộ chưa đổi mới phương thức lãnh đạo công tác dân vận; còn một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức nhận thức chưa đầy đủ về công tác dân vận của chính quyền. Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của mặt trận, các đoàn thể chính trị – xã hội chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; thiếu sự phối hợp đồng bộ trong tuyên truyền, vận động Nhân dân; chậm khắc phục một số phong trào còn mang tính hành chính, hình thức.

Đạt được kết quả trên là do: được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố, cùng sự phối hợp, hỗ trợ tích cực của các Sở, ngành Thành phố đã góp phần quan trọng cho quận tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, giải quyết những kiến nghị của quận, nhất là những vấn đề phức tạp, vượt thẩm quyền, tạo điều kiện thuận lợi cho quận phát triển.

Ban Chấp hành Đảng bộ quận thường xuyên giữ vững đoàn kết, thống nhất về tư tưởng và hành động phát huy dân chủ, thực hiện đúng quy chế làm việc; lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện các chương trình, nghị quyết cấp trên, chương trình, công trình đột phá của quận, xây dựng các chương trình hành động, nghị quyết chuyên đề, kế hoạch thực hiện sát với thực tiễn của quận. Các cấp ủy, chính quyền, mặt trận, đoàn thể chính trị – xã hội, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức, chiến sĩ các lực lượng vũ trang, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu nỗ lực vượt khó nêu cao ý thức trách nhiệm, gương mẫu trong công tác, quyết tâm lãnh đạo thực hiện đạt kết quả Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ quận lần thứ X.

Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, các cuộc vận động, phong trào của địa phương đúng mục đích, đối tượng, được xã hội và Nhân dân chia sẻ, đồng thuận hưởng ứng và tích cực tham gia.

Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Quận ủy đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo có hiệu quả đối với công tác tổ chức và cán bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng và đảng viên, kịp thời giải quyết những kiến nghị của cơ sở; tích cực triển khai thực hiện đạt kết quả việc khắc phục những hạn chế, khuyết điểm qua kiểm điểm tự phê bình, phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng, gắn với tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Trong lãnh đạo, xây dựng mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết còn chủ quan, chưa phân tích, dự báo hết những khó khăn, thiếu tính khả thi. Công tác tổng kết thực tiễn chưa đáp ứng yêu cầu; năng lực lãnh đạo của các cấp ủy, công tác quản lý, điều hành của chính quyền các cấp còn có mặt hạn chế.

Công tác tham mưu, phối hợp giữa một số cơ quan, đơn vị chưa đồng bộ, có lúc chưa kịp thời hướng dẫn, tháo gỡ khó khăn cho cơ sở; chưa có các biện pháp để phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, Nhân dân trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, phong trào đề ra.

Một số cấp ủy thiếu nhạy bén, chưa nắm sát tình hình để lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết những vấn đề bức xúc của cán bộ, đảng viên, của Nhân dân và doanh nghiệp. Một số ít cán bộ lãnh đạo quản lý và đảng viên chưa thật sự gương mẫu, nêu gương trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; một số cán bộ, công chức chưa thể hiện tinh thần trách nhiệm đối với công việc, đối với Nhân dân.

Hai là, trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành phải sâu sát, cụ thể, quyết liệt và quan tâm đến công tác điều hành chính sách; xác định rõ trách nhiệm của từng cấp, từng ngành; phải lựa chọn những lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm, có các giải pháp mang tính đột phá để thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ từng năm và cả nhiệm kỳ; chủ động đề xuất thành phố cho chủ trương, định hướng, tạo điều kiện cho quận tổ chức thực hiện nhiệm vụ đạt hiệu quả cao. Sâu sát cơ sở trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, kịp thời tháo gỡ vướng mắc, khó khăn.

Bốn là, xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân; coi trọng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, đặc biệt là thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động Nhân dân, nhất là công tác dân vận của chính quyền. Phát huy và mở rộng dân chủ, thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tạo sự đồng thuận trong xã hội, tạo điều kiện và đề cao sự sáng tạo của Nhân dân, của các thành phần kinh tế, kịp thời phát hiện vấn đề mới, cách làm hay, mô hình hoạt động có kết quả, nhân rộng tạo thành phong trào hành động cách mạng.

Đại hội xác định mục tiêu tổng quát trong nhiệm kỳ 2023 – 2023 là:

1. Giá trị sản xuất phấn đấu bình quân tăng 11% /năm; tỷ trọng thương mại – dịch vụ đến năm 2023 chiếm từ 70-71%.

2. Thu ngân sách vượt chỉ tiêu pháp lệnh 7%/năm.

3. Đến năm 2023 diện tích nhà ở bình quân đạt 24m2/người.

4. Đến năm 2023 có 100% hộ dân được cung cấp và sử dụng nước sạch.

5. Phấn đấu đến năm 2023, vận động cải táng, di dời trên 50% các khu thổ mộ ra khỏi khu dân cư.

6. Đến năm 2023, 16/16 phường được ghi nhận và ít nhất 8 phường được công nhận đạt chuẩn văn minh đô thị; 95% khu phố (176/186) được công nhận Khu phố văn hóa.

7. Phấn đấu đến năm 2023 giảm tỷ lệ thất nghiệp dưới 2,4%.

8. Phấn đấu đến năm 2023 tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 1,5% trên tổng số hộ dân theo tiêu chí phấn đấu của Thành phố (dự kiến thu nhập bình quân 28 triệu đồng/người/năm).

9. Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên bình quân hàng năm dưới 1,05%, hạn chế tình trạng sinh con thứ 3.

10. Duy trì kết quả 100% trạm y tế đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế phường giai đoạn 2011-2023 và phấn đấu ít nhất 50% các trạm y tế có từ 2 bác sĩ trở lên.

11. Phấn đấu đến năm 2023 Bảo hiểm y tế đạt 90%; Bảo hiểm xã hội bắt buộc đạt 60% trên tổng số người trong độ tuổi lao động.

12. Đến năm 2023 tỷ lệ học sinh Tiểu học và Trung học cơ sở học 2 buổi/ngày đạt 60%.

13. Hàng năm, đạt 100% chỉ tiêu tuyển chọn gọi công dân nhập ngũ; đảm bảo chất lượng chính trị, sức khỏe và trình độ học vấn.

14. Phấn đấu hàng năm kềm chế phạm pháp hình sự dưới 06 vụ/10.000 người; tỷ lệ điều tra, khám phá án trên 70% ; xử lý tin báo và tố giác tội phạm trên 90%.

15. Phấn đấu 90% tổ dân phố khá về an ninh trật tự; mỗi phường có ít nhất 01 khu phố an toàn, không có tội phạm ẩn náu.

16. Phấn đấu bình quân hàng năm giảm trên 6% tai nạn giao thông cả 3 mặt (số vụ, số người chết và số người bị thương).

17. Hàng năm, có 100% tổ chức cơ sở đảng và trên 98% đảng viên hoàn thành nhiệm vụ trở lên.

18. Kết nạp 200 đảng viên/năm.

19. Phấn đấu 100% doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước có từ 300 lao động trở lên đủ điều kiện có chi bộ và chi đoàn.

20. Đến năm 2023 tỷ lệ tập hợp thanh niên đạt 70%, tỷ lệ 90% – 95% hộ gia đình có phụ nữ tham gia tổ chức hội; tỷ lệ đoàn viên công đoàn đạt 80% trong tổng số công nhân lao động đơn vị, doanh nghiệp ngoài nhà nước.

1.1. Chương trình về công tác cán bộ.

1.2. Chương trình chỉnh trang đô thị.

2.1. Đầu tư hạ tầng Công viên Văn hóa cơ bản hoàn chỉnh và từng bước đưa vào sử dụng.

2.2. Đầu tư xây dựng hoàn thiện Trung tâm trưng bày, mua bán, giao dịch, hội chợ sinh vật cảnh tại Công viên Làng Hoa (phường 8).

2.3. Xây dựng mới 10 trường học, trong đó có 05 trường theo phương thức xã hội hóa.

2.4. Đầu tư xây dựng mới Trung tâm Giáo dục thường xuyên quận.

2.5. Đầu tư xây dựng mới Nhà Thi đấu thể dục – thể thao đa năng.

2.6. Đầu tư mở rộng đoạn đường Phan Văn Trị (đoạn đường Cầu Hang trong đến đường Phạm Văn Đồng).

2.7. Đầu tư mở rộng đường Dương Quảng Hàm (đoạn đường Nguyễn Oanh đến đường Phạm Văn Đồng).

2.8. Đầu tư mở rộng đường Nguyễn Kiệm (đoạn từ ngã Sáu Gò Vấp đến giao lộ ngã Bảy Phạm Văn Đồng).

2.9. Đầu tư mở rộng đường Nguyễn Văn Nghi – Lê Quang Định (đoạn đường Nguyễn Thái Sơn đến đường Phạm Văn Đồng).

(8) Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân; khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng của Nhân dân xây dựng, bảo vệ, phát triển quận; chăm lo xây dựng mặt trận và các đoàn thể chính trị – xã hội vững mạnh.

Đại hội kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân quận Gò Vấp tiếp tục phát huy truyền thống của Đảng bộ, đoàn kết, nhất trí, khắc phục khó khăn, nêu cao tinh thần chủ động, sáng tạo, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, quyết tâm phấn đấu hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ quận lần thứ XI đã đề ra, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ X và Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng.

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ QUẬN GÒ VẤP LẦN THỨ XI

Nghị Quyết Đại Hội Đại Biểu Đảng Bộ Quận Gò Vấp Lần Thứ Viii Nhiệm Kỳ 2000

Đại hội Đại biểu Đảng bộ quận Gò Vấp lần thứ VIII nhiệm kỳ 2000 – 2005 với 175 đại biểu chính thức, thay mặt cho 3.282 đảng viên toàn Đảng bộ Quận, được tiến hành từ ngày 22.11.2000 đến ngày 24.11.2000, đã làm việc khẩn trương, nghiêm túc với tinh thần trách nhiệm cao.

Sau khi nghe trình bày và nghiên cứu Báo cáo chính trị về tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị nhiệm kỳ VII (1996 – 2000) và phương hướng nhiệm vụ chính trị nhiệm kỳ VIII (2000 – 2005); Báo cáo kiểm điểm BCH Đảng bộ khoá VII; kết quả thực hiện NQTW5, NQTW6 (lần 2) của Ban Thường vụ Quận ủy khóa VII; các bản tổng hợp góp ý kiến các văn kiện chính trị Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ thành phố, Đại hội Đảng bộ quận.

Đại hội Đại biểu Đảng bộ quận Gò Vấp lần thứ VIII nhiệm kỳ 2000 – 2005.

NGHỊ QUYẾT

Nhất trí thông qua báo cáo chính trị đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ VII nhiệm kỳ 1996 – 2000 trình bày trước Đại hội. Giao cho Ban Chấp hành Đảng bộ quận khóa VIII tiếp thu ý kiến đóng góp của các đại biểu để bổ sung tu chỉnh báo cáo chính trị Đại hội Đại biểu Đảng bộ quận Gò Vấp lần thứ VIII nhiệm kỳ 2000 – 2005 và các bản tổng hợp góp ý kiến các văn kiện chính trị Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ thành phố, Đại hội Đảng bộ quận.

Nhất trí thông qua phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ 2000 – 2005 với các nội dung và chỉ tiêu chủ yếu như sau:

* Về kinh tế:

– Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm tăng 12%

– Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 15%

– Tỷ trọng thương mại dịch vụ trong GDP 20%

– Kim ngạch xuất khẩu hàng năm tăng 15%

– Kim ngạch nhập khẩu hàng năm tăng 10%

– Tổng mức luân chuyển hàng hoá hàng năm tăng 15%

– Tổng mức đầu tư, ngân sách của quận cho xây dựng cơ sở vật chất hàng năm 15%

* Về Văn hoá – Xã hội:

– Giải quyết việc làm cho người lao động hàng năm 12.000 lao động

– Giảm tỷ lệ hộ nghèo đến cuối nhiệm kỳ còn dưới 2%

– Giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên đến cuối nhiệm kỳ 1,10%

– Mặt bằng dân trí cuối nhiệm kỳ là 10

– Xây dựng GĐVH, KPVH đến cuối nhiệm kỳ đạt

+ Gia đình văn hoá 70%

+ Khu phố văn hoá 40%

– Người luyện tập TDTT thường xuyên hàng năm đạt 20%

* Về an ninh quốc phòng:

– Giảm phạm pháp hình sự 20%

– Tỷ lệ phá án hàng năm đạt 70%

– Tỷ lệ dân quân tự vệ/ dân số đạt 3%

– Giao quân hàng năm đạt 100%

* Về xây dựng Đảng:

– Chi Đảng bộ cơ sở trong sạch vững mạnh hàng năm đạt 80%

– Phát triển đảng viên mới hàng năm đạt 50 đảng viên

– Tất cả cán bộ chủ chốt của quận dưới 45 tuổi đều đạt trình độ Đại học

* Tập trung triển khai tổ chức thực hiện 10 công trình:

1. Công viên Văn hoá

2. Khu sản xuất công nghiệp tập trung tại phường 12

3. Trung tâm Thương mại ngã 6 Gò Vấp

4. Tuyến đê bao sông Vàm Thuật

5. Đường Quang Trung, Nguyễn Thái Sơn, Nguyễn Văn Lượng (mở rộng)

6. Xi măng hoá, nhựa hoá đường hẻm các phường

– 90% – 100%: 6 phường 1, 3, 4, 5, 7, 10

– 50% – 60%: 6 phường 11, 12, 13, 15, 16, 17

7. Ba trường đạt tiêu chuẩn quốc gia

8. Trung tâm: Thể dục Thể thao, Văn hoá (xây dựng, mở rộng)

9. Nhà Thiếu nhi

10. Cụm dân cư mới (phường 15 – phường 17)

Giao cho Ban Chấp hành Quận Đảng bộ khóa VIII nhiệm kỳ (2000 – 2005) có trách nhiệm quán triệt và tổ chức thực hiện có kết quả cao nhất Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ quận Gò Vấp lần thứ VIII nhiệm kỳ (2000 – 2005).

ĐOÀN CHỦ TỊCH ĐẠI HỘI

Nghị Quyết Đại Hội Đại Biểu Đảng Bộ Quận Gò Vấp Lần Thứ Vi Về Tình Hình Nhiệm Vụ Trong 5 Năm (1991

TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ÐẠI HỘIÐẠI BIỂU ÐẢNG BỘ LẦN THỨ V (6/1989 – 1991)

Qua gần 3 năm thực hiện Nghị quyết Ðại hội đại biểu Ðảng bộ Quận Gò Vấp lần thứ V cùng với Nghị quyết của trung ương và Thành phố. Trong bối cảnh có những thuận lợi và khó khăn, trong đó các yếu tố không thuận lợi là rất gay gắt. Trong điều kiện đó Ðảng bộ đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành quả nhất định trên các lĩnh vực, song cũng còn rất nhiều thiếu sót cần được khắc phục trong thời gian tới.

Trước hết: Sản xuất CN, TTCN là thế mạnh của Quận, nhưng nhịp độ phát triển vài năm gần đây có chậm lại và không đạt được chỉ tiêu do Ðại hội V của Quận đề ra. Tuy vậy, qua những năm đầu tập dượt, cọ xát với nền kinh tế thị trường nhiều cam go và thử thách, nền kinh tế Quận nhà bước đầu đã có những chuyển động tích cực về chất thích ứng với cơ chế mới, phù hợp với xu thế phát triển nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần thể hiện qua việc nhiều công ty, xí nghiệp nhất là sản xuất ngoài quốc doanh, từ các nguồn đầu tư trong và ngoài nước với tổng số vốn đầu tư mới 2 năm qua ước khoảng gần 20 tỷ đồng (chưa kể những công ty, xí nghiệp cơ sở chính ngoài Quận về đầu tư các phân xưởng sản xuất tại Quận ta). Các đơn vị kinh tế này đầu tư, đổi mới máy móc thiết bị công nghệ, sản xuất gắn với thị trường, nâng được chất lượng sản phẩm, chú ý cải tiến mẫu mã, một số sản phẩm đã có khả năng cạnh tranh được với hàng ngoại nhập.

Về thương mại và dịch vụ: Mặc dù nhiều đơn vị còn lúng túng về phương thức hoạt động kinh doanh và mô hình tổ chức quản lý; song tình trạng “lời giả, lỗ thật” đã từng bước được khắc phục, trong đó có nhiều đơn vị đã “trụ” lại được và làm ăn có lãi, bước đầu đã hình thành được những khu thương mại dịch vụ tập trung trên một số tuyến đường trung tâm của Quận thay thế dần mạng lưới các quầy hàng, điểm bán nhỏ, rải rác, kém hiệu quả trước đây.

Sản lượng rau, diện tích cây bông kiểng, đàn heo và nhất là đàn bò “cái vắt sữa”có phát triển, đóng vai trò quan trọng trong kinh tế gia đình, giải quyết lao động và bước đầu mang tính chất sản xuất hàng hóa.

– Việc thực hiện chương trình đô thị hóa của Quận đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, bước đầu khẳng định chủ trương đô thị hóa của Quận là hoàn toàn đúng hướng, với những phương thức và cách làm sáng tạo như đa dạng hóa nguồn vốn, phần lớn là nguồn vốn trong nhân dân, đã phát huy nhiều thành phần kinh tế tham gia thực hiện chương trình đô thị hóa. Nhiều hạng mục công trình mới, hạ tầng kỹ thuật đã được nâng cấp và xây dựng mới. Bộ mặt chung của Quận từng bước khang trang hơn, tạo điều kiện thuận lợi bước đầu thực hiện chủ trương mở cửa, kêu gọi đầu tư sản xuất kinh doanh.

– Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội và thực hiện chính sách xã hội.

Trong điều kiện khó khăn phức tạp, đã có nhiều cố gắng, trong đó có một số mặt chuyển biến tốt, nhất là phong trào giáo dục liên tục được giữ vững và nâng cao chất lượng dạy và học, toàn Quận đã hoàn thành cơ bản công tác phổ cập giáo dục cấp 1, hoạt động TDTT có nhiều khởi sắc, việc chăm lo các đối tượng chính sách và đời sống nhân dân trên địa bàn dân cư được quan tâm hơn và có nhiều cách làm tốt, nhiều tấm gương cá nhân và tập thể tận tụy vì cuốc sống của những gia đình neo đơn, khốn quẫn cần được nhân rộng ra, đời sống của một bộ phận dân cư được cải thiện hơn trước.

– Hoạt động của HÐND Quận, Phường nâng dần chất lượng, tính hình thức đã giảm, công tác tiếp xúc cử tri, tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu tố đã thành nền nếp. Bộ máy chính quyền phòng, ban, nhất là các Phường đã được sắp xếp tinh giảm một bước thủ tục hành chánh ở nhiều khâu có được cải tiến theo hướng giảm bớt phiền hà cho dân; các ngành thực hiện và bảo vệ pháp luật đã có sự gắn bó hơn trong công việc.

– An ninh chính trị và TTATXH được giữ vững, phong trào quần chúng an ninh tổ quốc, công tác quân sự địa phương và thực hiện chính sách hậu phương quân đội đã có nhiều chuyển biến tích cực.

– Hệ thống chính trị từng bước được trưởng thành, dân chủ, XHCN được mở rộng và phát huy hơn, vai trò các cơ quan dân cư được nâng lên, mối quan hệ giữa Ðảng, chính quyền, đoàn thể được gắn bó và ngày càng thể hiện rõ chức năng của từng tổ chức.

– Công tác xây dựng Ðảng được củng cố trên cả 3 mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, công tác kiểm tra được quan tâm hơn, truyền thống đoàn kết của Ðảng bộ vượt qua nhiều thử thách tiếp tục được giữ vững.

Tóm lại, có thể nói thành tựu quan trọng nhất của Ðảng bộ trong nhiệm kỳ qua là trong bối cảnh diễn biến phức tạp vẫn giữ vững được tình hình các mặt góp phần vào thắng lợi chung của Thành phố và cả nước.

Bên cạnh những thành tựu đạt được nói trên, trong 2 năm qua đã có những khuyết điểm, tồn tại lớn nổi lên là trong lãnh đạo quản lý kinh tế còn nhiều thiếu sót, sơ hở chậm phát hiện và xử lý một số đơn vị làm ăn thua lỗ, gây hậu quả lớn về kinh tế – xã hội.

– Nền kinh tế của Quận tuy từng bước thích ứng với những cơ sở mới nhưng chuyển biến còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng hiện có, các điều kiện để phát triển còn chưa ổn định, tiềm năng trong nhân dân chưa được khai thác và phát huy đúng mức, công tác quản lý kinh tế nhiều thành phần còn thiếu nhiều kinh nghiệm. Mức sống của một bộ phận nhân dân lao động còn thấp, đời sống ngày càng khó khăn gay gắt, nhất là những người mà thu nhập chính dựa vào tiền lương và trợ cấp xã hội.

– Công tác quản lý xây dựng và trật tự đô thị còn buông lỏng nhiều mặt trong khi cơ cấu kinh tế xác định là công nghiệp – nông nghiệp – thương nghiệp và dịch vụ nhưng chưa thực hiện được nhiều, xây dựng nhà ở cho công nhân viên, diện chính sách, điện cho sản xuất còn thiếu nghiêm trọng. Cấp thoát nước và sửa chữa cầu đường còn quá ít so với kiến nghị của nhân dân.

– Trật tự xã hội và mặt trận văn hóa còn nhiều diễn biến phức tạp: công tác quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực còn hạn chế, kỷ cương pháp luật chưa nghiêm, công tác hóa giá nhà tuy có nhiều tiến bộ nhưng còn nhiều trường hợp phân phối không đúng đối tượng, không công bằng gây bất bình trong CBCNV, trạm y tế và nhà trẻ, mẫu giáo các Phường nhiều nơi xuống cấp nghiêm trọng, số học sinh bỏ học và hiện tượng tái mù chữ vẫn còn nhiều, nhất là ở các Phường nông nghiệp. Số người chưa có công ăn việc làm ngày càng tăng, trong khi đó hoạt động dạy nghề chưa được chú ý đúng mức cả về chính sách ưu tiên phát triển dạy nghề tư nhân, đến việc đầu tư trung tâm dạy nghề của Quận và cơ sở, thiết bị, nội dung, chương trình và cán bộ có chuyên môn để hướng nghiệp cho thanh niên và bộ đội phục viên xuất ngũ. Hoạt động văn hóa quần chúng ở cơ sở bị buông lỏng, từ đó hiện tượng văn hóa không lành mạnh còn có chiều hướng phát triển. Nguyên nhân không chỉ do sự thiếu đầu tư về kinh phí, cơ sở vật chất mà chủ yếu là vấn đề phương thức hoạt động và bộ máy chậm được kiện toàn.

– Trong công tác xây dựng Ðảng: số cơ sở Ðảng và số đảng viên yếu kém, trung bình còn nhiều, chưa thực hiện tốt quy hoạch cán bộ nên tình trạng chắp vá, bị động trong bố trí sắp xếp, sinh hoạt chi bộ nhiều mặt bị buông lỏng cả về nội dung lẫn thời gian, nhiều đảng viên và cả cán bộ lãnh đạo không làm tốt công tác quần chúng.

– Có thể nói, nhiệm kỳ qua lãnh đạo của tập thể BCH Quận Ðảng bộ có sự trưởng thành, nhưng trình độ năng lực lãnh đạo chưa đáp ứng kịp yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, những mặt tồn tại nêu trên và nhất là việc sút giảm của nền kinh tế, nhiều đơn vị kinh tế quốc doanh làm ăn thua lỗ. Tuy yếu tố khách quan rất lớn, nhưng về chủ quan BCH cũng tự thấy có khuyết điểm rất lớn trong lãnh đạo và chỉ đạo.

Từ thực tiễn thành công và chưa thành công của nhiệm kỳ qua có thể bước đầu rút ra những kinh nghiệm là:

Yếu tố quyết định của sự thành công là sự đoàn kết thống nhất ý chí trong toàn Ðảng bộ mà trước hết là trong BCH và Ban Thường vụ Quận ủy. Ðó là sự ổn định chính trị – tiền đề của mọi sự ổn định khác, trong đó ổn định tư tưởng kiên định lập trường là yếu tố đặc biệt quan trọng; là trong lãnh đạo kinh tế xã hội phải tăng cường quản lý Nhà nước chú trọng thông tin, dự báo tình hình, phải có những biện pháp tích cực để khai thác và phát huy mọi tiềm năng và thế mạnh của Quận; đó là Ðảng bộ phải tự chỉnh đốn mình, phải làm trong sạch Ðảng, nâng cao trình độ, tư duy và năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Ðảng và phẩm chất năng lực của đảng viên; là phải quan tâm công tác quy hoạch cán bộ và công tác vận động quần chúng, mọi chủ trương việc làm phải xuất phát từ nguyện vọng và lợi ích chính đáng của quần chúng.

PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ NHỮNGCHỈ TIÊU CƠ BẢN TRONG 5 NĂM 1991 – 1995

Bước vào kế hoạch 5 năm 1991 – 1995, Quận Gò Vấp chúng ta sẽ còn gặp nhiều khó khăn lớn. Đó là những bất lợi chung về tư tưởng và kinh tế xã hội do ảnh hưởng tình hình Liên Xô và Đông Âu, những âm mưu phá hoại XHCN ở nước ta bằng diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc. Thêm vào đó là khó khăn riêng của Quận về tình hình ngân sách, vốn, những tồn đọng cũ v.v… Nhưng cần phải thấy rõ là chúng ta cũng có những thuận lợi rất cơ bản đó là được các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII và Nghị quyết Đại hội V thành phố soi đường, đã có những thành tựu về kinh nghiệm bước đầu nhưng rất quý của mấy năm đổi mới, những cơ sở hạ tầng quan trọng đã xây dựng được đang phát huy tác dụng tốt, lại được sự tác động trực tiếp của thành phố lớn trung tâm của cả nước trên nhiều mặt.

Trong đó, thế mạnh cơ bản là con người lao động Gò Vấp cần cù sáng tạo, có truyền thống yêu nước, lực lượng lao động thủ công – TTCN dồi dào, có tay nghề cao, nhiều nhà chăn nuôi giỏi, với hàng trăm nghệ nhân nghề trồng bông kiểng đây là vốn rất quý để phát triển làng hoa kiểng truyền thống của Gò Vấp. Cần đặc biệt nhấn mạnh ưu thế rất lớn của Quận là đất đai, mặt bằng rất thuận lợi để đầu tư phát triển sản xuất, xây dựng các công trình dân dụng v.v… Trong đó nổi bật là thế đất hết sức thuận lợi, tạo nên bởi vị trí địa lý giao thông đường bộ và đường thủy của Quận, trong điều kiện các Quận nội thành đang rất thiếu mặt bằng cho yêu cầu phát triển sản xuất, nếu Quận ta có chính sách và cách làm tốt sẽ thu hút được nhiều nhân tài vật lực từ các nơi để vực dậy nền kiểm tra và cả văn hóa xã hội… cho Quận nhà.

Với những thuận lợi, những tiềm năng và thế mạnh của Quận, cộng với sự tác động của Trung ương và Thành phố, nhất định trong 5 năm tới chúng ta có khả năng tạo ra những bước phát triển mới.

Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã được NQ Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ V cụ thể hóa, căn cứ thực trạng của Quận với những khó khăn và thuận lợi nêu trêu, Đại hội đại biểu Đảng bộ Quận lần thứ VI đã quyết nghị về phương hướng, nhiệm vụ và những chỉ tiêu cơ bản trong 5 năm 1991 – 1995 như sau:

– Cùng với Thành phố phấn đấu bảo đảm sự ổn định về chính trị trên cơ sở ổn định kinh tế xã hội trên địa bàn.

– Nhận thức đầy đủ và xuyên suốt quan điểm dựa vào sức mình là chính, phát huy tinh thần tự lực tự cường, nhằm động viên mọi nỗ lực chủ quan của đảng viên, cán bộ và nhân dân. Đồng thời hết sức coi trọng việc tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương và Thành phố, chủ động và mở rộng nguồn đầu tư qua liên kết, liên doanh. Ra sức khắc phục khó khăn phát huy thuận lợi, tiếp tục xây dựng Quận với cơ cấu kinh tế “công – nông – thương nghiệp và dịch vụ” nhằm thực hiện mục tiêu chung của Quận là “trên cơ sở tăng cường phát huy truyền thống đoàn kết thống nhất của Đảng bộ, khai thác và phát huy mọi tiềm năng thế mạnh của Quận để tập trung phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước; tiếp tục ra sức thực hiện có hiệu quả chương trình đô thị hóa, tăng cường hoạt động xuất nhập khẩu để phát triển sản xuất hàng hóa, kinh doanh dịch vụ; nhằm giải quyết việc làm, chăm lo đời sống cho nhân dân lao động và giữ vững an ninh chính trị, thông qua thực tiễn phong trào mà không ngừng xây dựng chính quyền, đoàn thể và xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh.”

Theo phương hướng yêu cầu chung nói trên, trong thời kỳ 1991 – 1995 Đảng bộ phấn đấu để đạt những mục tiêu tổng hợp sau đây:

– Đảm bảo tốt an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ do công tác an ninh quốc phòng đề ra.

– Mức tăng trưởng trong sản xuất CN – TTCN bình quân từ 12 – 15% mỗi năm. Riêng 2 năm 1992 – 1993 từ 10 – 12%, đến năm 1995, sản xuất xuất khẩu chiếm tỷ trọng 20% trong giá trị tổng sản lượng công nghiệp TTCN, khuyến khích tư nhân khuếch trương kinh doanh, thương mại và dịch vụ ở các chợ và các khu vực trung tâm, phấn đấu sớm xây dựng bến xe An Lộc và nhiều chính sách đòn bẩy để từng bước tổ chức bán buôn ở một vài chợ lớn và khu vực trung tâm của Quận.

– Đến năm 1995 kim ngạch xuất khẩu là 15 triệu USD và nhập khẩu là 13 triệu USD. Trong đó năm 1992 xuất khẩu là 10 triệu USD và 1993 là 12 triệu USD và nhập khẩu là 10 triệu USD.

– Xác định rõ nông nghiệp là 1 thế mạnh quan trọng trong cơ cấu kinh tế của Quận, tập trung đẩy mạnh phát triển SX nông nghiệp theo hướng coi trọng phát triển kinh tế hộ gia đình, phấn đấu chuyển từ vùng thương phẩm về rau, cây kiểng, heo, bò sữa trở thành vùng cung cấp giống cho khu vực Thành phố. Trên cơ sở liên kết chặt chẽ với ngành khoa học kỹ thuật của TW và TP để đầu tư KHKT hiện đại, nâng dần tính chất hàng hóa trong SX nông nghiệp.

– Tiếp tục thực hiện chương trình đô thị hóa 1 cách đồng bộ và kiến nghị việc thực hiện chương trình đô thị hóa trở thành một nhiệm vụ chung của Thành phố, gắn quy hoạch Quận với quy hoạch tổng thể của thành phố, tiếp tục xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, thực hiện chỉnh trang xây dựng mới nhà ở, nhà phố thương nghiệp, dịch vụ và sản xuất thích hợp, theo các trục lộ chính. Nâng cấp và xây dựng mới 100 căn nhà bán cho CNV, diện chính sách và nhân dân lao động.

– Phấn đấu hạ tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên còn 1,10% vào năm 1995.

– Phấn đấu giải quyết việc làm cho người lao động đến năm 1995 là 19.000 người, trong đó 2 năm 1992 – 1993 là 11.000 người với các biện pháp thích hợp.

– Phấn đấu hàng năm đạt chỉ tiêu huy động học sinh đến lớp là 90% các cháu từ 6 – 14 tuổi, 10% các cháu trong độ tuổi nhà trẻ, 60% các cháu trong độ tuổi mẫu giáo (riêng mẫu giáo 5 tuổi là 80%). Kết quả lên lớp và tốt nghiệp hàng năm đạt loại khá của Thành phố.

– Phấn đấu đạt chỉ tiêu phổ cập giáo dục cấp I và xóa mù chữ trên địa bàn Quận ở mức cao hơn, tiếp tục phổ cập cấp I cho nhân dân và cấp II cho thanh niên.

– Thực hiện cải cách hành chánh nhằm nâng cao hiệu lực của hệ thống chính trị, trước hết là HĐND, UBND và các cơ quan thực hiện, chấp hành pháp luật.

– Tạo sự chuyển biến toàn diện trong công tác VĐQC trên cả 3 mặt: sự lãnh đạo của Đảng và vai trò chính quyền trong công tác VĐQC; kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ đoàn thể; đổi mới nội dung và phương thức kế hoạch chuyển hóa các địa bàn trọng điểm song song với việc tập trung đầu tư chuyển hóa các địa bàn kinh tế xã hội nhằm tạo cơ sở để làm tốt công tác VĐQC ở những địa bàn này.

– Đến năm 1993 đưa 2/3 chi bộ đường phố thành chi bộ vững mạnh chủ động công tác, phấn đấu hạ thấp tỷ lệ chi bộ yếu kém xuống dưới 5%, trong đó không có chi, đảng bộ Phường yếu kém. Số chi, đảng bộ cơ sở trong sạch vững mạnh chiếm 30% và không còn diện yếu kém. Phấn đấu hầu hết đảng viên đều làm tốt công tác VĐQC và quan tâm công tác phát triển Đảng.

– Đến năm 1995 xây dựng được quy hoạch cán bộ và tất cả cán bộ lãnh đạo cốt cán phải qua chương trình trung, cao cấp, tất cả đảng viên đều đạt trình độ phổ thông về lý luận chính trị và tùy theo nhiệm vụ được phân công để bồi dưỡng nâng cao về chuyên môn nghiệp vụ.

Một là: 1. Về tình hình sản xuất kinh doanh:

Trên cơ sở tiếp tục phân loại sắp xếp lại các công ty XNQD, chú trọng thực hiện các biện pháp giao vốn và bảo toàn vốn, mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước, các biện pháp tài chính, tín dụng, thuế,… Tăng cường đổi mới thiết bị hiện đại, áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong SX, mở rộng liên doanh liên kết, coi trọng công tác tổ chức cán bộ, mạnh dạn giao quyền chủ động cho Giám đốc và xác định rõ trách nhiệm trong quản lý SXKD, phấn đấu đến cuối năm 1992 cơ bản tách chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế ra khỏi chức năng quản lý SXKD ở tất cả các phòng ban theo kế hoạch chung của Thành phố. Trong điều kiện vốn lưu động tự có của công ty, XN rất ít (8 – 12%) trong khi vốn cố định có khá hơn, đòi hỏi phải coi trọng biện pháp gọi cổ phần (cổ phần hóa) các XN, công ty quốc doanh trước hết là cổ phần hóa trong nội bộ XN, công ty và mở rộng ra bên ngoài để khắc phục tình trạng vốn lưu động quá ít hiện nay (điều này đ/c Bí thư Thành ủy nhấn mạnh là phải “làm liền tay”). Do đó cần thiết phải sớm tiến hành thí điểm và tiến tới mở rộng hình thức XN, CTy QD cổ phần.

– Từ nay đến cuối năm 1993, cùng với sự hỗ trợ của TP và nhất là bằng nguồn vốn tự tạo của các công ty, XN và các nguồn thu khác của Quận, với biện pháp liên doanh liên kết, QD cổ phần… phấn đấu mỗi công ty, xí nghiệp đều có vốn lưu động có từ 30 – 40% trở lên trong tổng nhu cầu vốn cần thiết.

2. Đối với SX ngoài quốc doanh:

Tiến hành sơ kết công tác phát triển SX ngoài quốc doanh, qua đó mở rộng cuộc vận động ở các Phường, các đối tượng nhân dân có khả năng trong người Hoa, người có vốn nước ngoài, có tay nghề kỹ thuật v.v… Khuyến khích mạnh phát triển sản xuất ngoài quốc doanh dưới nhiều hình thức thích hợp. Đồng thời kiến nghị với trên và trong quyền hạn của Quận có những chính sách đòn bẩy về ưu tiên mặt bằng, thuế, điện, cải tiến thủ tục tạo điều kiện để các nhà đầu tư trong và ngoài Quận (kể cả nước ngoài) yên tâm và tin tưởng để đầu tư vốn liếng, kỹ thuật thiết bị nhằm phát triển doanh nghiệp, qua đó có tích lũy và mở rộng SX kiên quyết chống tư tưởng cục bộ, định kiến, khép kín, gây phiền hà. Đồng thời tăng cường công tác kiểm tra quản lý hoạt động SX đúng hướng và đúng pháp luật.

Hết sức coi trọng phát triển kinh tế hộ gia đình nông dân trong đó chú trọng giải quyết nhanh việc cấp quyền sử dụng đất cho nông dân và giải quyết tranh chấp ruộng đất, kiến nghị với cấp trên có chính sách ưu đãi cho nông dân vay vốn SX với lãi suất thấp. Khuyến khích và nhân rộng các điển hình hộ nông dân giỏi. Phát triển các Hội chuyên ngành như Hội chăn nuôi bò sữa, Hội những người làm vườn, cây, cá kiểng… Kiến nghị với Trung ương và Thành phố có chính sách khuyến nông nhất là bảo trợ giá đối với SX nông nghiệp, nhất là sản phẩm từ bò sữa. Nhanh chóng liên kết với các ngành nông nghiệp và với các ngành KHKT để trang bị thiết bị hiện đại để chế biến sản phẩm từ sữa bò. Giải quyết đầu ra cho chăn nuôi bò sữa, khắc phục có hiệu quả tình trạng độc quyền hiện nay của nhà máy sữa Thống Nhất, cũng như có kế hoạch nâng công suất, chất lượng chế biến thức ăn gia súc đủ sức cung ứng nhu cầu chăn nuôi trong quận.

4. Tiếp tục thực hiện vận động đa dạng hóa nguồn vốn, phát huy nhiều thành phần kinh tế, thực hiện chương trình đô thị hóa trong đó công ty xây dựng và phát triển nhà đóng vai trò nòng cốt. Hết sức coi trọng chất lượng công trình, chú trọng các công trình trọng điểm, đồng thời vận động thực hiện đô thị hóa ở các Phường từ vận động xi măng hóa các đường hẻm, cải tạo mạng lưới điện, chỉnh trang nhà cửa. Chú trọng đô thị hóa làm thay đổi từng bước bộ mặt các Phường nông thôn và các Phường trọng điểm, khắc phục tình trạng nặng đầu tư kinh doanh nhà ở và xây dựng thương mại dịch vụ, để tập trung mở mang phát triển SX nông nghiệp TTCN, các cơ sở phúc lợi như trường học, y tế… và nhà ở cho CBNV và nhân dân lao động nghèo. Xây dựng tổ chức quản lý trật tự đô thị chuyên trách, trên cơ sở phát động phong trào nhân dân tự giác thực hiện công tác quản lý xây dựng, trật tự đô thị nhất là khu vực quốc phòng, dọc các trục lộ chính, thực hiện nếp sống văn minh đô thị.

Hai là:

Phải làm quán triệt các cấp, các ngành những quan điểm và các biện pháp tích cực làm chuyển biến tình hình kinh tế, phải chú trọng khai thác các tiềm năng, khả năng của Quận và tranh thủ các ngành bên trên để chăm lo giải quyết tốt đời sống nhân dân lao động nghèo, thực hiện tốt chính sách lao động thương binh và xã hội nhằm củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng bộ và chính quyền. Đa dạng hóa và xã hội hóa việc thực hiện chính sách xã hội với nhiều hình thức như xây dựng các quỹ cứu tế xã hội, quỹ bảo trợ học nghề, quy tụ nhiều ngành, giới, các tổ chức từ thiện. Có kế hoạch phát triển đa dạng hóa các loại hình TDTT, chú trọng tổ chức đời sống văn hóa ở cơ sở và kiện toàn bộ máy tổ chức ngành văn hóa thông tin đủ sức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Quy hoạch lại các nhà trẻ, mẫu giáo, trạm y tế một cách hợp lý theo các cụm dân cư, cũng như nhanh chóng đầu tư phát triển công tác dạy nghề trong Quận.

Kiện toàn hệ thống chính trị, chú trọng tăng cường cán bộ có nghiệp vụ, uy tín, nhiệt tình và đổi mới mạnh mẽ vai trò hoạt động của các đoàn thể mặt trận. Xây dựng quy chế làm việc giữa Đảng, chính quyền, đoàn thể mặt trận để không ngừng củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, chống tệ nạn quan liêu, cửa quyền, vi phạm quyền làm chủ và lợi ích chính đáng của nhân dân. Phải tăng cường thực hiện pháp chế XHCN, kiên quyết lập lại cho bằng được trật tự kỷ cương xã hội hiện đang “xuống cấp” trên địa bàn.

Bốn là:

Để tạo niềm tin trong Đảng và nhân dân, phải tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng, phải kiên quyết chống các hiện tượng tiêu cực, bố trí lại đội ngũ cán bộ chủ chốt theo tiêu chuẩn là: có bản lĩnh chính trị, có phẩm chất đạo đức, trình độ và năng lực, có uy tín với quần chúng. Từ nay các cơ sở Đảng phải phân công đảng viên làm công tác VĐQC (chỉ trừ những đ/c bệnh nặng có lý do chính đáng). Đồng thời tiếp tục tiến hành củng cố cơ sở Đảng và chi bộ đường phố để có đủ khả năng tổ chức thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ chính trị ở cơ sở, kịp thời phát hiện và đưa ra khỏi Đảng và cơ quan Nhà nước, các đoàn thể những người thoái hóa, biến chất.

Nghị Quyết Đại Hội Đảng Bộ Quận

Đại hội đại biểu Đảng bộ quận Tân Phú lần thứ IX (nhiệm kỳ 2005 – 2010) đã tiến hành trong 3 ngày 21, 22 và . Tham dự đại hội, ngoài 159 đại biểu đảng viên được triệu tập còn có sự quan tâm đến dự của đồng chí Lê Hoàng Quân – Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy, đồng chí Nguyễn Thiện Nhân – Ủy viên Thường vụ Thành ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND Thành phố, các đồng chí lãnh đạo, chuyên viên các ban Đảng, sở, ngành thành phố, các mẹ Việt Nam Anh hùng, các ban ngành, đoàn thể trong quận, đại biểu các quận bạn cùng các cơ quan thông tấn báo chí.

Với tinh thần làm việc nghiêm túc, khẩn trương và trách nhiệm cao, Đại hội đã tập trung vào các nội dung:

Báo cáo kết quả 2 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) về đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí.

Góp ý, thông qua báo cáo tổng hợp ý kiến của Đảng bộ quận đối vớidự thảo văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ VIII.

QUYẾT NGHỊ I/ Về cơ bản, nhất trí với các nội dung văn kiện đã được trình bày tại Đại hội, bao gồm:

Báo cáo đánh giá tình hình chính trị – kinh tế – xã hội – an ninh quốc phòng, công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, xây dựng hệ thống tổ chức, phát triển lực lượng chính trị trong Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể thành viên trong 2 năm (2004 – 2005) và phương hướng nhiệm vụ xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, xây dựng hệ thống chính trị của quận và cơ sở 5 năm (2005 – 2010).

Báo cáo kiểm điểm của Ban chấp hành lâm thời Đảng bộ quận.

Báo cáo kết quả 2 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII.

Báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng và Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ VIII (2006 – 2010).

Đại hội đã nhất trí thông qua một số chỉ tiêu chủ yếu trong nhiệm kỳ 2005- 2010 như sau:

Tỷ trọng công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp chiếm 75% cơ cấu kinh tế.

Tỷ trọng thương mại – dịch vụ chiếm 25% cơ cấu kinh tế.

Giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp tăng trưởng ít nhất là 14%.

Phấn đấu hoàn thành cơ bản chương trình bê tông xi măng, nhựa hoá các tuyến đường, hẻm.

Phấn đấu đến năm 2008 hoàn thành phổ cập bậc trung học.

Phấn đấu90% gia đình đạt gia đình văn hoá.

Phấn đấu có ít nhất50% khu phố đạt khu phố văn hoá.

Phấn đấu 02 phường được công nhận phường văn hoá.

Phấn đấu đến cuối năm 2007 cơ bản xoá hộ nghèo (theo tiêu chí 6 triệu đồng/người/năm).

Đảm bảo hoàn thành các chỉ tiêu về an ninh quốc phòng hàng năm.

Chương trình, công trình trọng điểm:

1. Chương trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 2005-2010 có tính đến năm 2023.

2. Chương trình xoá hộ nghèo giai đoạn 2006-2010.

3. Chương trình phổ cập bậc trung học và nâng cao chất lượng cơ sở vật chất, chất lượng dạy và học.

4. Chương trình xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh ở cấp phường.

5. Chương trình chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.

1. Xây dựng Trung tâm y tế, Trung tâm bồi dưỡng chính trị, Trung tâm dạy nghề, Trung tâm giáo dục thường xuyên, Nhà văn hoá công nhân, Nhà thiếu nhi.

2. Mở rộng đườngLũy Bán Bích.

3. Hoàn thành giai đoạn một khu liên hợp văn hoá – thể thao quận.

4. Hình thành Trung tâm kinh tế – thương mại – dịch vụ (Âu Cơ – Thoại Ngọc Hầu – Lũy Bán Bích).

90% Đảng bộ, chi bộ cơ sở đạt “trong sạch vững mạnh”.

Phấn đấu 85% – 90% chi bộ khu phố đạt “trong sạch vững mạnh”.

Báo Cáo Của Ban Chấp Hành Đảng Bộ Quận Gó Vấp Nhiệm Kỳ Iii Tại Đại Hội Đại Biểu Đảng Bộ Quận Gó Vấp Lần Thứ Iv

Ba năm qua, là thời kỳ Quận cùng với Thành phố chấp hành cơ chế quản lý mới của Trung ương xóa bỏ tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang tập trung dân chủ, hạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN theo nội dung các Nghị quyết 6, 7, 8 Trung ương và chương trình hành động của Thành ủy. Trong tổ chức thực hiện, Đảng bộ và nhân dân Quận Gò Vấp đã có nhiểu nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn và đã đạt được những thành quả đáng kể trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội.

Bên cạnh những thiếu sót, khuyết điểm chung của Thành phố và của cả nước, nhất là những va vấp, thiếu sót trong thực hiện giá – lương – tiền từ tháng 9/1985 đến nay, đã tác động xấu đến sản xuất, đời sống xã hội và hậu quả sẽ còn ảnh hưởng trong nhiều năm tới, trong sinh hoạt Đảng bộ Quận chúng ta cũng có nhiều thiếu sót và tồn tại.

Đại hội Đảng bộ lần này, sẽ kiểm điểm nghiêm túc việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ III. Trên cơ sở đó, vạch ra phương hướng mục tiêu và nhiệm vụ phát triển trong những năm 1986 – 1988 và mức phấn đấu đến năm 1990, tạo tiền đề phát triển cho những năm kế tiếp. Đồng thời bầu ra một tập thể Ban Chấp hành Quận ủy mới đủ năng lực lãnh đạo toàn Đảng bộ hoàn thành những nhiệm vụ mới do Đại hội nêu ra.

Báo cáo gồm hai phần:

Mục tiêu và nhiệm vụ những năm 1986 – 1988.

PHẦN THỨ NHẤT TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ QUẬN LẦN THỨ III (Từ tháng 6/1983 đến tháng 9/1986) A. VỀ KINH TẾ VÀ ĐỜI SỐNG 1. VỀ SẢN XUẤT: 1. Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp:

Tuy còn nhiều khó khăn về tiền mặt, vốn đầu tư, năng lượng, vật tư, nguyên liệu, nhưng với quyết tâm của toàn Đảng bộ, tình hình sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trong ba năm qua có hướng phát triển đi lên thuận lợi (nhất là từ tháng 8/1985 trở về trước) và ngăn chặn được mức giảm sút của năm 1983. Bước đầu đã có chuyển biến theo tinh thần đổi mới cơ chế quản lý, phát huy tính chủ động sáng tạo từ cơ sở ngay từ khâu xây dựng kế hoạch và cân đối 4 nguồn khả năng từ dưới lên. Đã giữ vững các cơ sở sản xuất cũ, phát triển thêm nhiều cơ sở sản xuất mới, tăng cường thêm nhiều trang thiết bị vật chất kỹ thuật; Bước đầu ứng dụng khoa học kỹ thuật cải tiến quản lý sản xuất nên đã nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả; Phát triển và cải tiến quy trình công nghệ, sản xuất thêm nhiều mặt hàng mới, phục vụ tốt hơn cho nông nghiệp, cho xuất khẩu và cho tiêu dùng nội địa.

Công tác cải tạo, tổ chức sắp xếp lại sản xuất theo ngành kinh tế kỹ thuật và theo địa bàn quản lý được chú ý hơn. Chất lượng và cung cách làm ăn tập thể theo hướng XHCN được nâng lên.

Giá trị tổng sản lượng công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp năm 1984 tăng 35,5% (do tác động của hoạt động cung ứng nguyên liệu sợi cho kế hoạch B ngành dệt, nên sản lượng vải năm 1984 tăng 41% so với năm 1983. Hiện nay, ngành dệt chiếm trên 50% giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp); Năm 1986 tăng 13,6% (đạt 599 triệu đồng), đạt được chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ III đề ra từ 12 – 15%; 9 tháng đầu năm 1986 đạt 453 triệu đồng (bằng 72% kế hoạch năm, dự tính 3 tháng còn lại sẽ phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch năm). Trong đó, giá trị hàng xuất khẩu tăng nhanh, (bình quân hàng năm là 51,7%, vượt chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ III đề ra từ 22 – 25%) nâng tỷ trọng từ 5,9% (1983) lên 7,98% (1985) trong giá trị tổng sản lượng toàn ngành, tỷ trọng về giá trị giao nộp sản phẩm đã tăng lên đáng kể (từ 54,4% năm 1983 lên 67,3% năm 1984, năm 1985 và 9 tháng đầu năm 1986 là 82%, vượt chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ lần thứ III đề ra là 80%.

Chất lượng sản phẩm làm ra có tiến bộ hơn trước, có 7 mặt hàng được tặng thưởng Huy chương tại các cuộc triển lãm toàn quốc. Tuy nhiên, công suất máy móc thiết bị chưa được sử dụng hết, chỉ đạt … không đạt được chỉ tiêu do Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ III đề ra (80 – 85%), nguyên nhân do đại bộ phận là sản xuất gia công cho Thành phố và Trung ương nên luôn bị động về giá cả, vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu. Chỉ tiêu thu hút lao động vào khu vực sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cũng không đạt được (13.800/15.000 lao động), chỉ đạt ………%.

Trong khu vực quốc doanh, hợp doanh và xí nghiệp đời sống, tuy giá trị tổng sản lượng có tăng lên đáng kể (năm 1985 tăng gấp 4 lần so với năm 1983), nâng tỷ trọng từ 5,9% (1983) lên 12,7% (1985) trong giá trị tổng sản lượng toàn ngành. Chủ yếu là do mở thêm một cơ sở mới (trong ba năm qua đã phát triển thêm 9 xí nghiệp, nâng tổng số lên 15 xí nghiệp). Tốc độ phát triển vẫn còn chậm, một mặt sự quan tâm đầu tư chưa đúng mức của Quận; Mặt khác bản thân từng xí nghiệp chậm xác định phương án sản phẩm; Trang thiết bị máy móc và mặt bằng sản xuất có được tăng cường, mở rộng nhưng chưa đáng kể (vốn cố định năm 1983 là 2,7 triệu đồng, năm 1985 tăng lên 4 triệu đồng). Do đó, kinh tế quốc doanh chưa thể hiện được vai trò chỉ đạo trong nền sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tại Quận.

Khu vực sản xuất tập thể đã được tổ chức sắp xếp theo 7 ngành kinh tế – kỹ thuật và có nhiều chuyển biến tốt nhất là khu vực HTX (trong ba năm qua đã đưa … tổ sản xuất lên 11 HTX), nâng tổng số HTX tiểu thủ công nghiệp lên 25 (chỉ tiêu đề ra từ 20 – 22 HTX). Các HTX ngành cơ khí và dệt phát triển mạnh và tương đối ổn định, công tác quản lý định mức tiêu hao năng lượng, vật tư, nguyên liệu có tốt hơn. Tuy nhiên, ngành chưa coi trọng đúng mức việc củng cố cung cách làm ăn tập thể XHCN nên còn một số tổ hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp, chất lượng còn kém, còn quan hệ chủ thợ, phát triển cơ sở mới chưa nhiều (vẫn giữ ở mức 73 tổ sản xuất). Khu vực cá thể tư nhân, công tác quản lý còn lỏng lẻo, chưa có biện pháp để động viên khuyến khích sử dụng tay nghề vốn có tại Quận, một số trong họ đã đi sản xuất ở các Quận khác. Số cơ sở cá thể, tư nhân hiện nay giảm gần 30% so với năm 1983 (676/931 cơ sở). Gần đây, có phát triển nhiều cơ sở sản xuất mới theo tinh thần quyết định 34 của Ủy ban Nhân dân Thành phố, nhưng nhìn chung vẫn còn chậm.

2. Sản xuất nông nghiệp:

Trong điều kiện có những khó khăn khách quan như giá vật tư, lương thực tăng, chính sách giá cả thu mua và định mức lương thực chưa hợp lý chưa có chính sách phát triển nông nghiệp ở Quận ven, cộng với thời tiết biến động ảnh hưởng đến sự phát triển cây trồng, con nuôi. Tuy vậy, phong trào sản xuất nông nghiệp trong những năm qua có được giữ vững và phát triển đã mạnh dạn chuyển hướng cây trồng, con nuôi có hiệu quả kinh tế cao theo quy hoạch xây dựng vành đai thực phẩm của Thành phố.

Giá trị sản lượng toàn ngành nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 12% (Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ III đề ra là 10%) tăng nhanh và chiếm tỷ trọng cao là do sự phát triển của ngành chăn nuôi (con heo).

a) Trồng trọt:

Đã từng bước ổn định cơ cấu cây trồng thích hợp theo quy hoạch, chuyển dần các cây có giá trị kinh tế thấp sang thâm canh cây có giá trị kinh tế cao và xuất khẩu (rau cao cấp, nghệ, hoa kiểng và cây dừa trên vùng đất bưng, cây cỏ cho bò sữa…). Tổng diện tích gieo trồng năm 1985 đạt 2.726ha (giảm 6% so với năm 1983), sản lượng rau đạt 39,57 tấn (tăng 3% so với năm 1983). Vòng quay bình quân của đất là 7,5 vòng/năm, khả năng giảm xuống do cơ cấu cây trồng có thay đổi (tăng diện tích rau cao cấp, cây dài ngày có hiệu quả…)

b) Chăn nuôi:

Tổng đàn heo năm 1985: 24.405 con, tăng 82% so với năm 1983, nhưng năm 1986 giảm xuống còn khoảng 2.000 con, do thiếu nguồn thức ăn và giá gia công, thu mua chưa hợp lý. Đầu heo gia công còn chiếm phần lớn.

Tổng đàn bò năm 1985 có 2.317 con, không tăng hơn năm 1983, nhưng đàn bò sữa (gồm bò nền và bò giống Hà Lan) tăng lên đáng kể trong khu vực gia đình và có chiều hướng phát triển tốt. Hiện có 360 con đang cho sữa.

Về nuôi cá có giảm xuống, hiệu quả thấp vì sự lãnh, chỉ đạo từ Quận ủy, Ủy ban Nhân dân Quận đến Phòng Nông nghiệp có phần buông lỏng và một phần do ảnh hưởng của thời tiết.

c) Công tác cải tạo, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất ứng dụng khoa học kỹ thuật:

Cơ bản hoàn thành đăng ký thống kê ruộng đất, thực hiện xóa bóc lột, điều chỉnh ruộng đất (xóa bóc lột 65 hộ, thu hồi 31,3ha. Vận động nhường cơm sẻ áo, tiếp nhận được 105ha và đã chia cấp được 89ha cho hộ thiếu đất và không có đất, tổ chức hướng dẫn vận động vào làm ăn tập thể). Đến cuối năm 1984, cơ bản hoàn thành việc đưa nông dân vào làm ăn tập thể với hai hình thức HTX và tập đoàn sản xuất. Đã vận động đưa các tập đoàn sản xuất lên 4 HTX Nông nghiệp, nâng tổng số HTX hiện có là 5 (chỉ tiêu do Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ III đề ra là 6, do tập đoàn Phường 17 chưa lên HTX được). Tính đến nay, đã tập thể hóa (chỉ tính trong diện hợp tác hóa): 84% về diện tích (332/395ha, chỉ tiêu do Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ III đề ra là 90%), 66% về số hộ (1.245/1889) và 41% về số nhân khẩu (1.535/3.699).

Năm 1985, bước đầu xây dựng được mô hình sản xuất kinh doanh toàn diện: công – nông – thương tín – xuất khẩu ở HTX An Hội I (Phường 12), từ đó đã tháo gỡ nhiều khó khăn trong sản xuất, đời sống của bà con nông dân.

Xây dựng mới 6 công trình điện trung thế (1 và 3 pha) dài 4,32km với tổng kinh phí 12.264.000 đồng. Xây dựng và tu sửa mới 2.200m đường giao thông nội đồng, tu sửa hệ thống đê bao với 20.000m 2 đất đào đắp. Xây lắp 10 đường cống qua đê và thoát nước nội đồng với 239 ống cống. Xây dựng thêm 44 giếng bán công nghiệp và thủ công thọc nội. Xây dựng văn phòng làm việc, nhà kho, sân phơi, chuồng trại, chăn nuôi, trang thiết bị máy móc trong các HTX Nông nghiệp, tổng kinh phí trị giá trên 12 triệu đồng. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ III đề ra chung vào việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp là 15 triệu đồng, nhưng đã thực hiện được 24,2 triệu đồng).

Đã mạnh dạn ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất có tác dụng nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp.

Tuy nhiên, trong những năm qua sản xuất nông nghiệp còn những mặt yếu kém:

– Công tác cải tạo chưa được coi trọng về chiều sâu nên chất lượng phong trào hợp tác hóa còn thấp, trình độ năng lực cán bộ quản lý các tập đoàn, HTX chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh trong tình hình mới.

– Tổ chức sắp xếp lại sản xuất, chuyển hướng cây trồng, con nuôi (nhất là cây trồng) còn chậm nên chưa khai thác hết tiềm năng lao động, đất đai. Một số diện tích có khả năng canh tác chưa được sử dụng có hiệu quả, chưa chủ động được nguồn thức ăn gia súc, phục vụ chăn nuôi. Do vậy, hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp thu được chưa cân xứng với cơ sở vật chất kỹ thuật đã đầu tư; Thu nhập nông nghiệp còn thấp, không ổn định, đời sống người nông dân còn khó khăn do chính sách đầu tư giá cả chưa hợp lý nên chưa thật sự khuyến khích người nông dân hăng hái sản xuất.

Nông trường Duyên Hải tuy có quá trình xây dựng tương đối lâu, nằm trên địa bàn tương đối thuận lợi, nhưng kết quả hoạt động rất hạn chế. Nguyên nhân do Quận ủy và Ủy ban Nhân dân Quận chưa thực sự quan tâm đúng mức, chưa làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, Đảng viên và công nhân viên nông trường, chưa thấy hết khó khăn để tạo điều kiện thuận lợi cho nông trường tháo gỡ vươn lên. Ý thức trách nhiệm của cán bộ, Đảng viên, công nhân viên của nông trường thể hiện chưa cao.

3. Xây dựng cơ bản quản lý nhà đất và giao thông vận tải: a) Xây dựng cơ bản:

Trong những năm 1983 – 1985, tình hình xây dựng cơ bản phát triển khá trên cả ba khu vực: Nhà nước, tập thể và nhân dân. Đã mạnh dạn sử dụng vốn tự có của Quận đề đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi công cộng và cho kinh doanh sản xuất.

Quận đã đầu tư trên 158 triệu đồng cho các công trình phúc lợi công cộng, giải tỏa nhà chật hẹp, sửa chữa nhà làm việc (Câu lạc bộ Hưu trí, Câu lạc bộ Thiếu nhi, Nhà Truyền thống, Đài liệt sĩ, các Câu lạc bộ Văn hóa phường 4, 11, 15, Ủy ban Nhân dân Phường 1, 3; 148 căn hộ giải tỏa nhà chật hẹp, xây dựng khoa nhi ở bệnh viện Quận, sửa chữa 33.700m 2 nhà cơ quan, trung tâm thương nghiệp Ngã Năm, xây dựng 42 phòng học Phổ thông và 1.400m 2 nhà trẻ, mẫu giáo…).

Các cơ sở tập thể đã đầu tư 108 triệu đồng để mở rộng mặt bằng sản xuất kinh doanh (cửa hàng trung tâm chợ Xóm Mới, chợ Gò Vấp, cửa hàng vật liệu xây dựng (Công ty Thương nghiệp HTX), cửa hàng ký gởi Liên hiệp xã – tiểu thủ công nghiệp, mở rộng nhà xưởng sản xuất ở các HTX Thống Nhất, Tấn Phát, Đồng Tâm, Quang Minh…

Các hộ nhân dân theo hướng dẫn đã xây dựng được 716 căn hộ mới.

Tuy vậy, trong công tác xây dựng nhà ở trong nhân dân chưa theo hướng quy hoạch lâu dài: chưa huy động khai thác triệt để các nguồn vốn để xây dựng theo phương châm “Nhà nước, các cơ quan trú đóng địa phương và nhân dân cùng làm”, vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Quận chưa đáp ứng yêu cầu, còn dựa vào nguồn vốn Thành phố cấp.

Chất lượng xây dựng các công trình chưa cao, thời gian thi công còn kéo dài, khi đưa vào sử dụng chưa có nội dung thiết thực để đem lại hiệu quả, chưa tập trung quản lý nguồn vốn xây dựng vào một đầu mối.

b) Công tác quản lý, phân phối nhà (phần lớn là nhà cấp 3, 4)tuy có tiến bộ nhưng chưa chặt chẽ. Còn một số trường hợp thiếu công bằng hợp lý. Chưa kiên quyết xử lý các trường hợp chiếm dụng và xây dựng nhà trái phép. Các trường hợp tranh chấp nhà trong dân chưa giải quyết kịp thời.

Đã giải tỏa 5 nghĩa địa với 17ha đưa vào xây dựng công trình phục vụ cho sản xuất và đời sống.

c) Giao thông vận tải:

Hệ thống đường giao thông trong Quận từng bước được tu bổ và nâng cấp. Tuyến đường xe buýt đã kéo dài từ Ngã Năm đến An Nhơn và Thông Tây Hội, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của nhân dân. Các đầu phương tiện như xe vận tải nhẹ, xe lam khách, xích lô máy, xe ba gác, xích lô đạp đã được tổ chức thành 6 HTX và 04 tổ hợp vận tải, nhưng việc quản lý giá cả, phương tiện thiếu chặt chẽ, thái độ phục vụ chưa tốt, nhất là đối với xe xích lô và xe ba gác đạp.

Công tác duy tu bảo dưỡng đường sá có được quan tâm (mở thêm các tuyến nội đồng trong khu vực nông nghiệp dài 4.200m, ban sửa 48.000m 2 mặt đường) nhưng chưa ngăn chặn được tình trạng xuống cấp của các trục lộ chính hiện nay, công tác nạo vét khai thông hệ thống thoát nước còn chậm, còn một số khu vực còn ngập nước trong mùa mưa.

Đã trang bị 238 bóng đèn cao áp trong các tuyến đường chính.

4. Công tác khoa học kỹ thuật:

Việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào phục vụ sản xuất và đời sống bước đầu được quan tâm hơn. Co quy tụ được lực lượng khoa học kỹ thuật trong Quận và một số ở ngoài Quận. Đã ứng dụng sản xuất thành công trên 20 đề tài và các sản phẩm có giá trị kinh tế cao như: dàn phay đất PĐ2, máy lọc khung bản, máy nghiền thức ăn gia súc (cơ khí), vải soie sọc nổi, KT sọc (dệt), hầm ủ khí Biogaz thay chất đốt, tuyển chọn lai tạo heo giống Yorshire, dùng huyết thanh ngựa chữa để nâng cao khả năng sinh sản của heo nái, nâng cao chất lượng thụ tinh nhân tạo cho heo nái (nông nghiệp) v.v…

Đó là những thành quả bước đầu tốt, nhưng chậm nhân ra và nâng lên quy mô sản xuất lớn, hiệu quả cao. Tác động của ban khoa học kỹ thuật chưa cao, chưa đủ sức để làm tham mưu cho Cấp ủy và Ủy ban Nhân dân Quận chưa huy động hết sức mạnh của đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật vốn có tại Quận (bao gồm tại chỗ và trú đóng).

II. VỀ PHÂN PHỐI LƯU THÔNG VÀ CHĂM LO ĐỜI SỐNG

Hoạt động của các ngành trong khối phân phối lưu thông, quản lý thị trường và chăm lo đời sống có nhiều tiến bộ đáng kể trong tình hình chung còn có nhiều khó khăn như thiếu tiền mặt, giá cả ngày càng tăng, thị trường luôn biến động v.v…

1. Vể phân phối lưu thông:

Trong ba năm qua, hệ thống thương nghiệp XHCN tiếp tục được củng cố và phát triển, tổ chức hoạt động kinh doanh, phục vụ có tiến bộ hơn trước. Công tác cung ứng hàng xuất khẩu đã góp phần tích cực vào việc cung ứng vật tư, nguyên liệu cho sản xuất, công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn Quận… Mặt bằng thương nghiệp XHCN tăng gấp 6 lần so với năm 1983. Mạng lưới công ty, cửa hàng, điểm bán, đại lý phát triển tốt, nổi bật là khu thương nghiệp Ngã Năm, cửa hàng Trung tâm Xóm Mới, các cửa hàng thực phẩm tươi sống, dịch vụ thương nghiệp HTX, kinh doanh lương thực tại chợ Gò Vấp.

Doanh số bán ra năm 1985 là 5 tỷ, tăng gấp 5 lần so với năm 1983 (tăng nhanh, chủ yếu là do yếu tố giá cả), tỷ trọng bán lẻ của thương nghiệp XHCN cũng tăng từ 41,5% năm 1984 lên 70% năm 1985 (Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ II đề ra từ 70 – 75%). Trong đó, bán lẻ các mặt hàng chủ yếu là do bình quân đầu người tăng 15% so với 1983 (như thịt heo, cá, trứng, rau, đường, vải, bột giặt) chỉ có ba mặt hàng giảm hơn trước là lương thực, nước chấm và bột ngọt. Đã chiếm lĩnh ưu thế đối với ba mặt hàng lương thực, thịt heo và vải.

Công tác cải tạo thương nghiệp tư doanh có tốt hơn, đã tổ chức sắp xếp lại 5 ngành hàng thiết yếu như: gạo, thịt, rau, cá và chất đốt, đưa 91% chị em tiểu thương ở các chợ vào 154 tổ ngành hàng mua chung bán riêng, đã tiến hành hợp tác liên doanh với 67 hộ (A – B) tiểu thương có tay nghề, vốn liếng. Công tác quản lý thị trường có tiến bộ, đã biết dựa vào sức mạnh của quần chúng thông qua các đoàn thể và gắn chặt với phường để đấu tranh, khống chế có hiệu quả các hoạt động của thương lái, tranh mua với Nhà nước, chống bọn đầu cơ tích trữ, sản xuất hàng gian, hàng giả và kinh doanh trái phép.

Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả có tiến bộ trong phục vụ cho yêu cầu sản xuất và đời sống. Vòng quay đồng tiền tăng từ 4,2 vòng năm 1983 lên 15 vòng năm 1985. Thuế công thương nghiệp và các nguồn thu ngân sách tăng gấp 5 lần (do yếu tố giá). Công tác tín dụng có tập trung đầu tư chiều sâu cho phát triển sản xuất, kinh doanh (chủ yếu là kinh doanh).

Mạng lưới HTX tiêu thụ phường có được củng cố, nhưng nói chung còn yếu, chưa làm tốt chức năng trực tiếp phục vư 2 bữa ăn của nhân dân lao động trên địa bàn phường. Thái độ phục vụ của một số mậu dịch viên còn hách dịch, cửa quyền gây phiền hà cho nhân dân.

Công tác cải tạo thương nghiệp có được chú trọng, nhưng chất lượng còn yếu. Hiệu quả hoạt động của các cửa hàng hợp doanh còn thấp, do quản lý thiếu chặt chẽ. Công tác quản lý thị trường tuy có vận động được rộng rãi quần chúng tham gia, nhưng vẫn chưa thành phong trào thường xuyên, liên tục và còn nhiều sơ hở.

Chưa có biện pháp tốt trong việc tổ chức thực hiện thu chênh lệch giá nên chưa phân biệt được hiệu quả thực sự của kinh doanh và làm mất một phần nguồn thu ngân sách.

Phương thức hoạt động của mạng lưới vận động tiết kiệm chưa tốt, còn gây phiền hà trong việc rút tiền của nhân dân. Đầu tư cho phát triển sản xuất còn thấp. Tiền mặt lưu thông ngoài quỹ đạo Nhà nước còn nhiều. Việc thu thuế công thương nghiệp chưa được vận dụng tốt vào tình hình thực tế của địa phương, nên chưa khuyến khích sản xuất, chưa điều tiết hợp lý các hoạt động sản xuất kinh doanh có thu nhập lớn. Việc giao chỉ tiêu nộp thuế có những mặt chưa bàn bạc cho cơ sở có nhận thức trách nhiệm rõ ràng.

Trọng tâm là giải quyết việc làm, nhà ở và nâng cao thu nhập thực tế cho người lao động.

Thực hiện các chế độ chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động, quản lý lao động ở khu vực tập thể, cá thể còn yếu, có nơi còn buông lỏng.

Về công tác giải tỏa nhà rách nát, chật hẹp và công tác chống dột đã có nhiều cố gắng. Đã xây dựng mới 148 căn nhà cho diện giải tòa nhà chật hẹp với phương châm b) “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Hàng năm, Quận đã cung cấp vật tư, nguyên liệu cho hàng trăm hộ để sửa chữa chống dột.

Tuy nhiên, thu nhập giữa khu vực kinh doanh sản xuất và hành chính sự nghiệp còn quá chênh lệch, chưa có biện pháp điều tiết hợp lý. Hiệu quả của xí nghiệp đời sống còn thấp, do vậy không thực hiện được chỉ tiêu tăng thu nhập như Nghị quyết đề ra. Đặc biệt, từ Quý IV năm 1985 đến nay, đời sống của CB-CNV và nhân dân lao động giảm sút nghiêm trọng, gây nhiều ảnh hưởng không tốt về kinh tế cũng như tâm lý xã hội.

Phong trào văn hóa văn nghệ và thông tin tuyên truyền có bước phát triển khá hơn. Phong trào vận động xây dựng nếp sống mới, con người mới XHCN “Con người lao động có lối sống văn minh, giàu tình thương và biết tôn trọng lẻ phải”, tiếp tục chuyển biến trong từng ngành, từng giới, từ cơ quan, xí nghiệp đến từng tổ dân phố và hộ gia đình. Trong sản xuất, đề cao ý thức kỷ luật lao động, phấn đấu nâng cao năng suất và chất lượng. Trong thương nghiệp, thái độ phục vụ của mậu dịch viên ngày càng thể hiện “văn minh” thương nghiệp. Mối quan hệ giữa người và người tại nơi cư trú có đoàn kết gắn bó hơn, từng bước xóa được lối sống “đèn nhà ai nấy rạng”, sự tương trợ giúp đỡ nhau những lúc khó khăn, hoạn nạn ngày càng phát triển.

Nhiệm kỳ qua, đã xây dựng được Đài Truyền thanh Quận, các Trạm Truyền thanh phường đến các cụm loa phóng thanh khu phố, là phương tiện nhạy bén trong công tác thông tin tuyên truyền. Nhiều phường đã xây dựng được Câu lạc bộ văn hóa, góp phần khắc phục dần sự chênh lệch về hưởng thụ văn hóa trong các khu dân cư. Các hoạt động thư viện, nhiếp ảnh, chiếu phim, phát hành sách có bước phát triển.

Tồn tại đáng lưu ý nhất của công tác văn hóa văn nghệ và thông tin tuyên truyền hiện nay là chưa phục vụ nhạy bén, linh động và kịp thời cho nhiệm vụ chính trị của Quận, chưa thật sự là công cụ sắc bén trong thúc đẩy phong trào hành động cách mạng của quần chúng từ Quận đến cơ sở.

Cơ sở vật chất còn thiếu, chưa xây dựng được Nhà hát Nhân dân như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ III đề ra. Tinh thần trách nhiệm chưa được đề cao, nên hoạt động của Ngành còn mang tính thời vụ, thiếu sôi nổi liên tục.

Tồn tại đáng quan tâm trong ngành giáo dục hiện nay là phẩm chất chính trị của một số giáo viên chưa thật đảm bảo. Chất lượng đạo đức và chính trị của học sinh còn yếu. Chưa kết hợp chặt chẽ 3 môi trường giáo dục: nhà trường, gia đình và xã hội để thiết thực chăm lo thế hệ trẻ. Trường lớp và thiết bị trường học chưa đáp ứng yêu cầu giảng dạy và học tập, còn nhiều lớp sĩ số học sinh quá đông. Đời sống giáo viên nói chung cònnhiều khó khăn, chưa được chăm lo cải thiện tốt để tạo sự yên tâm trong công tác.

Tuy nhiên, ngành Y tế chưa thực hiện tốt việc kết hợp giữa Y học dân tộc và Y học hiện đại trong chữa trị; Phong trào trồng và sử dụng thuốc nam chưa được phát động liên tục, cơ sở vật chất và dụng cụ y tế chưa đáp ứng được yêu cầu chăm lo sức khỏe cho nhân dân; Quan điểm và thái độ phục vụ trong một bộ phận cán bộ nhân viên ngành Y tế chưa tốt còn gây phiền hà cho bệnh nhân. Việc chăm lo đời sống cho cán bộ, công nhân viên ngành Y tế chưa được Ban Lãnh đạo ngành quan tâm đúng mức.

Tồn tại lớn nhất hiện nay là cơ sở vật chất còn rất thiếu, trong Quận chưa xây được hồ bơi và Câu lạc bộ thể dục thể thao để thu hút thanh thiếu niên, nhất là trong dịp Hè. Sân vận động của Quận tuy có được đầu tư sửa chữa, nhưng chưa có kế hoạch sử dụng tốt. Phong trào thể dục buổi sáng chưa phát động sâu rộng và liên tục.

5. Công tác thương binh xã hội:

Số lượng đối tượng gia đình chính sách đã tăng lên gần3.000 người, phong trào “Toàn Đảng, toàn dân thực hiện chính sách thương binh xã hội” bước đầu đạt kết quả tốt. Các phong trào nhận đỡ đầu thân nhân gia đình liệt sĩ. Phong trào mở sổ vàng tiết kiệm cho cha mẹ và con gia đình liệt sĩ, xây dựng nhà tình nghĩa. Giúp đỡ sửa chữa nhà và dụng cụ sinh hoạt gia đình… đã có nhiều tác động tốt. Phong trào thi đua phấn đấu trở thành người công dân kiểu mẫu và gia đình cách mạng gương mẫu tiếp tục phát huy tốt, có trên 60% đối tượng đạt danh hiệu trên. Các hộ già yếu, neo đơn từng bước được bà con giúp đỡ. Công tác Trần Quốc Toản có được duy trì tốt.

Trong nhiệm kỳ qua, Quận đã thành lập Câu lạc bộ hưu trí, Nhà Truyền thống, xây mới Đài liệt sĩ, đã quy tập 272 mộ liệt sĩ về Nghĩa trang liệt sĩ Thành phố. Đến nay, toàn Quận đã được tặng thưởng 1.437 huân, huy chương và Bằng khen cho gia đình và cá nhân có công trong 3 thời kỳ kháng chiến, hiện còn trên 1.200 hồ sơ đang chờ xét duyệt.

Tồn tại chung nhất của công tác thương binh xã hội là các biện pháp chăm lo đời sống của các gia đình chính sách chưa thật căn cơ và thường xuyên chưa tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế gia đình để giải quyết lao động chưa có việc làm ổn định, chưa huy động được khả năng của các đồng chí hưu trì vào công cuộc cải tạo và phát triển kinh tế, giải quyết học hành cho các cháu trong các gia đình chính sách còn có mặt chưa tốt. Công tác giáo dục truyền thống chưa được coi trọng. Tệ nạn xã hội có chiều hướng phát triển, chưa có biện pháp giải quyết căn cơ.

C. VỀ CÔNG TÁC AN NINH QUỐC PHÒNG VÀ THỰC HIỆN PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA I. TÌNH HÌNH AN NINH CHÍNH TRỊ VÀ TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI:

Lực lượng Công an Nhân dân ngày càng được củng cố về số và chất lượng. Phong trào thực hiện 6 lời dạy của Bác Hồ được đẩy mạnh. Qua đó, trình độ chuyên môn nghiệp vụ có được nâng lên, góp phần tích cực trong công cuộc cải tạo, xây dựng và phát triển kinh tế tại Quận nhà. Năm 1985, lực lượng Công an Quận Gò Vấp vinh dự được Hội đồng Nhà nước tặng danh hiệu cao quý đơn vị “Anh hùng Lực lượng vũ trang”.

Tuy nhiên, ý thức cảnh giác cách mạng chưa được đề cao đúng mức. Công tác nắm hộ, nắm người chưa chặt, công tác chuyển hóa địa bàn chưa thật căn cơ. Phạm pháp hình sự và các vi phạm quy tắc trật tự xã hội có chiều hướng phát triển. Chưa thật chủ động các phương án và biện pháp phòng chống tội phạm ngay từ cơ sở, thiếu kết hợp chặt chẽ trong quản lý cán bộ công nhân viên ở cơ quan và nơi cư trú. Công tác xây dựng phường an toàn, cơ quan an toàn chưa được coi trọng đúng mức, còn nhiều sơ hở, nhất là ở các đơn vị kinh tế. Công an đường phố chưa phát huy hết chức năng trong địa bàn trách nhiệm. Quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động có nơi, có lúc còn bị vi phạm, làm cho đời sống của nhân dân chưa thật sự yên tâm.

Trường Giáo dục công – nông nghiệp chưa làm tốt nhiệm vụ cảm hóa các đối tượng phạm pháp trở thành những con người có ích cho xã hội sau này.

Công tác giao quân nghĩa vụ quân sự hàng năm đều đạt được chỉ tiêu trên giao với chất lượng có tốt hơn. Công tác huấn luyện, diễn tập và kiểm tra các phương tiện phục vụ quốc phòng có giữ được thường xuyên. Các phong trào “Vì tuyến đầu Tổ quốc”, thực hiện tốt chính sách “hậu phương quân đội” ngày càng được củng cố tốt hơn và có tác động đến ý thức của nhân dân.

Tuy nhiên, những quan điểm cơ bản về đường lối quân sự của Đảng trong tình hình mới chưa được quán triệt sâu sắc trong cán bộ, Đảng viên, chiến sĩ và nhân dân. Thế trận chiến tranh nhân dân chưa thực vững chắc. Công tác củng cố và xây dựng lực lượng tự vệ rộng rãi đạt kết quả còn thấp. Tự vệ Phường nhiều nơi còn thiếu và chất lượng chưa đảm bảo. Công tác tuyên truyền, học tập luật Nghĩa vụ quân sự chưa thật sâu rộng trong lứa tuổi thanh niên và nhân dân, chưa làm cho thanh niên xác định trách nhiệm tham gia quân đội bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ, tình hình trốn tránh nghĩa vụ quân sự còn nhiều. Công tác quản lý quân dự bị có tiến bộ, nhưng chưa đảm bảo yêu cầu khi có tình huống. Xử lý các trường hợp quân nhân đào, bỏ ngũ chưa kịp thời và thiếu nghiêm túc, còn để xảy ra những tiêu cực nghiêm trọng. Thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự về còn một số chưa được bố trí việc làm.

Công tác giải quyết thư tố cáo, khiếu nại có được tập trung. Công tác xét xử đảm bảo đúng luật và đúng đối tượng. Công tác thanh tra và hòa giải có chuyển biến tốt từ cơ sở, hạn chế các vụ việc thưa kiện gởi lên trên.

Tồn tại đáng chú ý hiện nay là chưa xử lý nghiêm các trường hợp tố giác sai sự thật. Một số vụ việc xử lý chưa kịp thời, có ảnh hưởng đến tình hình chung.

D. HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN, CÁC ĐOÀN THỂ VÀ MẶT TRẬN CÁC CẤP

Trong từng thời gian, Ủy ban Nhân dân Quận đến phường đã cụ thể hóa các chủ trương và nghị quyết của Quận ủy và Cấp ủy phường, thể hiện được trách nhiệm là cơ quan quyền lực quản lý Nhà nước và là công cụ để phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.

Tuy nhiên, hoạt động của bộ máy chính quyền từ Quận đến cơ sở còn một số mặt tồn tại: Bộ máy chính quyền còn cồng kềnh, kém hiệu lực, có tình trạng vừa thiếu, vừa thừa trong một tổ chức đơn vị. Các ban, phòng chưa làm tốt chức năng tham mưu cho Cấp ủy và Ủy ban Nhân dân Quận. Một số đơn vị chưa phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính, kinh tế với chức năng sản xuất kinh doanh nên hoạt động còn trùng lắp, chồng chéo nhau. Ủy ban Nhân dân Quận chưa điều hòa được hoạt động của các khối, giữa các ngành trong nội bộ khối để hỗ trợ nhau hoàn thành niệm vụ chung, tình trạng cục bộ ngành vẫn còn kéo dài. Ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần chấp hành nghị quyết của một số cá nhân, đơn vị thiếu nghiêm túc, chưa làm tròn trách nhiệm.

Từ trong thưc tiễn, các phong trào hành động cách mạng của quần chúng, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã tập hợp và phát triển lực lượng, đã giới thiệu hàng trăm Đoàn viên, Hội viên ưu tú cho Đảng xét kết nạp.

Tồn tại lớn nhất trong công tác vận động quần chúng hiện nay là chưa làm cho Đảng bộ có nhận thức đầy đủ về quan điểm lấy dân làm gốc, sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Do đó, các phong trào hành động cách mạng chưa huy động được đông đảo quần chúng. Các Cấp ủy Đảng, từ Quận đến phường chưa quan tâm đúng mức đến công tác vận động quần chúng, chưa có kế hoạch và biện pháp cụ thể để thực hiện Nghị quyết của Quận ủy về công tác vận động quần chúng. Lề lối và phong cách làm việc của chính quyền, của các công ty, xí nghiệp chưa thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của công nhân viên chức và nhân dân lao động, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho các đoàn thể hoạt động, thậm chí có nơi thiếu lắng nghe ý kiến đoàn thể và quần chúng, còn quan liêu, cửa quyền, thiếu sâu sát cơ sở, xa rời quần chúng còn phổ biến, có nơi còn vi phạm quyền làm chủ tập thể của công nhân viên chức và gây nhiều phiền hà cho nhân dân lao động.

Mặt trận và các đoàn thể trong làm việc còn nặng về hành chính giấy tờ, phương thức và nội dung hoạt động còn nghèo nàn, chưa gắn thiết thực đến quyền lợi của Đoàn viên, Hội viên nên thiếu sức thu hút. Tuy số lượng Hội viên có tăng lên đáng kể, nhưng chất lượng nhìn chung còn yếu, chưa cân xứng với yêu cầu nhiệm vụ chung.

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh chưa thể hiện đầy đủ vai trò cánh tay đắc lực, đội hậu bị của Đảng, còn buông lơi công tác tập hợp vào tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp Thanh niên, nhất là ở khu vực đường phố.

Các đoàn thể chưa nắm chắc và phân loại đối tượng để có nội dung giáo dục và vận động sát hợp cho từng loại đối tượng. Cán bộ làm công tác vận động quần chúng từ Quận đến cơ sở còn mỏng và yếu.

Trong nhiệm kỳ qua, Đảng bộ đã có những bước trưởng thành đáng kể trên ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Bảo đảm việc tổ chức triển khai học tập các Chỉ thị, Nghị quyết của cấp trên và của Quận một cách đầy đủ. Qua đó, đã nâng lên trình độ nhận thức chính trị của cán bộ Đảng viên về tình hình nhiệm vụ và yêu cầu của cuộc cách mạng XHCN hiện nay, nội dung cụ thể của chặng đường đầu thời kỳ quá độ lên CNXH, xác định rõ hơn tính chất đấu tranh gay go quyết liệt giữa hai con đường, từ đó đề cao cảnh giác cách mạng trước âm mưu phá hoại nhiều mặt của địch, nhất là trên lãnh vực kinh tế và chiến tranh tâm lý. Đại bộ phận cán bộ Đảng viên đã phấn đấu tu dưỡng tốt, nâng cao phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ cộng sản.

Đảng bộ đã không ngừng rèn luyện và nâng cao sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo của Cấp ủy Đảng từ Quận đến cơ sở, có nhiều tiến bộ trong lãnh đạo kinh tế, xã hội trên cơ sở phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động và hiệu lực quản lý của chính quyền. Đảng bộ đã luôn năng động với tinh thần dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm trước cấp trên và trước đời sống nhân dân, quyết tâm làm chuyển biến tình hình một bước có căn cơ và vững chắc hơn. Đã có nhiều tiến bộ trong việc đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, sa sút ý chí, thoái hóa biến chất, nhất là trong lĩnh vực kinh tế.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ Đảng viên có được chú ý hơn. Trong ba năm, đã cử 173 cán bộ Đảng viên đi học tại các trường Đảng và các lớp chuyên môn nghiệp vụ do Trung ương và Thành phố tổ chức, đã liên tục mở các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị chương trình Cơ sở và Sơ cấp với 420 lượt Đảng viên tham dự, ngoài ra đã phối hợp với Trường Lý luận Chính trị tại chức Thành phố đã mở lớp lý luận chính trị Trung cấp tại chức cho 220 cán bộ Đảng viên từ Quận đến phường, hiện còn 178 đồng chí đang theo học.

Công tác tổ chức cán bộ cũng đã có chuyển biến hơn. Trong ba năm, đã đề bạt và điều động sắp xếp hàng trăm cán bộ ở các vị trí chủ chốt trong từng đơn vị (đề bạt 14 Trưởng và 33 Phó ban phòng cấp Quận, 08 Giám đốc và 25 Phó Giám đốc công ty, xí nghiệp, bệnh viện, 07 Bí thư Phường ủy, 09 Chủ tịch và 17 Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân phường, thay đổi công tác khác 26 đồng chí), xóa dần cơ sở trắng (hiện nay còn một cơ sở trắng là Phòng Thể dục thể thao), có chú ý hơn đối với số cán bộ trẻ, nữ có năng lực, phẩm chất trưởng thành từ trong thực tiễn phong trào hành động cách mạng. Công tác khảo sát đội ngũ cán bộ cho hướng quy hoạch, đào tạo cán bộ kế cận có được chú ý.

Tồn tại lớn nhất trong công tác xây dựng Đảng hiện nay là:

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng tiến hành thiếu thường xuyên và nhuần nhuyễn trong toàn Đảng bộ, sự giác ngộ về nhận thức chính trị và lập trường quan điểm giai cấp công nhân của một bộ phận Đảng viên còn yếu kém, còn biểu hiện bàng quang, sa sút ý chí, thiếu tin trong tổ chức thực hiện các Nghị quyết, chủ trương của Đảng, ý thức tổ chức, kỷ luật kém, thoái hóa, biến chất, làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng đối với quần chúng.

Công tác quy hoạch còn chậm, còn nhiều bị động, lúng túng nên trong bố trí, sắp xếp cán bộ còn mang tính chắp vá, thụ động. Sự phân bổ Đảng viên chưa đồng đều (chủ yếu tập trung nhiều ở khu vực hành chính sự nghiệp và Công an) chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong từng lĩnh vực. Chất lượng Đảng viên mới còn một số trường hợp chưa cao, phát triển Đảng trong công nnân sản xuất trực tiếp còn quá ít (chỉ 12 đồng chí), ứng với yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong từng lĩnh vực. Chất lượng Đảng viên mới còn một số trường hợp có nghiêm trọng. Công tác kiểm tra việc thực hiện các quyết định chưa được quan tâm chỉ đạo thường xuyên. Trong sinh hoạt Đảng từ cơ sở đến Ban Chấp hành Quận Đảng bộ còn buông lỏng chế độ tự phê bình và phê bình đưa đến tình trạng mất đoàn kết nội bộ xảy ra kéo dài ở một số đơn vị cơ sở, ngay cả trong ban Thường vụ Quận ủy làm giảm sức chiến đấu của toàn Đảng bộ, làm hạn chế đến thành quả chung mà lẽ ra Đảng bộ chúng ta phải đạt được cao hơn.

Công tác xây dựng cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh có chuyển biến, nhưng cơ sở được công nhận còn ít, năm 1982 có 06 cơ sở được công nhận đơn vị trong sạch, vững mạnh (trong đó có 04 phường), 02 năm năm 1983 – 1984 có 07 đơn vị (chiếm tỷ lệ 11% trong đó có 01 phường). Đáng tiếc là một số cơ sở được công nhận trong sạch, vững mạnh nhưng không giữ vững liên tục. Nguyên do chính, Quận ủy chưa đầu tư nghiên cứu các biện pháp chỉ đạo cụ thể, nhưng chủ yếu vẫn là do Cấp ủy của từng Đảng bộ, Chi bộ chưa quan tâm đúng mức đến công tác quản lý, giáo dục để nâng cao năng lực, nhận thức và rèn luyện phẩm chất đạo đức của đơn vị, chưa có biện pháp ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực và chưa quán triệt sâu quan điểm lấy công tác vận động quần chúng, phát huy quyền làm chủ tập thể của cán bộ công nhân viên để làm nền tảng cho công tác xây dựng Đảng bộ, Chi bộ trong sạch, vững mạnh.

Như phần trên đã nêu, cho phép kết luận rằng: Đảng bộ và nhân dân Quận Gò Vấp đã chấp hành nghiêm túc các chủ trương, nghị quyết của Trung ương và Thành ủy đã có nhiều sáng tạo trong tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu, chỉ tiêu do Đại hội đại biểu Quận Đảng bộ lần thứ III đề ra. Nhưng thiếu sót, khuyết điểm, tồn tại vẫn còn nhiều cụ thể trên các lĩnh vực là:

Sản xuất nông nghiệp có quan tâm đầu tư chiều sâu, có mạnh dạn thay đổi và từng bước xác định rõ cơ cấu cây, con có hiệu quả cao trên từng vùng đất, bảo đảm thực hiện nhiệm vụ vành đai thực phẩm của Thành phố. Tuy về cơ bản đã hoàn thành việc đưa nông dân vào làm ăn tập thể, nhưng tỷ lệ sử dụng đất đai và lao động tập thể còn thấp, hiệu quả kinh tế đem lại chưa cân xứng với đồng vốn đã đầu tư, công tác cải tạo vùng bưng tiến hành còn chậm.

Tuy nhiên, thương nghiệp XHCN còn xu hướng chạy theo doanh số, chưa chú trọng đúng mức đến hoạt động dịch vụ và các mặt hàng thiết yếu trong bữa ăn hàng ngày của nhân dân lao động, đầu tư nhiều cho sản xuất tại chỗ để tăng quỹ hàng hóa; Tiền mặt chạy ngoài quỹ đạo Nhà nước còn nhiều. Nhìn chung,hiệu quả đem lại của thương nghiệp XHCN chưa đảm bảo vững chắc.

Về cơ sở vật chất của ngành văn hóa xã hội nói chung còn nghèo. Mặc dù trong mấy năm qua, Quận đã tích cực đầu tư xây mới và sửa chữa, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Nội dung thông tin tuyên truyền và văn hóa văn nghệ chưa thật phong phú và thiếu liên tục. Công tác giáo dục chính trị, đạo đức và lòng yêu Tổ quốc XHCN cho học sinh cần phải quan tâm nhiều hơn nữa, đặc biệt đối với đội ngũ thầy, cô giáo, đẩy mạnh công tác phòng chống dịch bệnh. Phong trào thể dục thể thao chưa tạo thành phong trào liên tục sâu rộng trong quần chúng.

Tuy nhiên, việc chuyển hóa địa bàn chưa thật căn cơ, trật tự xã hội còn nhiều vấn đề phải giải quyết, công tác nắm hộ, nắm người chưa chặt, quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động còn bị vi phạm, các vụ tiêu cực còn xảy ra trong lực lượng Công an và quân sự địa phương. Một số nơi Công an khu vực và tự vệ phường chưa kết hợp chặt chẽ trong địa bàn trách nhiệm.

Song các đoàn thể chưa nắm thật chắc con người, để có biện pháp vận động, giáo dục cụ thể cho từng đối tượng. Chưa có biện pháp thiết thực trong việc chăm lo đời sống, giải quyết việc làm, phát triển kinh tế gia đình… cho Hội viên, nên sức thu hút của đoàn thể còn hạn chế, một phần do việc bố trí cán bộ đoàn thể thiếu ổn định, năng lực của họ, nhất là ở cơ sở, còn yếu.

Tuy nhiên, sự phân bố Đảng viên chưa đồng đều, chưa đáp ứng với nhiệm vụ chính trị trong từng lĩnh vực. Chất lượng Đảng viên mới cần quan tâm bồi dưỡng. Tuy số vụ việc vi phạm kỷ luật giảm, nhưng tính chất có nghiêm trọng hơn, nhất là về quản lý kinh tế. Công tác chính trị tư tưởng thiếu thường xuyên, liên tục. Một bộ phận Đảng viên thiếu kiên định, còn bàng quan, dao động trước những khó khăn chung của đất nước. Nhận thức chưa theo kịp với yêu cầu nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, nhất là trước những chuyển biến cách mạng sâu sắc từ sau Nghị quyết 6 (khóa 5) đến nay.

Những thành quả đã đạt được cũng như những thiếu sót, khuyết điểm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Quận ủy trong nhiệm kỳ qua, do các nguyên nhân chủ yếu sau:

1. Dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Thành ủy, Đảng bộ Quận Gò Vấp đã thể hiện sự năng động, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm trước cấp trên và nhân dân trong Quận. Ban Chấp hành Quận ủy đã tổ chức thực hiện nhiệm vụ cơ bản do Đại hội đại biểu Đảng bộ Quận lần thứ III đề ra. Tình hình chung của Quận có nhiều chuyển biến đáng kể trên nhiều lĩnh vực, tạo tiền đề phát triển cho những năm kế tiếp.

2. Cán bộ và nhân dân Quận Gò Vấp với truyền thống cách mạng, luôn tin và đi theo Đảng đã phát huy truyền thống anh hùng trong cách mạng dân tộc, dân chủ nay trong cách mạng XHCN đã cùng Đảng bộ vượt qua khó khăn, hăng hái thi đua lao động sản xuất, góp phần tích cực giữ vững an ninh trật tự và từng bước ổn định cuộc sống.

1. Nhận thức về trình độ năng lực của toàn Đảng bộ tuy có nâng lên, nhưng vẫn chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ. Chưa nhận thấy đầy đủ nhiệm vụ trung tâm của Đảng lãnh đạo cách mạng XHCN là lãnh đạo kinh tế và tính chất phức tạp của nó, đặc biệt trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ khi còn tồn tại 5 thành phần kinh tế. Ý thức trách nhiệm của người Đảng viên trong thực hiện Nghị quyết chung của Đảng chưa được phát huy tốt, một phần do cơ chế cũ ràng buộc, nhưng chủ yếu là do ta chưa nắm chắc tình hình điều tra cơ bản, chậm xác định quy hoạch, kế hoạch lâu dài, chưa mạnh dạn vận dụng những biện pháp và chính sách đòn bẩy kinh tế phù hợp để thúc đẩy sản xuất và kinh doanh phát triển tốt.

2. Công tác quy hoạch đào tạo, tiêu chuẩn hóa cán bộ làm việc. Việc giáo dục phẩm chất, đạo đức cách mạng là bồi dưỡng kiến thức khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế… cho cán bộ, Đảng viên trong giai đoạn cách mạng mới chưa được coi trọng đúng mức. Chế độ tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng thiếu thường xuyên nên các hiện tượng tiêu cực có cơ hội phát triển. Đó cũng là nguồn gốc của tình trạng mất đoàn kết nội bộ và sa sút phẩm chất cách mạng của không ít cán bộ, Đảng viên.

Công tác tổ chức cán bộ chậm được đổi mới, chưa đáp ứng được yêu cầu xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, xác lập cơ chế mới gắn liền với việc đổi mới tư duy.

3. Phương pháp lãnh đạo, biện pháp tổ chức và kiểm tra thực hiện chưa được quan tâm đúng mức. Việc sơ kết, tổng kết và nhân những điển hình tiên tiến trong toàn Quận chưa làm tốt.

Những tồn tại trên, toàn Đảng bộ phải ra sức phấn đấu và khắc phục nhanh để đưa Quận tiến lên một cách căn cơ, vững chắc hơn.

4. Việc mất đoàn kết kéo dài trong Ban Thường vụ Quận ủy đã làm hạn chế sự phát triển phong trào và thành tựu chung của Quận.

Đảng bộ và nhân dân Quận Gò Vấp rất tự hào với những thành tựu đã đạt được. Nó đã mở ra những khả năng phát triển mới mạnh mẽ hơn. Mặc dù còn những mặt khó khăn và có tổn thất nhất định, song toàn Đảng bộ kiên quyết khắc phục, củng cố và tăng cường hơn nữa khối đoàn kết nhất trí ngay từ cơ sở và cả Ban Chấp hành Quận ủy. Đó cũng chính là bí quyết quyết định những thành tựu to lớn hơn của Đảng bộ và nhân dân Quận Gò Vấp.

PHẦN THỨ HAI

Yếu tố quyết định là thấu suốt quan điểm lấy dân làm gốc, nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy đúng mức quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, duy trì và phát động phong trào hành động cách mạng, thông qua thực tiễn phong trào mà không ngừng xây dựng chính quyền và xây dựng Đảng vững mạnh.

Mục tiêu trên được cụ thể hóa trong 8 nhiệm vụ chủ yếu sau:

I. TIẾP TỤC ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP – TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG NGHIỆP, RA SỨC THỰC HIỆN TIẾT KIỆM, CHỐNG THAM Ô, LÃNG PHÍ

Đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến cải tiến, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học kỹ thuật trong các ngành, tạo ra nhiều mặt hàng mới và phong phú hơn. Đẩy mạnh việc liên kết, liên doanh với các cơ sở công nghiệp và nông nghiệp của Trung ương và Thành phố đóng trên địa bàn Quận. Coi trọng phát triển các mặt hàng chế biến phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng. Phấn đấu khép kín các khâu trong ngành dệt, khai thác và chế biến gỗ… Đầu tư và xây dựng thêm các cơ sở chế biến thực phẩm tổng hợp, chế biến thức ăn gia súc. Mở rộng ngành sản xuất vật liệu xây dựng, sản phẩm về hóa nhựa, ngành dệt đay, chiếu cói và các ngành thủ công mỹ nghệ thu hút được nhiều lao động, gắn chặt với thành phố trong liên doanh sản xuất với Liên Xô, các nước XHCN và TBCN để xây dựng các cơ sở công nghiệp mới (Sài Gòn Ô tô, điện tử, khu công nghiệp An Lộc…)

Đẩy mạnh công tác cải tạo, sắp xếp lại sản xuất củng cố và tăng cường kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể làm cho kinh tế XHCN chiếm vai trò chủ đạo (đảm bảo cho khu vực kinh tế XHCN chiếm 85% giá trị tổng sản lượng, 80% lao động xã hội và 100% tư liệu sản xuất chủ yếu được tập thể hóa). Tổ chức sắp xếp phân cấp quản lý theo ngành kinh tế – kỹ thuật và quản lý theo địa bàn phường.

Hết sức coi trọng việc phát triển kinh tế cá thể, kinh tế gia đình và kinh tế phụ theo tinh thần quyết định 34 và 54 của Ủy ban Nhân dân Thành phố nhằm góp phần đẩy mạnh sản xuất, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, thu hút lao động và góp phần giải quyết bớt khó khăn trong đời sống của cán bộ công nhân viên và nhân dân lao động nghèo.

Gắn chặt sản xuất với lưu thông phân phối, đảm bảo chủ động tối đa việc đặt hàng, cung ứng vật tư, nguyên liệu cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của Quận.

– Giá trị sản lượng được thực hiện: 760 triệu năm 1987, đạt 910 triệu năm 1988 và trên 1 tỷ đồng năm 1990 (tính theo giá trị cố định năm 1982), tronh đó giá trị sản lượng được thực hiện của khu vực quốc doanh 23% năm 1988 và 30% năm 1990 trong tổng giá trị sản lượng thực hiện công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp.

Nếu tính cả khu vực HTX thì giá trị sản lượng thực hiện của kinh tế XHCN chiếm tỷ trọng 76% năm 1988 và 85% năm 1990 trong giá trị tổng sản lượng toàn ngành.

– Giá trị xuất khẩu 9% năm 1988 và đến năm 1990 đạt 12% trong tổng giá trị sản lượng ngành.

Khuyến khích phát triển kinh tế theo quyết định 34 và 54 của Ủy ban Nhân dân Thành phố, phát triển thêm 400 hộ, giải quyết cho 3.000 lao động chưa có việc làm ổn định và lao động nghèo, nâng tổng số lao động trong ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp lên 16.800 năm 1988 (chiếm% lao động xã hội của Quận) và 20.000 năm 1990 (chiếm % lao động xã hội của Quận).

Tiếp tục củng cố nâng chất lượng và hiệu quả sản xuất của tập đoàn sản xuất và các HTX. Phân cấp quản lý ruộng đất, đầu tư xây dựng cơ bản các công trình điện, thủy lợi cho các phường. Tăng cường đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, nâng cao chất lượng quản lý tập đoàn, HTX. Tập trung chỉ đạo xây dựng Quận trở thành vành đai thực phẩm cung cấp rau, sữa cho Thành phố và tự lực về thịt và trứng. Đưa chăn nuôi lên thành ngành chính. Trước mắt, trong các năm 1986 – 1988 tập trung chỉ đạo tận dụng đất nông nghiệp, ổn định diện tích rau với những chủng loại rau cao cấp; Phát triển cây thức ăn gia súc (cỏ, rau muống) phục vụ chăn nuôi. Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi heo, sữa bò, rau quả để nâng cao giá trị thu nhập nông nghiệp, phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu.

a) Trồng trọt:

Đi sâu đầu tư thâm canh cây trồng với những chủng loại rau cao cấp có giá trị kinh tế cao và xuất khẩu. Đưa 100% diện tích đất sau điều chỉnh vào quản lý và sử dụng. Phấn đấu không để đất hoang thời vụ. Giá trị tổng sản lượng được thực hiện tăng bình quân hàng năm là 10%. Tổng sản lượng được thực hiện năm 1988 đạt 30.000 tấn. Duy trì và phát triển cây thức ăn gia súc (cỏ, rau muống) phục vụ đàn heo, bò sữa trong Quận với tổng sản lượng năm 1988 đạt 14.000 tấn thức ăn.

Xây dựng vùng đất bưng thành vùng cây công nghiệp dừa, trồng xen thơm, mía, cây ăn trái. Đến năm 1988 có 20.000 cây để tạo nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp.

Phát triển cây bông và bông kiểng trong khu vực kinh tế gia đình (40ha năm 1988).

b) Chăn nuôi:

Ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao chất lượng đàn heo, bò sữa và gà công nghiệp.

Phấn đấu đến năm 1988 đưa đàn heo trong Quận lên 30.000 con, trong đó có 6.000 con heo nái. Tốc độ tăng bình quân 12%. Sản xuất hàng năm 8.000 tấn thức ăn gia súc tổng hợp. Bằng các biện pháp liên kết, gia công… đảm bảo nguồn thức ăn cho chăn nuôi.

Phát triển mạnh việc chăn nuôi bò trong khu vực kinh tế tập thể, đến năm 1988 tổng đàn bò của Quận phải có 3.000 con, trong đó có 500 con cho sữa. Cần có biện pháp quản lý và tiến tới chế biến số sữa vốn có của Quận.

Năm 1987, xây dựng xong xí nghiệp liên doanh gia cầm với xí nghiệp chăn nuôi gia cầm Trung ương. Năm 1987 – 1988, đưa xí nghiệp vào hoạt động, hàng năm sản xuất 60.000 con gà giống để đạt 10 tấn thịt và… quả trứng.

Đưa diện tích sử dụng mặt ao hồ, ruộng nuôi cá, tôm lên 60ha năm 1988, trong đó có 30ha mương dừa. Mở rộng quy mô hoạt động trại cá quốc doanh Quận lên 10ha. Đẩy mạnh việc chăn nuôi tôm ở Duyên Hải.

Xây dựng xí nghiệp chế biến nông sản (sữa bò, thịt heo, thịt gà và rau quả) để làm tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp, phục vụ đời sống và xuất khẩu.

Công tác khoa học kỹ thuật trên địa bàn Quận có nhiệm vụ chủ yếu là đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học kỹ thuật vào phát triển sản xuất và phục vụ đời sống. Đồng thời, chú trọng công tác nghiên cứu khoa học xã hội phục vụ cho yêu cầu phát triển văn hóa, giáo dục và y tế. Chú trọng công tác nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế và công tác kế hoạch hóa ngay từ cơ sở sản xuất kinh doanh. Cần có những đề tài thiết thực tuy nhỏ, song có hiệu quả kinh tế cao.

Mạnh dạn có chính sách phù hợp để thu hút và sử dụng số cán bộ khoa học kỹ thuật đang cư trú và công tác tại Quận, tại Thành phố và đặc biệt là trong các đơn vị kinh tế quốc phòng trú đóng.

Tiếp tục đẩy mạnh sửa chữa nhà trong ba khu vực: Nhà nước, tập thể và nhân dân. Mỗi năm sửa chữa khoảng 15.000 mét vuông nhà. Vận dụng mọi phương thức để xây dựng mỗi năm thêm 30 căn nhà. Đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ cán bộ công nhân viên và nhân dân xây cất nhà ở theo quy hoạch. Phát động rộng rãi trong nhân dân giúp nhau sửa chữa chống dột, phấn đấu không còn để một nhà nào rách nát.

Phấn đấu xây dựng xong khu hành chính Quận, hội trường của trường Đảng. Phải cải tạo và xây dựng hai chợ Gò Vấp và Thông Tây Hội. Phát triển Trung tâm thương nghiệp và dịch vụ Ngã Năm lên quy mô 02ha. Mở rộng mặt bằng sản xuất của các xí nghiệp quốc doanh trên cơ sở có phương án mặt hàng ổn định của từng xí nghiệp. Xây dựng mới xí nghiệp Da giày, xí nghiệp liên doanh chăn nuôi gia cầm và hệ thống các kho tàng cho các đơn vị thương nghiệp phù hợp theo quy hoạch tổng thể.

Mỗi năm xây dựng thêm 40 phòng học để xóa học ba ca. Hoàn thành việc xây dựng khoa Nhi tại bệnh viện Quận.

Bằng các biện pháp thích hợp, cần nhanh chóng xây dựng mới và phục hồi các cơ sở Văn hóa cũ sớm đưa vào phục vụ ở các phường 11, 15, 12, 17 v.v…

Có kế hoạch, biện pháp tốt để hết năm 1988 cơ bản hoàn thành việc giải tỏa các nghĩa trang trong Quận. Từng bước đưa các mặt bằng đó vào sử dụng theo quy hoạch.

Giao cho Ủy ban Nhân dân Quận xác định các công trình ưu tiên trong từng thời kỳ để tập trung thi công, sớm đưa vào sử dụng có hiệu quả.

5. Giao thông vân tải và bưu điện: II. ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG THƯƠNG NGHIỆP XHCN, TẬP TRUNG SỨC ỔN ĐỊNH THỊ TRƯỜNG, THIẾT LẬP TRẬT TỰ XHCN TRÊN MẶT TRẬN PHÂN PHỐI LƯU THÔNG, TÍCH CỰC CHĂM LO ĐỜI SỐNG CHO CB-CNV LỰC LƯỢNG VŨ TRANG VÀ NHÂN DÂN LAO ĐỘNG

Thương nghiệp là mặt trận nóng bỏng nhất trong cuộc đấu tranh vô cùng gay gắt hiện nay, cần phải tập trung sức mạnh tổng hợp để củng cố phát triển nhanh khu vực thương nghiệp XHCN nhằm chiếm ưu thế trên thị trường bán buôn và bán lẻ. Phải coi trọng việc phát triển ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ có tính chất công nghiệp.

Trong hai năm tới, phải nhanh chóng có biện pháp gắn chặt kinh doanh với sản xuất nhằm tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, tạo ra nguồn hàng tiêu dùng và xuất khẩu ổn định của Quận. Phấn đấu lượng hàng này chiếm tỷ trọng từ 20% – 25% kế hoạch xuất khẩu. Tích cực hợp tác liên doanh với các tỉnh, quận, huyện bạn, đầu tư vào sản xuất, chế biến tạo chân hàng xuất khẩu và dịch vụ xuất khẩu.

Năm 1987 phải đạt kim ngạch xuất khẩu là 6 triệu USD.

Ưu tiên nhập vật tư nguyên liệu cho khu vực quốc doanh, hỗ trợ đắc lực cho khu vực tiểu thủ công nghiệp, đối lưu hàng hóa và tiêu dùng. Khuyến khích trên 600 gia đình tại Quận có thân nhân nước ngoài gởi đô la, nguyên liệu, linh kiện, máy móc về để đầu tư cho sản xuất.

Năm 1988, ngành thương nghiệp XHCN phải nắm cho được từ 60% – 70% lượng hàng nông sản thực phẩm và 80% – 90% lượng hàng công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp sản xuất tại Quận để đảm bảo phục vụ đời sống nhân dân trong Quận và trao đổi với các đơn vị bạn.

Coi trọng việc xây dựng quỹ hàng hóa công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tại Quận để đối lưu với các địa phương bạn thông qua liên doanh, liên kết tạo cơ sở nguyên liệu ổn định cho sản xuất chế biến hàng tiêu dùng và cung ứng xuất khẩu.

Tiếp tục củng cố chất lượng hoạt động của các HTX tiêu thụ phường, sắp xếp quản lý theo quy hoạch thực hiện 3 quản đối với các hộ thương nghiệp và dịch vụ tư nhân, ngăn cấm kinh doanh không đúng chức năng, tranh mua, tranh bán, tự nâng giá trong ngành thương nghiệp.

Đến năm 1988, phấn đấu hoàn thành cơ bản cải tạo thương nghiệp tư doanh, củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cửa hàng hợp tác kinh doanh, tổ chức sắp xếp tiểu thương buôn bán nhỏ ở chợ và các khu phố vào ngành hàng, đại lý, đảm bảo phân phối đến tay người tiêu dùng các mặt hàng chủ yếu, với số lượng đủ và chất lượng cao. Ngành chủ quản cùng với phường thống nhất sắp xếp quản lý và kinh doanh các dịch vụ phục vụ thiết thực đời sống nhân dân lao động theo địa bàn dân cư như: cơm bình dân, cắt tóc, uốn tóc, may đo, sửa chữa…

Kết hợp ba biện pháp: giáo dục, kinh tế và hành chính trong công tác cải tạo. Phát động quần chúng phát huy quyền làm chủ tập thể của mình thông qua các đoàn thể nhất là phụ nữ, Đoàn thanh niên, Công đoàn để đấu tranh quản lý thị trường, chống các hành động tiêu cực trong thương nghiệp, giáo dục tiểu thương chấp hành đúng luật lệ, chính sách của Nhà nước. Nắm vững quan điểm phục vụ, mở rộng mạng lưới thương nghiệp XHCN, tỷ trọng chiếm lĩnh thị trường phải tăng nhanh nhất là các mặt hàng thiết yếu chiếm 90% trở lên, tỷ trọng bán lẻ đạt 75% để đủ sức phục vụ nhu cầu đới sống xã hội.

Các ngành ngân hàng, tài chính, thuế, quản ký thị trường, cải tạo phải thường xuyên nắm và phân loại chính xác các hộ sản xuất, kinh doanh cá thể, trên cơ sở đó chọn những người có tay nghề tốt sử dụng cho ngành thương nghiệp; Phải làm tốt chức năng tham mưu cho Quận ủy, Ủy ban nhân dân Quận và thực hiện tốt hơn vai trò hết sức quan trọng là góp phần ổn định mặt trận phân phối lưu thông thúc đẩy sản xuất kinh doanh, ổn định và phát triển tình hình kinh tế xã hội tại Quận.

Đẩy mạnh phong trào gởi tiền tiết kiệm, quản lý chặt chẽ tiền mặt, mở rộng thanh toán bằng chuyển khoản. Trên cơ sở kế hoạch kinh tế xã hội năm 1986 – 1988 các ngành tài chính, ngân hàng quản lý và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả nhất qua đầu tư sản xuất và kinh doanh, ưu tiên cho các cơ sở quốc doanh. Từng bước tiến tới tự cân đối ngân sách Quận, triệt để tiết kiệm các loại chi phí hành chính và nghiệp vụ ngoài lương từ 30 – 50%.

Tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất để phát triển 5 trung tâm thương nghiệp và dịch vụ chợ Gò Vấp, chợ Xóm Mới, chợ An Nhơn, Ngã Năm và Thông Tây Hội nhằm tình thành mạng lưới thương nghiệp XHCN vừa có quy mô lớn để giao dịch, để trao đổi, vừa đi sâu vào các khu vực dân cư, đưa hàng đến tận tay người tiêu dùng, thiết thực phục vụ nhân dân lao động.

Trên cơ sở phát triển sản xuất và quan tâm phát triển kinh tế theo quyết định 34 và 54 Ủy ban Nhân dân thành phố tạo điều kiện cho người lao động có công ăn việc làm (phấn đấu thu hút 70% lao động chưa có việc làm ổn định) đồng thời có những biện pháp phân phối đúng, công bằng để từng bước ổn định đời sống chung, nhất là cán bộ công nhân viên khu vực hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang và gia đình chính sách, neo đơn, lao động quá nghèo.

Năm 1987, ngoài việc thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước ban hành, phấn đấu trợ cấp thêm cho khoảng 5.000 cán bộ công nhân viên khu vực hành chính sự nghiệp không thu, giáo viên, cán bộ công nhân viên ngành y tế, lực lượng vũ trang bằng tiền (tương ứng với khoảng 10kg gạo/người/tháng). Phân cấp như sau:

– Cấp phường phấn đấu tự lo cho cán bộ công nhân viên và lực lượng vũ trang phường mình (khoảng 600 người). Thành phố và Quận lo cho giáo viên, cán bộ công nhân viên y tế và hưu trí.

– Các đơn vị ban ngành, đoàn thể cấp Quận tự cân đối lo được khoảng 1.400 người (có phương án giao cho đơn vị trong tình hình cụ thể).

– Quận sẽ tổ chức sản xuất, điều tiết ở các khu vực khác lo cho số còn lại khoảng 3.000 người (trong đó có phần của Thành phố lo cho cán bộ công nhân viên ngành y tế và giáo dục).

Ngoài việc tổ chức và thực hiện đúng các chính sách của Nhà nước đối với diện chính sách là cơ bản, Quận và phường cần quan tâm giúp đỡ và phát triển kinh tế gia đình, kinh tế phụ v.v… để giải quyết cuộc sống của cán bộ công nhân viên một cách căn cơ hơn.

III. TÍCH CỰC ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KINH TẾ

Việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế mang nội dung rất toàn diện và rất cách mạng. Mục đích nhằm đẩy mạnh sản xuất với hiệu quả kinh tế và năng suất lao động ngày càng cao, đảm bảo việc phân phối theo lao động, công bằng, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân. Xóa hẳn chế độ tập trung bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN. Vận dụng đúng đắn các quy luật kinh tế XHCN và các đòn bẩy kinh tế, kết hợp với việc phát huy tốt nhất khả năng sáng tạo của quần chúng.

Khẩn trương bổ sung hoàn chỉnh quy hoạch tổng thể của Quận đến năm 2000; Trên cơ sở đánh giá sát, đúng tiềm năng về đất đai: lao động, ngành nghề, tay nghề khoa học kỹ thuật… để phát triển sản xuất, ổn định đời sống và giữ vững an ninh quốc phòng.

Không ngừng nâng cao vị trí và chất lượng công tác kế hoạch làm cho công tác này ngày càng có tác động mạnh, thật sự là khâu trung tâm của sự phát triển kinh tế xã hội của Quận. Nhanh chóng đổi mới phương thức hoạt động, xây dựng kế hoạch từ cơ sở, biết phát huy tốt nhất các nguồn khả năng hiện có trong xây dựng kế hoạch, bố trí đầu tư theo dõi thực hiện v.v…

Củng cố và kiện toàn tổ chức các cơ quan quản lý sản xuất, các ngành kinh tế tổng hợp, bảo đảm cho bộ máy quản lý kinh tế thật sự gọn tinh, năng động, sáng tạo, đạt hiệu quả cao và đạt yêu cầu của đổi mới cơ chế quản lý. Đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng, quyền làm chủ tập thể của công nhân viên chức.

Năm 1987, phải phân cấp dứt điểm cho phường theo quyết định 123/UBND Thành phố để phường thực sự là cấp có kế hoạch và phấn đấu tự cân đối ngân sách.

IV. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁC HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA – XÃ HỘI 1. Ngành Văn hóa – Thông tin

Công tác thông tin tuyên truyền phải nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính nhạy bén, phổ biến kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến quần chúng, động viên kịp thời phong trào hành động cách mạng của quần chúng từ Quận đến cơ sở. Coi trọng việc nâng cao nội dung và có hình thức hoạt động sinh động phù hợp với từng đối tượng. Đồng thời, chủ động ngăn chặn có hiệu quả và kịp thời vạch trần các luận điệu chiến tranh tâm lý của địch.

Ngành Văn hóa – Thông tin Quận phải tập trung hơn nữa cho cơ sở, có kế hoạch hướng dẫn cụ thể, thiết thực trong công tác vận động xây dựng đời sống văn hóa mới, gia đình văn hóa mới. Có biện pháp thích hợp khôi phục và xây dựng mới một số tụ điểm sinh hoạt văn hóa, văn nghệ quy mô nhỏ và vừa ở các khu vực Thông Tây Hội, An Nhơn, Xóm Mới.

Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 14 của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục, nghị quyết 03 của Thành ủy về công tác giáo dục. Đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng trong công việc giáo dục đào tạo thế hệ trẻ. Tích cực xây dựng lực lượng chính trị trong ngành giáo dục đến năm 1988, các cơ sở trường học đều có Đảng viên hoặc tổ trung kiên. Đẩy mạnh công tác phát triển Đoàn viên Thanh niên Cộng sản trong đội ngũ giáo viên trẻ. Hoạt động của nhà trường phải gắn chặt với nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng của địa phương. Các trường làm tốt nhiệm vụ: dạy chữ, dạy nghề, dạy người.

Về số lượng: Phấn đấu đạt các chỉ tiêu: 25% các cháu vào nhà trẻ, 80% các cháu vào Mẫu giáo, 98% các cháu 6 tuổi vào lớp 1, tỷ lệ lên lớp hàng năm từ 90% trở lên, bỏ học không quá 2,5% và 90% trẻ em nghèo thất học được vào các lớp. Phấn đấu đến năm 1988 thực hiện được phổ cập giáo dục cấp I cho trẻ em từ 6 đến 15 tuổi.

Về bổ túc văn hóa: Phấn đấu đến năm 1988 hoàn thành các chỉ tiêu theo tinh thần Chỉ thị 115 của Ban Bí Thư và Chỉ thị 15 của Thành ủy đối với thanh niên và cán bộ chủ chốt, mở nhiều loại hình trường lớp ở phường, phấn đấu phổ cập cấp I văn hóa cho nhân dân trong độ tuổi, từng bước phổ cập cấp II.

Về chất lượng: Phấn đấu nâng cao chất lượng toàn diện theo mục tiêu đào tạo, trước hết là chất lượng tư tưởng chính trị và đạo đức (có lý tưởng và đạo đức XHCN, hành vi nếp sống văn minh; Sẵn sàng chiến đấu và lao động theo yêu cầu của Đảng và Nhà nước.

Về cơ sở vật chất: Sửa chữa các cơ sở hư, cũ. Xây dựng mới 40 phòng học (mỗi năm) để đến năm 1988 xóa hẳn tình trạng học ca 3. Các trường Trung cấp đủ các đồ dùng dạy học, trang thiết bị cho các ngành học.

Chăm lo tốt hơn nữa về đời sống vật chất, tinh thần cho đội ngũ thầy cô giáo, cô nuôi dạy trẻ. Tạo điều kiện thuận lợi cho thầy cô giáo an tâm, phấn khởi công tác.

Mở rộng hoạt động của trường dạy nghề của Quận, đảm bảo đúng hướng, gắn chặt với các Trung tâm hướng nghiệp, tạo điều kiện cho học sinh đến học và thực tập. Chú ý hơn nữa đến hiệu quả giáo dục và hiệu quả kinh tế của các trung tâm ấy.

Kết hợp với Sở Giáo dục thực hiện việc phân cấp các trường cấp III cho Quận quản lý một số mặt.

Tổ chức và động viên có hiệu quả phong trào toàn Đảng, toàn dân, các cơ quan xí nghiệp, ban ngành, đoàn thể chăm lo đến sự nghiệp giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, tạo điều kiện tốt cho 3 môi trường giáo dục: nhà trường, gia đình, xã hội. Ngành chủ động bàn bạc với phường để sử dụng hợp lý và giải quyết việc làm cho các cháu học sinh học hết cấp II, III mà không có điều kiện tiếp tục học nữa.

Thực hiện tốt hơn nữa công tác chăm lo sức khỏe cho nhân dân, bằng các phương pháp Đông Tây y kết hợp. Củng cố và đẩy mạnh phong trào 5 dứt điểm, phong trào trồng và sử dụng cây thuốc Nam. Củng cố nội bộ và nâng cao chất lượng phục vụ của 4 Đội chuyên ngành (Vệ sinh phòng dịch; Y tế lưu động; Vận chuyển và cấp cứu; Đội đặt vòng kế hoạch hóa), khám và điều trị của các chuyên khoa thuộc bệnh viện của tuyến khu vực và Trạm Y tế phường quản lý tốt các bệnh xã hội. Tổ chức, sắp xếp và quản lý tốt các cơ sở ngành Đông y. Hạ thấp tỷ lệ tăng dân số tự nhiên từ 1,45 xuống còn 1,32% (1988) và 1,2% (1990).

Tăng cường công tác tổ chức và giáo dục chính trị tư tưởng trong cán bộ công nhân viên của ngành, củng cố khối đoàn kết nhất trí trong nội bộ Đảng và toàn ngành. Tiến tới thành lập Đảng ủy của ngành. Có biện pháp tích cực chăm lo đời sống cho anh chị em trong ngành.

Nhanh chóng kiện toàn tổ chức và nhân sự. Xây dựng Chi bộ Đảng, củng cố nâng cao chất lượng sinh hoạt các đoàn thể quần chúng. Coi trọng việc bồi dưỡng, giáo dục chính trị, phong cách thể thao XHCN cho đội ngũ huấn luyện viên và vận động viên. Phát động sâu rộng phong trào rèn luyện thân thể trong quần chúng, đặc biệt phong trào thể dục buổi sáng. Phát triển thêm nhiều loại hình mới: thể dục thẩm mỹ, y võ dưỡng sinh v.v… Sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất hiện có. Cố gắng đưa vào các hoạt động có thu để chủ động tài chính và phát triển thêm các cơ sở mới với quy mô nhỏ, vừa thích hợp.

Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể và Mặt trận Quận, phường hết sức chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho các đồng chí nghỉ hưu, thương binh gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, quân nhân và thanh niên xung phong đã hoàn thành nghĩa vụ trở về. Thực hiện tốt các chính sách, chế độ của Đảng và Nhà nước. Ưu tiên giải quyết công ăn việc làm cho thương binh, quân nhân phục viên hoàn thành nghĩa vụ quân sự.

Tổ chức và tạo điều kiện cho các đồng chí đã nghỉ hưu tham gia vào các hoạt động xã hội và sản xuất phù hợp với sức khỏe và năng lực, nhất là công tác giáo dục đào tạo thế hệ trẻ. Coi đây là nhiệm vụ chính trị của người Đảng viên.

Nâng cao chất lượng phong trào xây dựng người công dân kiểu mẫu và gia đình cách mạng gương mẫu.

Có kế hoạch chăm lo xây dựng tình đoàn kết ở tổ, phường, giúp đỡ người già yếu, neo đơn, gia đình khó khăn, phấn đấu không để xảy ra đói rách.

Bằng trách nhiệm và tình thương, cần nắm chắc các đối tượng tệ nạn xã hội, giúp họ tự cải tạo bằng lao động, để trở thành người có ích cho xã hội.

V. TĂNG CƯỜNG AN NINH QUỐC PHÒNG, TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI, GIỮ VỮNG PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Phát động mạnh mẽ và liên tục phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc. Coi đó là trách nhiệm của các cấp đoàn thể và nhân dân. Luôn nâng cao cảnh giác, kịp thời tấn công chống mọi hoạt động phá hoại của bọn phản cách mạng, núp dưới mọi hình thức.

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 22 của Quận ủy về công tác nắm hộ, nắm người. Củng cố và tăng cường mạng lưới an ninh nhân dân. Hết sức chú ý quan tâm công tác bảo vệ nội bộ, nhất là trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, các vụ xâm phạm làm thiệt hại tài sản XHCN, ngăn chặn kịp thời, khám phá vụ việc xảy ra.

Phấn đấu làm giảm 45% vụ việc phạm pháp hình sự, phá án đạt 90%. Phấn đấu làm giảm thấp nhất xảy ra trọng án, nếu xảy ra thì phải khám phá 100%, kết hợp phục vụ tốt công tác cải tạo công thương nghiệp, tích cực tham gia quản lý thị trường, góp phần ổn định giá cả đời sống của nhân dân. Nghiêm trị bọn đầu cơ, phá hoại kinh tế, cướp của, giết người, trộm cắp tài sản XHCN. Tăng cường công tác giáo dục, ý thức cảnh giác cách mạng, ý thức chấp hành luật lệ Nhà nước. Tăng cường các biện pháp nghiệp vụ, xây dựng cho được các đơn vị an toàn và khu vực an toàn liên hoàn. Phấn đấu đến cuối năm 1988 có 100% phường an toàn và 80% cơ quan xí nghiệp an toàn. Phấn đấu không để xảy ra cháy, nổ, nhất là các kho chứa vật tư, hàng hóa. Phát huy kết quả phong trào học tập, thấm nhuần sâu sắc và thực hiện nghiêm túc 6 điều dạy của Bác Hồ đối với Công an Nhân dân. Tiếp tục xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, củng cố và kiện toàn bộ máy tổ chức, tăng cường cho các đơn vị mũi nhọn cho cơ sở, xây dựng lực lượng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới.

Có biện pháp tích cực chăm lo đời sống cán bộ, chiến sĩ. Khắc phục mọi hiện tượng tiêu cực trong ngành Công an.

Không ngừng nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật, bảo đảm đối phó có hiệu quả trong mọi tình huống. Tiếp tục củng cố và xây dựng chương trình huấn luyện phù hợp cho lực lượng tự vệ cơ quan, xí nghiệp, lực lượng dự bị cơ động 1 và 2. Phấn đấu xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đến năm 1988 chiếm 10% dân số, đến năm 1990 chiếm 12%, có 15 Đảng viên và 50% Đoàn viên tham gia. Chủ động kết hợp chặt chẽ với Công an, các đơn vị trú đóng trên địa bàn, xây dựng các phương án tác chiến đảm bảo huy động lực lượng nhanh nhất khi có yêu cầu.

Tăng cường giáo dục kiến thức cơ bản về luật pháp, pháp chế XHCN cho nhân dân, cán bộ, đặc biệt số cán bộ hoạt động ở mạng lưới cơ sở để chủ động đấu tranh ngăn chặn kịp thời những hành động vi phạm luật pháp. Giải quyết kịp thời, nhanh các đơn thư khiếu nại và tố cáo. Phát huy hơn nữa quyền làm chủ tập thể của quần chúng nhân dân lao động trong việc thực hiện và bảo vệ pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước. Có biện pháp chủ động ngăn chặn và xử lý kịp thời những trường hợp bao che hoặc trù dập, ức hiếp những người khiếu tố, bất cứ ở cương vị nào. Đồng thời, nghiêm khắc xử lý những trường hợp tố cáo sai sự thật, bọn phá hoại kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng.

Công tác truy tố, xét xử phải đúng pháp luật, đảm bảo phục vụ tốt cho yêu cầu nhiệm vụ chính trị, tăng cường kiểm tra và giám sát việc thi hành án.

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Các đoàn thề và mặt trận phải làm tốt chức năng giáo dục, nâng cao giác ngộ XHCN tổ chức quần chúng thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, hoàn thành các nhiệm vụ, chỉ tiêu, kinh tế xã hội của Quận. Kịp thời phản ánh tâm tư, nguyện vọng của quần chúng cho Đảng; Phát hiện và nhân rộng những nhân tố mới, tích cực, đấu tranh kịp thời các hiện tượng tiêu cực ngay từ cơ sở. Cần tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận, làm cho toàn Đảng bộ nhận rõ công tác vận động quần chúng là gốc của mọi phong trào cách mạng, là trách nhiệm không phải chỉ của các đoàn thể và mặt trận, mà phải của từng cán bộ, Đảng viên, của tất cả các ngành, các cấp. Kiên quyết thực hiện phương châm: nói thẳng, nói thật với dân, thực hiện đúng khẩu hiệu: dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra, lời nói đi đôi với việc làm, tổ chức nghiêm túc việc tự phê bình trước quần chúng của các cơ quan chính quyền, các tổ chức Đảng cơ sở theo định kỳ. Cán bộ, Đảng viên phải tham gia sinh hoạt đều đặn ở tổ dân phố nơi mình cư trú, tích cực làm công tác dân vận cơ sở. Kiện toàn Ban Chấp hành các đoàn thể và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc. Củng cố bộ máy làm công tác dân vận, báo cáo viên và tuyên truyền viên từ Quận đến cơ sở. Các Cấp ủy cần chú ý phân công một số cán bộ có năng lực, có uy tín phụ trách công tác dân vận.

Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo cán bộ Công đoàn từ cơ sở, nâng cao kiến thức quản lý kinh tế để phát huy vai trò chức năng của Công đoàn tham gia quản lý kinh tế, đồng thời giám sát việc thực hiện các chủ trương, chế độ, chính sách của chính quyền.

Phối hợp chặt chẽ với các ban ngành có chức năng đẩy mạnh phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao trong cơ quan, trường học, gắn chặt với các phong trào ở địa phương với từng cơ sở bằng các biện pháp thích hợp, xây dựng một số cơ sở vật chất phục vụ sinh hoạt sau giờ làm việc của cán bộ công nhân viên.

Tích cực phổ biến và tổ chức ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.

Tiếp tục vận động nông dân đi vào làm ăn tập thể, đẩy mạnh phong trào xây dựng cuộc sống mới lành mạnh, có văn hóa ở nông thôn. Cùng với các ngành chức năng, hết sức quan tâm đến việc tổ chức sinh hoạt văn hóa tinh thần ở các vùng đông bà con nông dân.

Thực hiện tốt chức năng làm đầu mối phối hợp hành động giữa các tổ chức thành viên trong Mặt trận Tổ quốc. Xây dựng tổ chức cơ sở của Mặt trận vững mạnh, củng cố ban Mặt trận khu phố và tổ Mặt trận ở tổ dân phố, phát động phong trào phụ lão 3 giỏi, xây dựng quỹ bảo thọ để chăm sóc người già.

Muốn giáo dục thanh niên, trước hết phải thu hút đông đảo thanh niên vào các phong trào hành động cách mạng. Qua lò lửa cách mạng ấy, Hội giáo dục cho thanh niên tinh thần trách nhiệm đối với công việc, đối với tập thể và xã hội, về lối sống trong sạch, lành mạnh, có lý tưởng, có đạo đức cách mạng, về dũng khí đấu tranh bảo vệ cái đúng, cái mới, chống tiêu cực, bảo thủ. Đoàn phải làm nồng cốt trong việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống, tham gia đổi mới cơ chế quản lý đấu tranh chống tiêu cực, thực hiện nghĩa vụ quân sự… Phải xem hiệu quả phong trào là chính, lấy hiệu quả để đánh giá phong trào, khắc phục những biểu hiện hình thức, phô trương.

Thông qua phong trào hành động cách mạng của thanh niên để phát triển Đoàn. Phấn đấu nâng cao tổng số Đoàn viên chiếm 40% trong thanh niên. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, xây dựng tổ chức Đoàn vững mạnh. Chú trọng phát triển Đoàn trong thanh niên công nhân, nông dân, nhất là thanh niên trực tiếp sản xuất, thanh niên trong các cơ sở xung yếu về kinh doanh phân phối lưu thông… Đi đôi với việc củng cố các tổ chức Đoàn ở cơ sở, phải tích cực kiện toàn tổ chức Quận Đoàn với yêu cầu bộ máy tinh gọn, có hiệu suất công tác cao và hiệu lực chỉ đạo đối với phong trào tốt. Củng cố tổ chức để nâng cao hoạt động của Hội Liên hiệp Thanh niên, tập hợp 100% thanh niên vào tổ chức.

Đoàn phải phối hợp với các cấp chính quyền, đoàn thể và các ngành chức năng chăm sóc, giáo dục tốt hơn nữa thiếu niên nhi đồng bằng các hình thức phong phú, sinh động. Củng cố hoạt động của Đội Thiếu niên Tiền phong và Đội Nhi đồng Hồ Chí Minh.

Để thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng đề ra cần phải củng cố, kiện toàn và tăng cường hiệu lực bộ máy chính quyền từ Quận đến cơ sở, thông qua bầu cử Hội đồng Nhân dân cấp Quận và phường. Trước mắt phải tập trung giải quyết một số công việc sau đây:

– Tích cực đổi mới cơ chế quản lý và tổ chức bộ máy chính quyền, tăng cường tính nhân dân và tính cách mạng của chính quyền, khắc phục triệt để các biểu hiện của tác phong quan liêu, xa rời quần chúng. Dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển mạnh sang cơ chế mới.

– Phải thực hiện cho được quy chế làm việc của Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân từ Quận đến phường, đảm bảo thật sự là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Điều hòa tốt hoạt động của các ngành khối chính quyền, đề cao tinh thần hỗ trợ hợp tác XHCN xuất phát từ lợi ích chung của Quận.

– Mạnh dạn sắp xếp tinh giảm bộ máy quản lý hành chính Nhà nước, giải thể các đơn vị hành chính trung gian kém tác dụng và hợp nhất các đơn vị có tính chất hoạt động giống nhau để hoạt động có hiệu quả hơn.

– Tăng cường sự lãnh đạo và chỉ đạo của Ủy ban Nhân dân Quận, bổ sung cán bộ đầy đủ cho các cơ quan tham mưu có trình độ nghiệp vụ quản lý kinh tế, quản lý xã hội đã qua trường lớp và thực tiễn. Tăng cường chuyên chính vô sản, nhất là trên mặt trận sản xuất và phân phối lưu thông, kiên quyết trừng trị bọn tiêu cực nội bộ và làm ăn phi pháp.

– Từng 6 tháng đối với Quận và 3 tháng đối với phường, Ủy ban Nhân dân cần báo cáo công khai trước nhân dân tình hình thực hiện kế hoạch, quyết định của Hội đồng Nhân dân, nhất là đối với những vấn đề về đời sống vật chất và văn hóa của quần chúng.

– Tiếp tục thực hiện việc phân cấp cho phường theo tinh thần quyết định 30 của Thành ủy và Ủy ban Nhân dân Thành phố, phù hợp với khả năng của phường. Củng cố và tăng cường cho cấp phường đủ mạnh, đảm bảo thực sự là cấp ngân sách, kế hoạch toàn diện.

1. Về xây dựng Đảng. a) Về công tác tư tưởng:

Xây dựng ý thức cảnh giác cách mạng, đập lại những luận điệu chiến tranh tâm lý của bọn phản cách mạng. Củng cố sự đoàn kết nhất trí trong Đảng bộ trên cơ sở đấu tranh tự phê bình và phê bình, khắc phục chủ nghĩa cá nhân, hẹp hòi, bản vị, mọi biểu hiện phe cánh. Kiên quyết bài trừ những biểu hiện sa sút về phẩm chất chính trị, vô kỷ luật về mặt tổ chức, thoái hóa về lối sống, quan liêu về tác phong, bảo thủ trong cách nhìn sự việc. Nêu cao tính trung thực, thẳng thắn, tin yêu nhau nói thật, lời nói đi đôi với việc làm, bài trừ thói lừa dối, cơ hội, nịnh bợ và mọi nguyên nhân gây ra mất đoàn kết nội bộ, làm giảm sức chiến đấu của Đảng bộ. Tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin cho cán bộ, Đảng viên với hình thức tập trung, tại chức. Bảo đảm tất cả Đảng viên của Đảng bộ học xong chương trình lý luận chính trị theo yêu cầu tiêu chuẩn hóa cán bộ. Mỗi Đảng viên phải đề cao ý thức tổ chức kỷ luật “nói và làm theo Nghị quyết của Đảng”. Phải dám chịu trách nhiệm về lời nói và việc làm của mình. Hàng tháng tổ chức “Ngày chính trị” trong toàn Đảng bộ. Ban Tuyên giáo và Văn phòng Quận ủy có trách nhiệm chuẩn bị nội dung cụ thể. Nâng cao trách nhiệm của Chi bộ về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và công tác quản lý, chăm sóc Đảng viên. Củng cố Ban Tuyên giáo để đủ sức làm tham mưu cho Cấp ủy trên lĩnh vực chính trị tư tưởng. Phấn đấu từng bước xây dựng cơ sở vật chất cho từng Đảng Quận bằng các biện pháp thích hợp.

Ban sưu tầm lịch sử Đảng phấn đấu hoàn chỉnh bản sơ thảo truyền thống giai đoạn chống Mỹ 1954 – 1975. Giúp 3 xã cũ (Hạnh Thông, Thông Tây Hội và An Nhơn) viết truyền thống đấu tranh cách mạng qua các thời kỳ để làm cơ sở xây dựng truyền thống của xã và Quận. Có kế hoạch sưu tầm và khôi phục các địa chỉ đó để đưa vào giáo dục truyền thống của Đảng bộ Thành phố và Quận nhà cho thế hệ trẻ, củng cố và hoàn thiện hoạt động của Nhà Truyền thống.

Việc lựa chọn đào tạo, bố trí cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ, trước hết là yêu cầu thực hiện đổi mới cơ chế quản lý. Đổi mới đội ngũ cán bộ, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý khả năng tiếp thu cái mới, năng động với tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Phát huy đúng mức đội ngũ cán bộ hiện có, thực hiện tốt quy hoạch đào tạo, chuẩn bị đội ngũ kế thừa trước mắt và lâu dài, mạnh dạn đề bạt cán bộ trẻ, nữ qua thực tiễn công tác đã tỏ ra có phẩm chất và năng lực. Phải có quan điểm đúng đắn trong việc đánh giá cán bộ, khắc phục các khuynh hướng sai. Từng bước giải quyết dứt điểm các vấn đề tồn đọng về tổ chức cán bộ.

Nhanh chóng củng cố, kiện toàn tổ chức và Cấp ủy các cơ sở Đảng ở phường và ban ngành. Sắp xếp bố trí Đảng viên phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và năng lực của từng đồng chí. Kết hợp đúng đắn giữa cán bộ mới và cũ, cán bộ lớn tuổi và cán bộ trẻ, bảo đảm sự kế thừa liên tục. Phấn đấu từng bước tiêu chuẩn hóa cán bộ về các mặt văn hóa, chính trị và chuyên môn nghiệp vụ. Coi trọng công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kế cận (cán bộ lãnh đạo, quản lý và chuyên môn). Phát huy trách nhiệm, hiệu lực lãnh đạo, quản lý và chăm sóc, giáo dục Đảng viên của từng đơn vị cơ sở. Thực hiện tốt các chính sách và chế độ đối với cán bộ.

Cải tiến lề lối làm việc, giữ vững chế độ làm việc theo quy chế, thực hiện nghiêm túc chế độ đi cơ sở. Nâng cao chất lượng công tác thông tin, báo cáo chính xác và kịp thời từ cơ sở. Khắc phục nhanh tình trạng lẫn lộn chức năng giữa Đảng và chính quyền, cũng như buông lơi sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền và các đoàn thể, nhất là ở cơ sở.

Nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng ở các Chi bộ cơ sở, thực hiện tự phê bình và phê bình thường xuyên. Có biện pháp quản lý chặt chẽ Đảng viên, ngăn ngừa sai phạm, làm cho tổ chức Đảng thực sự làm đúng chức năng, đặc biệt vai trò lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện các mặt công tác chuyên môn, lãnh đạo các tổ chức quần chúng phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chuyên chính vô sản từ Quận đến cơ sở, phát huy vai trò bộ tứ trong từng đơn vị. Xây dựng Chi bộ cơ sở thành những đơn vị vững mạnh và trong sạch.

Phải đưa công tác phát triển Đảng vào nề nếp trên cơ sở có quy hoạch, có yêu cầu. Trong nhiệm kỳ tới, phấn đấu phát triển 220 Đảng viên mới, trong đó có 85% – 90% là Đoàn viên Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Quan tâm đúng mức đến việc phát triển Đảng trong công nhân trực tiếp sản xuất. Kết hợp với việc phát triển Đảng cần tích cực xây dựng các tổ trung kiên, điều động hợp lý Đảng viên, Đoàn viên cho các cơ sở còn trắng, nhất là khu vực sản xuất tập thể, trường học, y tế, thể dục thể thao, các cửa hàng, các công ty và khu vực đường phố.

Tăng cường tính chủ động trong công tác kiểm tra việc thực hiện các chủ trương, chính sách và Nghị quyết của Đảng theo chương trình công tác hàng năm, 6 tháng và hàng quý của Quận ủy và của từng cơ sở Đảng nhằm thúc đẩy việc hoàn thành nhiệm vụ chung. Thường xuyên theo dõi kiểm tra việc giữ gìn phẩm chất, đạo đức cách mạng và hoạt động của cán bộ, Đảng viên. Thực hiện 4 nề nếp giữ gìn kỷ luật Đảng. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những Đảng viên không còn đủ tư cách, đã thoái hóa, biến chất, tê liệt ý chí cách mạng, bàng quan vô trách nhiệm, không còn uy tín với quần chúng. Các trường hợp khuyết điểm sai lầm của cán bộ, Đảng viên và tổ chức Đảng đều phải được kiểm điểm và xử lý nghiêm minh, kịp thời chính xác. Tổ chức tốt công tác tiếp dân và giải quyết nhanh chóng các thư, đơn khiếu nại, tố cáo của quần chúng nhân dân đối với Đảng viên. Giải quyết dứt điểm những vấn đề còn tồn đọng sau đợt tự phê bình và phê bình. Củng cố tổ chức và nếp công tác của Ủy ban Kiểm tra Quận và công tác kiểm tra của các Đảng bộ, phường, ban ngành.

VỀ TỒ CHỨC CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN

Để biến Nghị quyết của Đại hội thành hiện thực, phải tạo cho được một phong trào cách mạng của quần chúng, hăng hái thi đua lao động XHCN một cách sâu rộng, liên tục và sôi nổi. Các Cấp ủy, chính quyền và đoàn thể quần chúng phải triển khai Nghị quyết Đại hội đến tận cán bộ, Đảng viên, Hội viên và có chương trình kế hoạch tổ chức thực hiện cụ thể, đồng bộ và đạt hiệu quả cao.

Trước hết, phải phát huy thắng lợi đợt sinh hoạt tự phê bình và phê bình vừa qua, các Cấp ủy và từng cán bộ, Đảng viên có biện pháp cụ thể, sửa chữa ngay những sai sót. Đồng thời phải có nhận thức đúng đắn đầy đủ tính chất phức tạp, quyết liệt của cuộc đấu tranh giai cấp trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ; Đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng đối với âm mưu phá hoại nhiều mặt của địch. Phải tiếp tục giáo dục để nâng cao trách nhiệm và tính chiến đấu cách mạng của Đảng viên trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân kiên định nhận thức rõ ranh giới ta, bạn, thù, đối tượng cách mạng và những yêu cầu bức thiết, trong tình hình kinh tế – xã hội hiện nay. Rèn luyện tác phong, đạo đức cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư làm cho mỗi Đảng viên phải thực sự gương mẫu, đi đầu trong việc chấp hành và trong các chủ trương, chính sách của Đảng, luật pháp Nhà nước. Trước hết, Ban Chấp hành Quận ủy phải thực sự đoàn kết, mà Ban Thường vụ là trung tâm, trên cơ sở đề cao việc giữ gìn kỷ cương, nguyên tắc của Đảng, đề cao tự phê bình và phê bình định kỳ (6 tháng một lần) thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ.

Tiếp tục củng cố tổ chức các cơ sở Đảng ban, ngành, đoàn thể từ Quận đền phường để đủ sức tổ chức thực hiện nhiệm vụ được phân công. Từng ngành, từng phường phải chú trọng công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ, chú trọng đội ngũ kế cận, mạnh dạn tinh giảm bộ máy và có kế hoạch đưa đi bồi dưỡng nâng cao trình độ năng lực chuyên môn theo quy hoạch, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, Đảng viên. Kiên quyết kịp thời thay đổi những cán bộ không đủ sức hoàn thành nhiệm vụ, mạnh dạn đề bạt cán bộ trẻ, nữ có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt.

Trong chỉ đạo tổ chức thực hiện các Nghị quyết của Đảng, từng bước khắc phục ngay những thiếu sót, nhằm củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Kiện toàn các cơ quan có chức năng tham mưu trong công tác quản lý kinh tế – xã hội, để mọi hoạt động thực sự đi vào nề nếp đúng hướng, đạt năng suất chất lượng và hiệu quả công tác cao.

Phải cải tiến lề lối làm việc của Ban Chấp hành Quận Đảng bộ, đảm bảo tính năng động và mối quan hệ hữu cơ giữa Đảng bộ với chính quyền, giữa Đảng với đoàn thể, giữa chính quyền với đoàn thể, giữa Quận với Thành phố và giữa các ngành cấp Quận với phường. Phấn đấu giảm bớt hội họp và đảm bảo mọi cuộc họp phải thiết thực, đạt chất lượng cao. Sau hội nghị phải có quyết định và phân công trách nhiệm cụ thể, định rõ thời gian hoàn thành. Thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo, thỉnh thị, tiếp tục củng cố và nâng lên chất lượng công tác thông tin bảo đảm tính kịp thời, chính xác và trung thực, phục vụ tốt yêu cầu lãnh chỉ đạo của Quận ủy và Ủy ban Nhân dân Quận.

Hết sức coi trọng và tăng cường công tác kiểm tra và thanh tra việc tổ chức chỉ đạo thực hiện các Nghị quyết của Đảng, chương trình kế hoạch của chính quyền và các đoàn thể. Cần làm tốt công tác chỉ đạo thí điểm và sơ, tổng kết kịp thời. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào học tập và nhân điển hình tiên tiến đi vào chiều sâu. Có tác dụng thiết thực, tránh phô trương hình thức.

Đại hội giao cho Ban Chấp hành có trách nhiệm cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội bằng Nghị quyết từng năm, 6 tháng, quý, kế hoạch từng thàng và chương trình công tác hàng tuần để thực hiện.

Qua 11 năm đấu tranh cải tạo, xây dựng và bảo vệ Đảng bộ Gò Vấp, chúng ta đã tích lũy được một số kinh nghiệm quý báu, đội ngũ cán bộ, Đảng viên đã có bước trưởng thàng từ trong thực tiễn. Với truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân lao động, có sự hỗ trợ giúp đỡ các ban ngành, đoàn thể Thành phố, các đơn vị kinh tế quốc phòng trú đóng và các đơn vị có liên kết hợp tác toàn Đảng bộ phải quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ IV, góp phần với Thành phố và cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV. Tất cả Đảng viên của Quận Đảng bộ phải xác định rõ trách nhiệm rất nặng nề và cũng rất vinh dự của người chiến sĩ Cộng sản phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ chính trị mà Đại hội đại biểu Quận Đảng bộ đã đề ra.