Nguyên Văn Bản Di Chúc Của Hồ Chí Minh / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Di Chúc Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh

(TG)- Năm mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩnh biệt chúng ta về với “thế giới người hiền”, cùng với thời gian, Đảng và Nhân dân ta ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về giá trị lịch sử và sự kết tinh trí tuệ của một nhà tư tưởng lỗi lạc được thể hiện trong bản Di chúc của Người.

 MỘT TÁC PHẨM BẤT HỦ

Bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử vô giá, được viết từ trái tim, trí tuệ và tư tưởng của một vĩ nhân. Di chúc của Người là sự hội tụ truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, hòa quyện, chắt lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại; đã đi vào lịch sử và trở thành một tài sản vô giá của dân tộc ta.

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết tinh trí tuệ của một nhà tư tưởng lỗi lạc, bởi trong đó thể hiện tâm huyết của một con người “đại nhân, đại trí, đại dũng”; là tầm cao của một con người đã dành cả cuộc đời phấn đấu hy sinh vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam, vì hòa bình, tiến bộ trên toàn thế giới.

Sự kết tinh trí tuệ trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện trước hết trong ngôn từ diễn đạt. Là người mácxít phương Đông, hơn ai hết Hồ Chí Minh am hiểu mục đích, giá trị của thể loại “di chúc” theo truyền thống văn hóa phương Đông. Đồng thời, Người hiểu rõ cuộc đời của mỗi con người, ai cũng phải tuân theo quy luật của tạo hóa: “sinh, lão, bệnh, tử”. Tuy nhiên, trong Di chúc, người ta không thấy có chỗ nào “lâm ly, tử biệt”, mà được diễn đạt, thể hiện một cách tự nhiên, thanh cao, cô đọng và giản dị về ngôn từ, như cách nói của Người, “tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác”[1].

Sự kết tinh trí tuệ trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt được thể hiện rõ qua mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng và cách mạng Việt Nam.

NỘI DUNG CỐT LÕI VỀ ĐẢNG VÀ LỰC LƯỢNG KẾ CẬN

Trước hết là về Đảng cầm quyền: Với tư cách là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, trước lúc đi xa, điều đầu tiên Người di huấn với Đảng rằng phải luôn quán triệt nguyên tắc: “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”[2]. Đảng là người lãnh đạo, là “trí khôn”, “là bàn chỉ nam” dẫn dắt cách mạng Việt Nam đến thắng lợi. Chính vì vậy, phải thường xuyên chăm lo công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để Đảng vững mạnh về mọi mặt. Muốn làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, thì vấn đề đoàn kết trong Đảng phải đặt lên hàng đầu. Trong Di chúc, Người viết: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”[3].

 

Sự đoàn kết của Đảng chỉ có được khi Ban Chấp hành Trung ương và mỗi đảng viên của Đảng kiên quyết một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ Nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Phải nhận thức sâu sắc rằng, đoàn kết, thống nhất trong Đảng là vấn đề quan trọng nhất, phải làm cho các cấp ủy và hàng triệu đảng viên cùng một ý chí hành động, tạo ra sức mạnh; phải làm cho Đảng thật sự trở thành hạt nhân lãnh đạo xây dựng và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Người nhấn mạnh, đoàn kết là truyền thống quý báu của Nhân dân ta, để tập hợp được rộng rãi và đông đảo các lực lượng tham gia khối đại đoàn kết: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”[4].

Trong tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chăm lo, giáo dục thế hệ trẻ, đào tạo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết. Ngay sau phần nói về Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “ĐOÀN VIÊN VÀ THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng”, vừa “chuyên””[5]. Bởi vì theo quan điểm của Người, muốn thức tỉnh dân tộc, trước hết phải thức tỉnh thanh niên – một bộ phận quan trọng của dân tộc. Để hiện thực hóa tiềm năng đó, thì trước hết cần phải tập hợp thanh niên trong một tổ chức cách mạng. Người cho rằng: “Thanh niên ta rất hăng hái. Ta biết họp lòng hăng hái đó lại và dìu dắt đúng đắn thì thanh niên sẽ thành một lực lượng rất mạnh mẽ”[6].

Nhìn nhận thanh niên là một lực lượng to lớn và mạnh mẽ, Hồ Chí Minh khẳng định: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do các thanh niên”[7]. Người nhắc nhở các cấp bộ đảng, chính quyền, đoàn thể, phải chú ý chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Để họ xứng đáng là những người chủ tương lai của đất nước, là những cán bộ kế cận của Đảng, phải giáo dục, bồi dưỡng cho thanh niên có phẩm chất đạo đức và năng lực: có tài, có đức, “vừa hồng, vừa chuyên”. Đối với lực lượng thanh niên, Người yêu cầu phải tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu học tập để nắm lấy tri thức, bồi dưỡng ý chí nghị lực và tinh thần cách mạng, phục vụ Tổ quốc. Người nói: “Nói chung thanh niên phải chuẩn bị làm người chủ nước nhà. Muốn thế phải ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hóa, trước hết phải rèn luyện và thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa, gột rửa cá nhân chủ nghĩa”[8]… Phải luôn nhắc nhở, dìu dắt họ, đề phòng rơi vào “chủ nghĩa cá nhân”. Thanh niên là những người đang trong quá trình tích lũy tri thức và hình thành nhân cách, việc giáo dục phẩm chất đạo đức, việc tự tu dưỡng, rèn luyện của mỗi người phải thường xuyên như đánh răng, rửa mặt hằng ngày.

Trong việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng của thanh niên, Hồ Chí Minh chỉ ra cụ thể, đó là lý tưởng sống vì Tổ quốc, vì Nhân dân; kiên quyết vượt qua mọi khó khăn, thử thách, luôn xung phong, gương mẫu trong mọi công việc, hoàn thành mọi nhiệm vụ: “Thực hiện khẩu hiệu “Đâu cần thanh niên có, đâu khó thanh niên làm”[9]; và “Đâu Đảng cần thì thanh niên có, việc gì khó thì thanh niên làm”[10]. Hồ Chí Minh căn dặn, mỗi người thanh niên phải luôn suy nghĩ về nhiệm vụ của mình trước Tổ quốc, trước nhân dân: “Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà! Mình phải làm thế nào cho ích nước lợi nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào”[11]. Giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, để thanh niên có phẩm chất “vừa hồng, vừa chuyên”, trước hết là trách nhiệm của Đảng, của tổ chức Đoàn Thanh niên và các thế hệ đi trước, phải thường xuyên quan tâm tới thanh niên.

CHĂM LO CHO CON NGƯỜI, VÌ CON NGƯỜI

Xuất phát từ quan điểm: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”[12], một trong những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện trong bản Di chúc là phần nói về con người: “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn lãnh đạo Đảng, Nhà nước phải xác định chiến lược con người là một mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. Con người trong tư tưởng của Hồ Chí Minh là Nhân dân, là tất cả những con dân nước Việt; là đồng bào, đồng chí và những người có lòng yêu nước, hướng về dân tộc.

Tiếp thu tư tưởng của các bậc tiền nhân khi nhìn nhận về vai trò, sức mạnh của Nhân dân: Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn; học tập tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi: Ý chí của Nhân dân là thành lũy vững chắc (chúng chí thành thành), sức dân như nước, chở thuyền hay lật thuyền cũng do dân: “Phúc chu thủy tín dân do thủy/Thị hiểm nan bằng, mệnh tại thiên” (“Lật thuyền mới rõ dân như nước/Cậy hiểm khôn xoay, mệnh ở trời”). Hồ Chí Minh khẳng định, dân là gốc của nước, là lực lượng chủ yếu của cách mạng, vì dân có số lượng đông, mọi lực lượng đều ở nơi dân. Dân cũng là những người làm ra mọi của cải vật chất và giá trị văn hóa, nuôi sống bộ máy nhà nước và toàn thể xã hội, làm cho xã hội tồn tại và phát triển: “Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra”[13]. Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã hy sinh phấn đấu vì hạnh phúc của Nhân dân, Người nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”3. Khi sắp phải từ biệt thế giới này, nghĩ về Nhân dân, Người viết: “NHÂN DÂN LAO ĐỘNG ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh.

GÓP PHẦN CỦNG CỐ TÌNH ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ

Thực hiện Di chúc của Người, trên tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản trong sáng; phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước dân chủ, tiến bộ và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, Đảng ta đã lãnh đạo Nhân dân ta hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Những kết quả đó là sự ghi nhận, khẳng định tính đúng đắn của đường lối đối ngoại của Đảng và giá trị định hướng của bản Di chúc mà Người đã để lại cho Đảng và Nhân dân ta.

Không chỉ đề cao vai trò của đoàn kết, xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và tình đoàn kết với bạn bè quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh trong Di chúc tầm quan trọng của việc phải giữ gìn và củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ

Theo giáo sư, “lời dặn dò” của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết nội bộ vẫn giữ nguyên giá trị thời đại trong bối cảnh Việt Nam vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập, thống và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.

Bên cạnh đó, giáo sư Carl Thayer cũng cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam “muốn duy trì được vị trí của mình thì phải quyết tâm trong cuộc chiến chống tham nhũng và chống lại sự suy thoái của cán bộ”. Trong bối cảnh Việt Nam đang chuẩn bị Đại hội Đảng lần thứ XIII, các vấn đề này lại càng trở nên cấp thiết.

Đã tròn 50 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu vĩnh biệt chúng ta. Cả cuộc đời của Người thuộc về Tổ quốc, phụng sự cách mạng và Nhân dân, vì vậy, Người sống mãi trong tâm hồn Nhân dân ta và bè bạn trên thế giới. Cuộc đời, sự nghiệp, trí tuệ và tư tưởng đạo đức vô song của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã và sẽ mãi mãi trở thành tấm gương tỏa sáng cho toàn Đảng, toàn dân ta học tập, noi theo.

PGS. TS. Trần Minh Trưởng

Viên trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng

125 Sinh Nhật Bác: Di Chúc Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh là một nhân vật lịch sử. Đánh giá về các nhân vật lịch, về đóng góp và sai lầm của họ, là công việc của các sử gia chân chính.

Ở đây, tôi chỉ làm một việc duy nhất: khảo sát các văn bản di chúc của Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó chỉ ra một số điều mà văn bản cho phép nhìn thấy. Đúng hơn là các văn bản của Hồ Chí Minh cho phép đặt ra một số nghi vấn mà tôi không có câu trả lời. Tôi cũng không có tham vọng trả lời, tôi chỉ làm công việc đặt ra các câu hỏi.

Trong bài này, để tiến hành khảo sát các bản di chúc, tôi sử dụng các bản gốc đánh máy năm 1965 và bản gốc viết tay các năm 1968-1969, của Hồ Chí Minh, được công bố trong cuốn ” Toàn văn di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, NXB Trẻ, 1999.

Bản di chúc đầu tiên được đánh máy và ký ngày 15/5/1965, với sự chứng kiến của Lê Duẩn, lúc bấy giờ là Bí thư thứ nhất Ban chấp hành trung ương, có chữ ký của Lê Duẩn trong văn bản đánh máy.

Bản di chúc thứ hai, được viết tay, bằng mực xanh, vào dịp sinh nhật thứ 78, tức là vào tháng 5 năm 1968, với rất nhiều sửa chữa, gạch xóa bằng mực đỏ, không có chữ ký, không có người chứng kiến.

Bản thứ ba, đề ngày 10/5/1969, chỉ có một trang viết tay, với nội dung là phần mở đầu của di chúc.

Như vậy, có thể thấy, Hồ Chí Minh viết hoặc sửa di chúc vào mỗi dịp sinh nhật. Điều này cũng có thể hiểu được : chính là vào dịp sinh nhật mà người ta nghĩ đến quỹ thời gian còn lại của mình, nhất là đối với những người cao tuổi. Hồ Chí Minh đã chuẩn bị cho cái chết của mình một cách đầy ý thức, từ nhiều năm trước khi chết.

Bản gốc di chúc thứ nhất và thứ hai đều có ghi quốc hiệu : ” Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam / Độc lập-Tự do – Hạnh phúc “. Và đều có ghi chú ở ngay dòng đầu tiên : ” Tuyệt đối bí mật “. Đồng thời việc viết và sửa chữa di chúc nhiều lần, việc sửa chữa, thêm bớt từng chữ một, cho thấy rằng, đối với Hồ Chí Minh, di chúc là một văn bản hết sức quan trọng, hết sức có ý nghĩa đối với ông.

Tôi xin xác định rõ : ở đây tôi không đi vào phân tích toàn bộ các văn bản di chúc, không phân tích tư tưởng của Hồ Chí Minh, không đánh giá đúng sai. Có thể tôi sẽ làm việc đó vào một lúc khác nhưng không phải lúc này.

Nhận xét sơ bộ đầu tiên của tôi có thể tóm gọn trong mấy câu hỏi sau đây:

1. Vì sao từ bản di chúc thứ hai ông chọn hình thức viết tay, chứ không đánh máy nữa ? Liệu ta có thể nghĩ đến một trong những câu trả lời khả dĩ: “để không ai có thể sửa đổi hay đánh tráo được ” ? Ta biết rằng đối với một văn bản đánh máy, trừ trang có chữ ký ra, bất kỳ trang nào cũng có thể bị thay thế mà… không để lại dấu vết gì. Dù sao đấy cũng chỉ là một phỏng đoán. Nhưng nếu quả thật Hồ Chí Minh đã có linh cảm và lo ngại rằng di chúc của ông sẽ bị sửa chữa sau khi ông chết thì linh cảm và lo ngại ấy quả là chính xác, vì đó chính là điều mà Bộ Chính trị đã làm.

2. Bản di chúc thứ hai, 1968, không có chữ ký, và không có người chứng kiến. Văn bản được công bố với rất nhiều sửa chữa cho phép phỏng đoán rằng đó có thể là một bản nháp. Câu hỏi là : từ sinh nhật 1968 đến sinh nhật 1969 ông Hồ Chí Minh hoàn toàn có thời gian để chép lại văn bản ngắn ấy thành một văn bản hoàn chỉnh, có chữ ký của ông đàng hoàng, như ông đã làm với văn bản thứ nhất, nhưng tại sao ông không làm điều đó ? Tại sao ông mất 5 năm để viết một di chúc, thay đổi, sửa chữa rất nhiều, chứng tỏ nó rất quan trọng đối với ông, mà rốt cuộc ông chỉ để lại một văn bản dang dở và gạch xóa sửa chữa nhằng nhịt như vậy ? Liệu có phải ông Hồ đã viết lại sạch sẽ và ký cẩn thận, nhưng văn bản chính thức có chữ ký đó không còn nữa ?

3. Văn bản năm 1969 chỉ có một trang viết tay, nội dung cho thấy đó là lời mở đầu di chúc, lặp lại một số nội dung đã từng viết ở phần mở đầu của những di chúc trước. Tuy nhiên trông nó như là bản nháp, vì đầu trang không đề quốc hiệu, cũng không có dòng chữ “Tuyệt đối bí mật”, như hai bản trước. Chẳng lẽ Hồ Chí Minh chỉ viết phần mở đầu mà không viết phần nội dung chính ? Điều này thật đáng ngạc nhiên. Bởi Hồ Chí Minh hiểu rõ tầm quan trọng của di chúc, hiểu rõ rằng di chúc của ông chính là một văn bản lịch sử. Câu hỏi đặt ra là : Liệu có phải văn bản năm 1969 chỉ có chừng đó không ? Liệu có phải Hồ Chí Minh đã viết một bản di chúc thứ ba rất hoàn chỉnh, vào sinh nhật năm 79 tuổi, nhưng chỉ còn lại một trang nháp, và phần chính của nó đã bị thất lạc, hoặc bị hủy bỏ, hoặc không được công bố?

Tại sao có những câu hỏi này?

Vì vậy, câu hỏi đặt ra là:

Liệu có thể xảy ra trường hợp : trong bản di chúc viết năm 1969 Hồ Chí Minh đã có những thay đổi khiến cho người ta không muốn lưu giữ văn bản ấy? Liệu có phải bản di chúc cuối cùng, bản di chúc chính thức của Hồ Chí Minh (viết năm 1969, với chữ ký của ông, và là bản mà ông muốn đưa ra trước toàn dân) đã bị biến mất, đã bị hủy bỏ, hoặc đã bị cất giấu, không được công bố?

4. Bản đánh máy đầu tiên với đầy đủ tất cả những nghi thức cần thiết cho thấy rằng ông Hồ Chí Minh hiểu rõ thế nào là một bản di chúc. Vậy tại sao những bản di chúc về sau (được nhà nước công bố) lại ở trong tình trạng của bản nháp, gạch xóa, tẩy sửa, thiếu những nghi thức cần thiết đó?

Và câu hỏi là : bản di chúc nào là bản mà ông Hồ muốn đưa ra trước toàn dân?

Dĩ nhiên, đó không phải là bản viết năm 1965, bởi nó đã bị thay thế bằng các văn bản khác. Từ những gì đã công bố, ít nhất ta biết rằng ông Hồ đã viết lại hoàn toàn di chúc vào sinh nhật năm 1968. Và trong bản gốc viết tay, ông nói rõ lý do, mặc dù sau khi cân nhắc ông gạch bỏ câu này: ” Tháng 5/1968, khi tôi xem lại thư này thì tình hình trong nước cũng như tình hình thế giới có rất nhiều thay đổi “. Những thay đổi đó đã khiến cho cách nhìn nhận của ông thay đổi, và ông cảm thấy cần phải viết lại hoàn toàn. Cách đánh số trang của bản viết tay năm 1968 cho thấy rằng đó là một bản hoàn chỉnh, có logic riêng, có cấu trúc riêng, độc lập với văn bản năm 1965. Đó là một văn bản mới hoàn toàn. Việc quốc hiệu được ông Hồ ghi đầu trang cũng là một dấu hiệu xác nhận đó là một văn bản mới. Vậy có nghĩa là văn bản năm 1965 đã bị thay thế bởi văn bản năm 1968. Và phải xem bản viết năm 1965 là không còn hiệu lực?

Và điều quan trọng, xin nhắc lại : Hồ Chí Minh muốn công bố trước toàn dân bản di chúc nào?

Chúng ta thấy rõ rằng ông viết di chúc cho toàn thể nhân dân. Bản viết năm 1968 cho thấy nhân dân là đối tượng chính mà ông nghĩ đến. Và việc chôn cất ông, theo như ông dặn lại trong di chúc, là việc của đồng bào ba miền, chứ không phải là việc của Bộ Chính trị.

Thật đáng ngạc nhiên nếu ông muốn công bố cho toàn dân mấy văn bản gạch xóa, thêm bớt nhằng nhịt đó. Tiến hành viết di chúc trong vòng 5 năm hẳn ông phải có một bản hoàn chỉnh, rõ ràng, sạch sẽ, với chữ ký và người chứng kiến, một văn bản có giá trị pháp lý, như là văn bản đầu tiên ? Tại sao không có một văn bản như vậy ? Lẽ nào trước khi mất ông không dặn lại là phải công bố bản di chúc nào ? Phải chăng ông Hồ đã để lại một bản hoàn chỉnh, đảm bảo các thủ tục pháp lý, nhưng bản đó đã không được công bố?

Hy vọng giới sử học chân chính một ngày nào đó sẽ làm sáng tỏ.

Trên thực tế chúng ta không biết bản nào là bản di chúc chính thức, chúng ta không biết Hồ Chí Minh muốn công bố bản nào. Hiện tại thì bản cuối cùng tương đối đầy đủ mà chúng ta có là bản thứ hai, bản được viết năm 1968. Và tôi đành phải làm việc trên những gì còn lại và được công bố.

Có thể các bạn sẽ cảm nhận được sự dối trá đang đè nặng lên cuộc sống của các bạn như thế nào khi các bạn đối chiếu với những gì mà các bạn đang được rao giảng, qua tài liệu của Ban Tuyên giáo soạn cho các bạn. Có thế các bạn sẽ đặt câu hỏi về việc tại sao Đảng, Nhà nước lại chi tiêu tốn kém như vậy cho cái màn kịch khổng lồ đem diễn trên toàn quốc (nhất là trong các trường học) từ nhiều năm nay về việc “học tập” này.

Paris, 23/4/2015

Nguyễn Thị Từ Huy

Nguồn Blog Nguyễn Thị Từ

Di Chúc Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh Công Bố Ở Trong Nước Và Nước Ngoài

VĂN KIỆN LỊCH SỬ QUÝ GIÁ

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện lịch sử vô cùng quý giá, kết tinh những tư tưởng lớn mang tính định hướng chiến lược được đúc kết từ thực tiễn cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam và kinh nghiệm cả cuộc đời hoạt động cách mạng vô cùng phong phú, oanh liệt và cam go của Người. Di chúc thấm đậm tính nhân văn sâu sắc, phản ánh tình cảm chân thành và sự quan tâm đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến từng lớp người trong xã hội, cũng như những suy tư, mong ước và hy vọng của Người đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Thời gian càng lùi xa, chúng ta càng thấy rõ hơn những giá trị lý luận và thực tiễn trong Di chúc của Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời là một tổn thất vô cùng to lớn đối với toàn Đảng, toàn dân Việt Nam và bè bạn quốc tế. Hội nghị bất thường của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) họp chiều ngày 3/9/1969 đã giao cho Bộ Chính trị trách nhiệm công bố Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bản Di chúc được công bố chính thức vào tháng 9/1969 sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời là bản do đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đọc tại lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh vào ngày 9/9/1969.

Bản Di chúc công bố nam 1969 chủ yếu dựa theo bản Người viết năm 1965, vì đây là bản Di chúc hoàn chỉnh, có chữ ký của Người và bên cạnh có chữ ký của đồng chí Lê Duẩn; trong đó, có một số đoạn được bổ sung hoặc thay thế bằng những đoạn tương ứng Người viết năm 1968 và năm 1969. Đoạn mở đầu lấy nguyên văn toàn bộ đoạn mở đầu Người viết năm 1969, thay cho đoạn mở đầu Người viết năm 1965. Bút tích của Bác về đoạn này đã được chụp lại và công bố đầy đủ năm 1969.

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện lịch sử của một nhà chính trị, lãnh tụ cao nhất của Đảng và dân tộc – Người đã sáng tạo ra thời đại mới, “thời đại Hồ Chí Minh”, thời đại đấu tranh giành độc lập dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam. Đó cũng là tác phẩm nghệ thuật đầy tâm huyết của một nhà văn hoá lớn Hồ Chí Minh, mang đậm dấu ấn của một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng.

Di chúc phản ánh thống nhất, cô đọng nhất về toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh; thể hiện phẩm chất đạo đức cách mạng sáng ngời, suốt đời tận tâm, tận lực phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc và nhân dân của người chiến sĩ cộng sản kiệt xuất Hồ Chí Minh; thể hiện những trăn trở và mong muốn cuối cùng của Người trước khi đi xa.

BẢN DI CHÚC ĐƯỢC CÔNG BỐ TRONG NƯỚC

Báo Nhân Dân

Trang trọng trên trang nhất báo Nhân Dân, số 5626, ra ngày 10/9/1969 đã đăng Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và kèm theo bản chụp trang viết tay phần mở đầu Di chúc viết vào ngày 10/5/1969. Di chúc được công bố chính thức khi đó là bản do đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đọc, sau khi đọc Điếu văn tại lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh được tổ chức trọng thể và trang nghiêm tại Quảng trường Ba Đình lịch sử trước hàng vạn nhân dân Thủ đô, đại biểu các tầng lớp nhân dân các địa phương và đoàn đại biểu nhân dân miền Nam cùng 34 đoàn đại biểu quốc tế.

Trong bài tường thuật buổi lễ truy điệu có viết: “Đọc xong Lời điếu, đồng chí Lê Duẩn đọc Lời Di chúc của Hồ Chủ tịch. Đồng chí Lê Duẩn vừa mới đọc dòng đầu tiên của những lời căn dặn cuối cùng của Bác Hồ, cả Quảng trường òa lên khóc. Đau thương đến lúc này như không sao nén nổi. Càng nghe lời dặn cuối cùng của Hồ Chủ tịch, càng khóc nhiều. Nhưng không ai dám khóc to, vì còn muốn nghe cho thấm vào lòng từng lời của Bác”[3].

Báo Nhân Dân hôm sau, số 5627, ngày 11/9/1969 tiếp tục đăng Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh kèm theo bức ảnh Người đang ngồi làm việc ở Việt Bắc trên trang nhất. Báo Nhân Dân, số đặc biệt chiều ngày 4/9/1969 đăng Thông cáo đặc biệt về việc Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần và cũng từ số báo Nhân Dân ra ngày 4/9/1969 đến số báo ra ngày 15/9/1969 đã liên tục đưa tin về tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh, thế giới thương tiếc Chủ tịch Hồ Chí Minh, các bài xã luận làm đúng lời Hồ Chủ tịch và giữ trọn lời thề với Người, các bức điện chia buồn của các nước, các tổ chức, các bài thơ khóc Bác của nhiều nhà thơ tên tuổi, các bài viết ca ngợi Người…

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được công bố lần đầu tiên trên báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng ta ngay sau khi Người qua đời đã trở thành nguồn cổ vũ lớn lao đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững bước tiến lên thực hiện tốt 5 lời thề son sắt trước anh linh của Người: “Vĩnh biệt chúng ta, BÁC HỒ có để lại cho Đảng ta, cho toàn thể đồng bào và chiến sĩ hai miền Nam – Bắc một bản Di chúc lịch sử. Đó là những lời căn dặn cuối cùng của BÁC, là những tình cảm và niềm tin của BÁC đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau”[4].

Sách Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xuất bản năm 1969 Sách gồm 47 trang do Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam xuất bản năm 1969, tiếng Việt. Bìa màu nâu, với tiêu đề: “Đời đời nhớ ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”. Cuốn sách khổ nhỏ: 9 cm x 13 cm. Trang 3 là ảnh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuốn sách gồm 3 phần: Di chúc, Lời kêu gọi và Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Phần Di chúc (từ trang 8 đến trang 21) in trang bút tích phần đầu và toàn văn Di chúc năm 1969 đã được đọc tại lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Sách Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xuất bản năm 1969

Sách xuất bản năm 1969, khổ nhỏ dạng bỏ túi 9 cm x 13 cm, 21 trang, bìa màu nâu có dòng chữ: Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Bìa trong có tiêu đề: Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một trang bút tích phần mở đầu và toàn văn nội dung Di chúc công bố năm 1969. Sách được phát cho đồng bào đến viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh[5].

Sách Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh in năm 1970

Bản Di chúc công bố năm 1969 được Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tổ chức in tại cơ sở bí mật, số nhà 157 đường Nguyễn Trãi, Sài Gòn và phát hành rộng rãi tại các vùng giải phóng. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh có tác dụng cổ vũ, khích lệ quân và dân miền Nam thực hiện lời căn dặn của Người là quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn dù có phải hy sinh nhiều của, nhiều người, thực hiện niềm tin tưởng sắt son của Người là đồng bào Nam – Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà.

Di chúc của Chủ tịch Hồ chí Minh xuất bản năm 2019

Bộ sách in Lời Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Lời kêu gọi và Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam

Sách do Phủ Thủ tướng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xuất bản tại Hà Nội năm 1969 bằng tiếng Việt và 6 thứ tiếng nước ngoài (Nga, Trung, Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha). Văn phòng Phủ Thủ tướng giao cho Ban Phụ trách xây dựng Bảo tàng Hồ Chí Minh, ngày 5/7/1971.

Mỗi bộ sách gồm 2 quyển, bìa cứng: một quyển in Di chúc và một quyển in Lời kêu gọi và Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Hai quyển để trong cặp giấy cứng, mặt ngoài sơn mài bóng màu vàng (loại in giấy dó) và bìa màu trắng (loại giấy thường), góc phải bìa in nổi hình chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nghiêng và dòng chữ phía dưới “1890 – 1969” bằng nhũ vàng. Giữa mép cạnh ngoài của bìa có đính hai dây bằng vải tơ để buộc. Sách in khổ: 20 cm x 27 cm. Mỗi quyển trong bộ sách gồm 8 trang (không đánh số trang).

Đây là những bản in rất đẹp, trình bày trang trọng, chất lượng giấy tốt, nhất là những bản in đặc biệt bằng giấy dó, không chỉ phát hành bằng tiếng Việt mà còn bằng 6 thứ tiếng nước ngoài với số lượng khá lớn.

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xuất bản năm 1980

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất bản tại Hà Nội, năm 1980, gồm 16 trang, khổ 9 cm x 11 cm. Bìa màu ghi tím, trên nền hoa văn chìm hình bông sen vàng nhạt. Di chúc in trên giấy xám xanh nền hoa văn hình bông sen màu xanh ghi. Trang 3 có in hình chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, trang 5 in trang bản viết tay của Người đề ngày 10/5/1969. Cuối bản Di chúc có in chữ ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh[6].

BẢN DI CHÚC CÔNG BỐ Ở NƯỚC NGOÀI

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng tải trên các báo nước ngoài Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần đã gây xúc động lớn đối với mọi tầng lớp nhân dân trên thế giới. Hiếm có sự ra đi của vị lãnh đạo đứng đầu nhà nước nào lại gây ra nỗi đau buồn khắp năm châu như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nữ thi sĩ Bungari Blaga Đimitrôva viết: Một trái tim ngừng đập, cả thế giới bỗng lạnh ngắt, tái tê.

Báo chí nhiều nước vào những ngày đầu tháng 9/1969 đã đưa tin về tang lễ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đăng nhiều bài viết ca ngợi sự nghiệp cách mạng vĩ đại và công lao, đức độ to lớn của Người, cũng như tình cảm, mối quan hệ của Người với bạn bè và nhân dân các nước mà Người đã từng sống và học tập cũng như sau này đến thăm hữu nghị… Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được đăng tải trang trọng trên trang nhất nhiều tờ báo lớn trên thế giới vào sau ngày 9/9/1969, sau lễ truy điệu trọng thể Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội.

Báo Lao động (Liên Xô), số 211, thứ tư ngày 10/9/1969. Báo in tipô, tiếng Nga, cỡ: 42 cm x 60 cm. Tại trang 1 và trang 4 trong bài “Việt Nam tiễn biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh” đã đăng toàn văn Điếu văn và Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do đồng chí Lê Duẩn đọc tại lễ truy điệu Người ngày 9/9/1969. Để tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Nhân dân Việt Nam, người bạn lớn của Nhân dân Liên Xô, Liên Xô đã quyết định treo cờ rủ ở Thủ đô Mátxcơva, thành phố Lêningrát, thủ đô các nước cộng hòa và các thành phố khắp Liên bang Xôviết trong ngày 9/9/1969 (ngày cử hành tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh).

Bài viết có sử dụng một số thông tin của:

1) Báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam: số 5626, ngày 10/9/1969; số 5627, ngày 11/9/1969 và các số ra từ ngày 04/9/1969 đến ngày 15/9/1969;

2) Báo chí nước ngoài: Báo Lao động (Liên Xô), Báo Neues Deutschland (Đức), Báo L’Humanité (Nhân đạo) (Pháp), Báo L’Unita (Italia),…

3) Một số ấn phẩm Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh phát hành ở nước ngoài đang lưu giữ tại Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch, Cục Lưu trữ Trung ương Đảng và Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Báo Quyền lợi đỏ của Tiệp Khắc, ngày 16/9/1969, đăng Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại trang 8.

Báo Diễn đàn của Đảng Cộng sản Ôxtrâylia, ngày 17/9/1969, trang 3 đăng Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

ẤN PHẨM DI CHÚC PHÁT HÀNH Ở NƯỚC NGOÀI

Tờ Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiếng Italia, do Đảng Cộng sản Italia xuất bản trong thời gian tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Giấy cứng màu đỏ, kích thước: 33 cm x 42 cm. Phía trên in chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh và hình sao vàng năm cánh. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố năm 1969 được in với tiêu đề: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc.

Bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiếng Italia, năm 1972, được in trên hai tờ giấy bìa dày màu trắng gấp đôi, 8 trang, kích thước: 24,6 cm x 34,5 cm. Những trang đầu tiên là tiêu đề cùng hai bức phác họa chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngực trở lên và chân dung nửa người của họa sĩ người Italia Bruno Caruso. Dưới hai bức họa đều có chữ ký của tác giả. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ngày 10/5/1969 được in ở trang 4 – 6. Ấn phẩm này được in 100 bản và phát hành tại Roma năm 1972.

Sách Lời Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất bản tại Cộng hòa Dân chủ Đức, gồm 48 trang, bìa cứng, bọc vải đỏ, kích thước 18,5 cm x 24 cm. Sách in Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Trang bìa 2 dòng chữ Hồ Chí Minh màu đỏ phía trên và phía dưới chữ: Lời Di chúc in màu đen, trang 3 bìa phụ giống bìa ở trang 2 chỉ đổi màu chữ tiêu đề ngược lại. Trang 4 in chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khung đen. Trang 5 là bản chụp trang viết tay phần đầu Di chúc viết ngày 10/5/1969. Tiếp đến các trang sau in Di chúc và Điếu văn bằng bốn thứ tiếng theo thứ tự: tiếng Việt, tiếng Đức, tiếng Anh và tiếng Pháp.

Sách Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất bản tại Hà Lan, năm 1969, do Đảng Cộng sản Hà Lan ấn hành năm 1969, kích thước 15 cm x 21 cm, bìa màu xanh cỏ úa. Trong sách có ảnh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh chụp năm 1966 và bìa sau có hai ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh với tướng Pháp Leclerk ở Hà Nội tháng 3/1946 và Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Chiến khu Việt Bắc năm 1950.

Sách Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiếng Lào, bản công bố năm 1969 được đăng tải từ trang 29 đến trang 36 trong tạp chí Tia sáng – nội san của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, số ra ngày 19/9/1969. Đây là số đặc biệt về tang lễ của Chủ tịch Hồ Chí Minh phát hành trong vùng giải phóng Lào. Tạp chí gồm 64 trang, kích thước 18,5 cm x 12,5 cm. Trong bài xã luận với tiêu đề “Thương tiếc Chủ tịch Hồ Chí Minh” có đoạn viết: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà mácxít – lêninnít vĩ đại của phong trào cộng sản quốc tế và là người bạn chiến đấu kính yêu nhất của Nhân dân Lào”.

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang nét độc đáo riêng, vì cho dù bút tích Người ghi rõ “tuyệt đối bí mật”, nhưng đây là tài liệu được công bố rộng rãi nhất ngay từ lần đầu tiên vào những ngày tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh. 50 năm kể từ ngày công bố bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đầu tiên và 30 năm từ ngày Di chúc của Người được tái bản và công bố toàn văn, được Nhà xuất bản Sự thật ấn hành với số lượng lớn trên 100.000 bản, tới nay, Di chúc của Người đã được tái bản nhiều lần, nhất là những dịp kỷ niệm năm chẵn, với số lượng lớn.

Điểm lại những bản công bố lần đầu tiên Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua báo chí trong nước và nhiều tờ báo lớn trên thế giới cùng những ấn phẩm được phát hành trong và ngoài nước đang lưu giữ tại Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch, Cục Lưu trữ Trung ương Đảng và Bảo tàng Hồ Chí Minh cũng chính là thêm một lần hiểu sâu sắc hơn những giá trị to lớn và trường tồn của bản Di chúc lịch sử cùng những ngày tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi cả thế giới cùng với Nhân dân Việt Nam ca ngợi và thương tiếc Người – vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại của thế kỷ XX.

Di chúc là một văn kiện lịch sử vô giá, kết tinh trong đó tinh hoa tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một vĩ nhân suốt đời phấn đấu, hy sinh vì Tổ quốc và nhân loại.

Di chúc là những lời căn dặn và tình cảm thiết tha; là niềm tin sâu sắc của Người gửi lại toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và các thế hệ mai sau. Di chúc của Người đã trở thành thiêng liêng, thành cương lĩnh hành động của toàn Đảng, toàn dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như trong công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, thể hiện sự quyết tâm của Đảng ta làm theo lời dạy của Người về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi thử thách, khó khăn, xây dựng Tổ quốc ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như lời căn dặn của Bác Hồ.

Ths. Nguyễn Văn Dương Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch

[1], [2]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.612, 623.

[3]. Báo Nhân Dân, số 5626, ngày 10/9/1969, tr.3.

[4]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.630.

[5]. Bảo tàng Hồ Chí Minh hiện đang lưu giữ cuốn sách này. Sách do anh Đỗ Văn Tốt ở thôn Trung, xã Văn Hoàng, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội) tặng Bảo tàng Hồ Chí Minh ngày 22/12/2006. Sách đã cũ, rách nhiều chỗ, bìa ngoài dính băng dính đen. Cuốn sách do bố của anh Đỗ Văn Tốt trân trọng gìn giữ từ năm 1969, khi ông qua đời đã trao lại cho con trai và dặn: “Đây là quyển sách do chính tay Bác Hồ viết nên sau này anh phải tặng lại cuốn sách cho người tin tưởng”.

[6]. Di chúc cùng với các kỷ vật quý giá khác của Việt Nam như: cờ Đảng, cờ Tổ quốc, Huy hiệu Bác Hồ, Huy hiệu Interkosmos, Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1945, Đại cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đã được nhà du hành vũ trụ đầu tiên của Việt Nam Phạm Tuân đem theo trong chuyến bay vào vũ trụ của đội bay quốc tế Việt Nam – Liên Xô tháng 6/1980. Nhiều kỷ vật có chữ ký của nhà du hành vũ trụ Phạm Tuân và Anh hùng vũ trụ Liên Xô Gorơbátcô.

[7]. Đây là 1 trong số 21 tờ báo của các báo: Sự thật, Tin tức, Lao động, Sự thật thanh niên, Xibêri Liên Xô… Số báo này do đồng chí Trần Quân Ngọc, Phó Vụ trưởng Vụ Xây dựng cơ bản – Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng tặng Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh ngày 16/12/1986 nhân dịp Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Đây là bộ sưu tập các báo Liên Xô đăng tin những ngày tang lễ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, ông Trần Quân Ngọc đang cùng những sinh viên Việt Nam trên tàu liên vận Hà Nội – Mátxcơva sang Liên Xô học tập. Những tờ báo này do ông mua tại các ga tàu để theo dõi tang lễ quê nhà. Đặc biệt, một số nơi biết có đoàn tàu chở học sinh Việt Nam đi qua, bạn bè Liên Xô đã tổ chức những cuộc mít tinh chớp nhoáng để chia sẻ nỗi đau buồn lớn lao với các bạn Việt Nam. Suốt 20 năm, ông Trần Quân Ngọc đã gìn giữ những tờ báo này như những kỷ niệm quý báu, thiêng liêng về Bác. Từ năm 1986 tới nay, những tờ báo do ông tặng đã trở thành hiện vật bảo tàng, thể hiện tấm lòng của bè bạn Liên Xô đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.

Bác Hồ Viết Di Chúc

(Chinhphu.vn) – Bác Hồ, vị lãnh tụ thiên tài, anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hóa kiệt xuất, đã cống hiến trọn đời cho độc lập, tự do của Tổ quốc, vì cuộc sống no ấm hạnh phúc của nhân dân. Người để lại cho đất nước, cho Đảng ta, nhân dân ta một văn kiện lịch sử vô giá, đó là bản Di chúc thiêng liêng, mà đến nay và mãi về sau, chúng ta luôn ghi nhớ, học tập và làm theo.

Bác Hồ viết bản Di chúc – Ảnh tư liệu của Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản vô giá của Đảng và nhân dân ta

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết trong giai đoạn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta diễn ra hết sức ác liệt nhưng đã đạt được những dấu mốc quan trọng; cách mạng dù còn khó khăn, song đang trên đà thắng lợi, đòi hỏi sự đoàn kết, chiến đấu bền bỉ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân với niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng.

Theo đồng chí Vũ Kỳ, Thư ký của Bác Hồ, Bác bắt đầu viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc để lại cho muôn đời sau lúc 9 giờ sáng thứ Hai, ngày 10/5/1965, đến 10 giờ, Bác viết xong phần mở đầu. Bác xếp tài liệu lại và chuyển sang làm các công việc thường ngày. Các ngày tiếp theo, ngày 11, 12, 13/5/1965, cũng vào giờ đó (từ 9 giờ đến 10 giờ), Bác viết tiếp các phần còn lại.

Riêng ngày 14/5/1965, do buổi sáng có lịch đi thăm một hợp tác xã ở ngoại thành Hà Nội và dự một phiên họp của Bộ Chính trị, Bác chuyển viết Di chúc sang buổi chiều với thời gian gấp đôi, từ 14 giờ đến 16 giờ. Đúng 16 giờ, Bác đánh máy xong Bản Di chúc và cho vào phong bì.

Đến 21 giờ hôm đó, Bác giao chiếc phong bì cho đồng chí Vũ Kỳ và dặn: “Chú cất giữ cẩn thận, vào dịp này sang năm nhớ đưa lại cho Bác”.

Và cứ đến dịp sinh nhật Bác hằng năm, đồng chí Vũ Kỳ lại đặt bản Di chúc lên bàn làm việc của Bác; sau đó Bác bổ sung và giao lại cho đồng chí Vũ Kỳ. Bác đọc kỹ bản Di chúc xem xét, cân nhắc kỹ từng đoạn, từng câu, từng ý, từng lời và bổ sung thêm vào bản Di chúc tùy theo tình hình đất nước. Đặc biệt là qua tình hình chiến sự miền Nam, Bác lại viết thêm những phần cần thiết vào bản Di chúc.

Năm 1966, Bác bổ sung thêm phần nói về tự phê bình và phê bình trong Đảng, trong đó Bác nhấn mạnh: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Năm 1967, Bác xem lại bản Di chúc, nhưng không sửa gì. Năm 1968, Bác viết thêm 6 trang, gồm một số đoạn về việc riêng và một số công việc cần làm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi.

Năm 1969, Bác xem và viết lại toàn bộ phần mở đầu gồm một trang viết tay. Ngày 19/5/1969, Bác sửa lần cuối. Toàn văn Di chúc được công bố sau ngày Bác Hồ qua đời (ngày 2/9/1969).

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản vô giá của Đảng và nhân dân ta, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn về nhiều mặt; là sự kết tinh của tinh hoa văn hóa dân tộc với tinh hoa văn hóa của nhân loại, là những chỉ dẫn quý báu, nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Di chúc là những lời căn dặn tâm huyết, toát lên khí phách, tinh thần lạc quan chiến thắng của một bậc “đại trí, đại nhân, đại dũng”, là sự kết tinh tư tưởng, đạo đức, phong cách, tâm hồn cao đẹp của vị lãnh tụ suốt đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân và nhân loại.

Bản Di chúc cũng là ánh sáng soi đường, là sức mạnh thôi thúc hành động cho cách mạng Việt Nam phát triển đi lên, cho đất nước ta phồn vinh, cho nhân dân được tự do, no ấm và hạnh phúc, không chỉ đối với nhân dân ta mà còn đối với các dân tộc đang đấu tranh cho tự do, độc lập, hòa bình, công lý, vì hạnh phúc của con người.

Đảng và nhân dân luôn ở trong trái tim của Người

Là người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta, Người đã dẫn dắt Đảng và dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm căn dặn trong Di chúc: “Trước hết nói về Đảng”. Chỉ rõ “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta”, Người tâm huyết nhắc nhở các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ “cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ cho chúng ta, muốn làm được việc đó thì trong Đảng phải đoàn kết nhất trí, thực hành dân chủ, tự phê bình và phê bình, phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.

Đặc biệt, Người nhấn mạnh: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Trong hai câu văn ngắn gọn nhưng Người liên tiếp sử dụng hai từ “thật sự” và “thật” như một lời nhắn gửi mang tính quy luật, phổ biến, phải làm thường xuyên, liên tục, nếu không Đảng khó lòng mà giữ nổi vai trò cầm quyền của mình. Điều đó cho thấy sự nung nấu, suy tính của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong nhiều năm, chứa đựng chiều sâu của tư tưởng, tình cảm, chiều cao trí tuệ của Người.

Để thực hiện đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh. Người chỉ rõ: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.

Trong Di Chúc Bác Hồ cũng chỉ rõ: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể kéo dài mấy năm nữa…” và “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi”. Sau khi chiến tranh kết thúc, Người căn dặn: “Công việc toàn đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man”. Đó là công việc khó khăn, vô cùng phức tạp nên Người rất quan tâm căn dặn trong Di chúc.

Đối với Đoàn viên thanh niên, trong Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là đội hậu bị của Đảng, là người chủ tương lai của đất nước, do vậy Đảng phải chăm lo bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho họ. Đó là thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Bác Hồ đối với việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Bác căn dặn và nhấn mạnh: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Bản đánh máy ngày 15/5/1969 có sự chứng kiến của Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành trung ương Đảng, Lê Duẩn và bản viết tay sửa chữa, bổ sung năm 1965 và năm 1969 – Ảnh tư liệu của Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước

Theo Bác, việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.

Dân tộc ta đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập dân tộc. Sau mỗi lần chiến thắng, ông cha ta lại có kế sách để bồi dưỡng sức dân, tăng cường lực lượng. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa truyền thống lâu đời đó của dân tộc ta. Với tình thương bao la dành cho mọi tầng lớp nhân dân, Bác đặc biệt quan tâm và căn dặn: “Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều chiến tranh…

Theo ý nguyện của Bác, Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.

Lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhân dân chứng tỏ Người hiểu thấu đáo ngọn nguồn về nhân dân, về sức mạnh của nhân dân, Bác thực sự quan tâm lo lắng cho dân và về mối quan hệ giữa Đảng với Dân và Dân với Đảng. Trong tình thương bao la dành cho mọi tầng lớp nhân dân, Bác trăn trở nhiều đến nông dân – tầng lớp chịu nhiều vất vả làm ra của cải vật chất cho xã hội. Người nhấn mạnh những đóng góp to lớn của nông dân, vai trò của nông dân đối với sự nghiệp cách mạng của nước nhà: “Trong bao năm chống thực dân Pháp, tiếp đến chống đế quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào nông dân đã luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp của góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ. Nay ta đã hoàn toàn thắng lợi, tôi có ý đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm nhiều phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”.

Đối với con người, Bác căn dặn: “Đầu tiên là công việc đối với con người. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình…, Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cách sinh”. Ngay đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, Người cũng nhắc nhở “Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp đỡ họ trở nên những người lao động lương thiện”.

Bác đưa ra lời tiên đoán có tính chất khẳng định, như một tất yếu của lịch sử: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào ta có thể hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”. Trong Di chúc , Bác viết: “…Tôi mong rằng, Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”.

“Chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”

Lời cuối cùng trong bản Di chúc có lẽ là tình cảm lắng đọng, gây xúc động mạnh nhất, trở thành đề tài phong phú cho văn học nghệ thuật về tấm lòng của Bác đối với nhân dân. “Để lại muôn vàn tình thân yêu” – cách nói nghe thân thuộc, tha thiết, cháy bỏng. Bác ra đi, không đem theo gì cho mình; tất cả, Bác để lại trọn vẹn cho đồng chí, đồng bào, cho các cháu thiếu niên và nhi đồng: Cuộc sống và tình yêu, lý tưởng và ước nguyện, ham muốn tột bậc đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành… Bác lo cho đến khi từ biệt thế giới này, không có điều gì phải hối hận, “chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Bác “để lại muôn vàn tình thân yêu” cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”.

Từ ngày Bác Hồ đi xa đến nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang ra sức và quyết tâm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác, lấy nhiệm vụ xây dựng Đảng là then chốt, kinh tế là trọng tâm với phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội. Cách mạng nước ta phải trải qua muôn vàn thử thách, dù thế giới biến đổi khôn lường, toàn Đảng và toàn dân ta nguyện sống chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại. Đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Thực hiện đúng như lời thề mà đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất, tuyên đọc khi vĩnh biệt Bác Hồ, chúng ta quyết tâm thực hiện những điều Bác căn dặn trong Di chúc: “mang lá cờ bách chiến bách thắng của Hồ Chủ tịch tới đích cuối cùng”.

50 năm thực hiện Di chúc Bác Hồ, Đảng ta và nhân dân ta vui mừng báo cáo với Bác về những thắng lợi và thành tựu đạt được. Song chúng ta cũng xin nhận với Bác rằng chúng ta còn nhiều thiếu sót, yếu kém chưa làm được nhiều điều Bác căn dặn. Trong việc xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bên cạnh những thành tựu và ưu điểm đáng kể, chúng ta còn vấp phải không ít sai lầm và khuyết điểm. Sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống, sự vi phạm các nguyên tắc về tổ chức và sinh hoạt, sự lạm dụng quyền lực, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đã có những tác động tiêu cực đến việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tiến hành trong nhiều năm qua, đặc biệt là Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được phát động từ sau Đại hội X đến nay, chính là để Đảng ta khắc phục yếu kém và khuyết điểm, khôi phục và phát huy những phẩm chất cao đẹp vốn có.

Thực hiện Di chúc của Bác Hồ, cán bộ, đảng viên chúng ta càng luôn luôn nhớ lời Bác căn dặn, phải tu dưỡng đạo đức cách mạng, thật sự “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”. Đồng thời, phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, lập trường tư tưởng kiên định, mãi mãi đi theo con đường Bác đã chọn, xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Thực hiện một cách tốt nhất lời Bác căn dặn lại trong Di chúc, đó là những chỉ dẫn hết sức quý báu đối với Đảng và nhân dân ta xứng đáng với những điều mong muốn cuối cùng của Bác, cũng là những dòng cuối cùng của Người viết trong Di chúc: “Điều mong muốn cuối cùng là toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

Nguyễn Văn Công

Giám đốc Khu Di tích Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch