Phương Pháp Dạy Văn Bản Nghị Luận Lớp 7 / Top 14 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 10/2023 # Top Trend | Bac.edu.vn

Phương Pháp Dạy Học Văn Bản Nhật Dụng Lớp 8

phần một: đặt vấn đề Xuất phát từ thực tế đó, là một giáo viên trực tiếp dạy Ngữ văn trong quá trình giảng dạy từ sự tìm tòi học hỏi của bản thân và sự giúp đỡ của đồng nghiệp, tôi nhận thấy khi tổ chức hướng dẫn cho học sinh chiếm lĩnh tác phẩm văn chương, giáo viên cần chú ý đến phương pháp giảng dạy mới như đảm bảo nguyên tắc tính tích hợp, sử dụng hệ thống câu hỏi gợi mở, đưa học sinh vào tình huống có vấn đề, tình huống tự bộc lộ ... Vai trò của người thầy trong phương pháp mới này sẽ là sức hút kỳ diệu biến giờ học văn đơn điệu trước đây trở nên thi vị hứng thú, phong phú, sâu sắc hơn, khép lại cánh cửa chán học văn của học sinh ngày nay. Trong môn Ngữ văn phần văn bản luôn chiếm số tiết nhiều hơn cả (2 tiết một tuần). Phần văn bản thường là những tiết học đầu tiên của mỗi tuần nên thực sự có ý nghĩa. Nó không chỉ là cơ sở cung cấp ngôn ngữ mới cho phân môn Tiếng Việt, Tập làm văn mà còn rèn cho học sinh năng lực tổng hợp: nghe, nói, đọc, viết. Từ năm 2002 - 2003 đến nay trong nội dung thay sách đã đưa vào loại văn bản mới có ý nghĩa và vị trí quan trọng trong việc giáo dục học sinh đó là văn bản nhật dụng. Vậy có cần phương pháp dạy kiểu văn bản mới như thế nào (đặc biệt là phần văn bản nhật dụng lớp 8) để đạt hiệu quả cao là vấn đề nhiều giáo viên còn băn khoăn, trăn trở. Từ thực tế giảng dạy tôi chọn đề tài "Phương pháp giảng dạy phần văn bản nhật dụng lớp 8" làm vấn đề để các đồng nghiệp nghiên cứu trao đổi. phần hai: giải quyết vấn đề I- Cơ sở lý luận: Nghị quyết số 02/NQ-HNTW khoá VIII của Đảng đã nêu bật yêu cầu: "Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học". Luật giáo dục của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng nêu rõ: "phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tạo tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý thức vươn lên". Những năm gần đây định hướng đổi mới phương pháp đã được thống nhất theo tư tưởng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên. Như thế một giáo án giờ văn bản kiểu mới không chỉ là bản đề cương nội dung chi tiết về cái hay, cái đẹp của áng văn thấy tâm đắc mà còn là bản thiết kế việc làm của học sinh. Để có sự đổi mới về phương pháp giảng dạy trước hết phải nói đến cấu trúc nội dung văn bản của sách giáo khoa. Qua các văn bản các em không chỉ cảm thụ nội dung nghệ thuật của những hình ảnh cao đẹp, của con người, cuộc sống mà còn giúp các em đến với những vấn đề vừa hiển nhiên vừa bức thiết trong thực tiễn đời sống. Kiểu văn bản nhật dụng lần đầu tiên được đưa vào chương trình Ngữ văn 6, 7, 8 đã thực hiện được sứ mệnh của nó trong con đường tiếp nhận tri thức của học sinh. Không chỉ khoán vấn đề giáo dục môi trường cho môn sinh học, giáo dục truyền thống cho môn lịch sử, giáo dục pháp luật cho môn giáo dục công dân ... môn Ngữ văn không thể đứng ngoài cuộc. II- Cơ sở thực tiễn. Trong chuẩn học môn tiếng Anh nghệ thuật của bang Niu Óc (Mỹ) công bố tháng 3 năm 1996, người ta có nêu một hồi ký viết về vụ thảm sát Mỹ Lai ở Việt Nam. ở Anh trong "Quy định mới" của chương trình quốc gia công bố năm 1995 có ghi rõ: "yêu cầu cho học sinh tiếp xúc với các kiểu văn bản gần gũi với thực tế cuộc sống. ở Pháp chương trình Ngữ văn chủ trương dạy văn bản thuộc thể loại báo chí, các loại văn bản trên các phương tiện thông tin đại chúng. ở Trung Quốc, trong văn thơ cổ, có mặt cả những bài nặng màu sắc khoa học tự nhiên của Thẩm Quát (đời Tống); trong văn thơ hi ện đại có mặt cả những bài đề cập đến phương pháp toán học của Hoa La Canh. Trong phần cuối của cuốn "Việt Nam văn học sử yếu" xuất bản trước năm 1945, giáo sư Dương Quảng Hàm cũng đã dựa vào trên mười văn bản giống như văn bản nhật dụng theo như quan niệm hiện nay. Nêu những dẫn chứng trên để thấy được việc đưa văn bản nhật dụng vào chương trình Ngữ văn quả là một việc làm cấp thiết và hợp lý không chỉ riêng đối với nền giáo dục nước ta mà còn đối với nền giáo dục của các nước trên thế giới. Trở lại với thực tế giảng dạy môn Ngữ văn, nhiều giáo viên chỉ khai thác các văn bản ở giá trị nội dung, nghệ thuật còn các giá trị về liên hệ thực tế cuộc sống thì hạn chế, hoặc bị bỏ qua. Một số còn vận dụng phương pháp giảng dạy mới một cách máy móc, hoặc chưa được thường xuyên, hoặc trở lại với thói quen dạy học cũ: thầy nói, trò nghe, ghi chép. Về phía học sinh: vẫn còn thói quen thụ động quen nghe chép ghi nhớ những gì giáo viên nói chưa có thói quen chủ động tìm hiểu khám phá bài học. Đa số học sinh chưa chủ động v ận dụng kiến thức kỹ năng của văn học vào thực tế cuộc sống, ít biết liên hệ giữa thực tế cuộc sống với văn học. Từ đó dẫn đến việc học sinh ít nắm bắt, quan tâm hoặc thờ ơ với những vấn đề nóng hổi bức thiết của đời sống xã hội trong và ngoài nước. Từ thực tiễn trên có thể nói rằng việc tìm ra phương pháp tốt nhất để dạy phần văn bản nhật dụng lớp 8 nói riêng và kiểu văn bản khác nói chung là một việc làm cần thiết trong xu thế phát triển ở môn Ngữ văn và trong nền giáo dục Việt Nam. III- Phương pháp nghiên cứu đề tài. 1. Thống kê, phân loại. Với phương pháp này tôi chia phần văn bản Ngữ văn lớp 8 thành kiểu bài tự sự, biểu cảm nghị luận, nhật dụng từ đó có cái nhìn toàn diện về kiến thức phần văn lớp 8 và xác định được vị trí nhiệm vụ kiểu văn bản nhật dụng căn cứ vào đó nghiên cứu vấn đề cụ thể của đề tài. 2. Miêu tả và phân tích. Dùng phương pháp này để chỉ rõ những phương pháp cơ bản, cấu trúc tiến hành dạy kiểu văn bản nhật dụng lớp 8. Trên cơ sở miêu tả nội dung của một bài văn bản nhật dụng lớp 8, đề xuất những nhiệm vụ, yêu cầu cùng với biện pháp thực hiện cho phù hợp. IV- Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài. Trong đề tài này, tôi dựa trên phương pháp dạy văn bản nói chung để nghiên cứu phương pháp dạy kiểu văn bản nhật dụng lớp 8. Minh hoạ cụ thể qua bài 10; tiết 39 "thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000". V- Nội dung đề tài. A. Cấu trúc chương trình Ngữ văn lớp 8. - Văn bản tự sự: 8 bài - Văn bản nhật dụng: 3 bài * Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000 * Ôn dịch, thuốc lá * Bài toán dân số - Văn bản biểu cảm: 11 bài - Văn bản nghị luận: 6 bài Nhìn chung hệ thống văn bản Ngữ văn lớp 8 rất phong phú, nhiều thể loại, nhiều bài với nội dung sâu sắc rất có ý nghĩa cho việc giảng dạy hiện nay. Từ sự kế thừa và phát triển nâng cao hơn so với hệ thống văn bản nhật dụng lớp 6, lớp 7 phần văn bản nhật dụng lớp 8 đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa rộng hơn, thiết thực hơn trong cuộc sống. Mặc dù chỉ có 3 tiết, không nhiều so với các kiểu văn bản biểu cảm, tự sự, nghị luận song nó lại có vị trí quan trọng thiết yếu trong việc giáo dục nhân cách cho học sinh. * Sách giáo khoa và sách giáo viên. - Sách giáo viên: Giáo viên dạy phải hiểu rằng, sách giáo viên không thể áp dụng máy móc cho bất kỳ đối tượng nào. Giáo viên sử dụng như một tài liệu tham khảo, hướng dẫn, cần cân nhắc, chọn lọc kiến thức cho phù hợp với học sinh của lớp mình dạy. B. Phương pháp dạy phần văn bản nhật dụng lớp 8. 1. Mục đích, yêu cầu, ý nghĩa của việc dạy và học văn bản nhật dụng. - Trước hết phải hiểu được thế nào là văn bản nhật dụng; Văn bản nhật dụng không phải là một khái niệm chỉ thể loại. Nói đến văn bản nhật dụng trước hết nói đến tính chất của nội dung văn bản. Đó là những bài viết có nội dung gần gũi bức thiết đối với đời sống trước mắt của con người và cộng đồng trong xã hội hiện đại như thiên nhiên, môi trường, dân số v.v... - Mục đích dạy văn bản này là tạo điều kiện tích cực để thực hiện nguyên tắc giúp học sinh hoà nhập với xã hội, quan tâm đến những vấn đề xã hội có ý nghĩa lâu dài, đưa học sinh trở lại với những vấn đề vừa quen thuộc, vừa gần gũi hàng ngày, gắn kết với đời sống thực tế (vấn đề môi trường, dân số, tệ nạn xã hội). Mỗi văn bản nhật dụng là một cánh cửa mở ra giúp các em có thêm hiểu biết về thế giới xung quanh, từ đó nâng cao làm phong phú thêm tâm hồn, tình cảm và nhận thức của các em. Ví dụ: ở văn bản "Thông tin Ngày Trái Đất năm 2000". Từ việc giúp các em nhận rõ tác hại của bao bì nilông giúp các em có hành động và ý thức bảo vệ môi trường, có suy nghĩ tích cực về các việc tương tự trong vấn đề xử lý rác thải sinh hoạt, một vấn đề vào loại khó giải quyết nhất trong nhiệm vụ bảo vệ môi trường. - ở văn bản "Ôn dịch, thuốc lá" từ việc giúp các em nhận thức được tác hại to lớn, nhiều mặt của thuốc lá đối với đời sống cá nhân, cộng đồng đến việc tạo ra cho các em có ý thức quyết tâm phòng chống thuốc lá ở mọi nơi, mọi lúc. 2. Mục giới thiệu bài. Khi dạy bài "Ôn dịch, thuốc lá" giáo viên có thể trích dẫn câu "Thuốc lá còn đe doạ tính mạng, sức khoẻ con người còn mạnh hơn cả AIDS" vậy vì sao lại có thông tin đó chúng ta sẽ đi tìm hiểu tác hại của việc hút thuốc lá trong văn bản "Ôn dịch, thuốc lá". 3. Mục đọc hiểu văn bản. Trong dạy và học văn, đọc là một khâu rất quan trọng trong hoạt động tiếp nhận văn bản, bao gồm nhiều cách đọc khác nhau: đọc đúng, đọc thần, đọc thành tiếng, cơ bản là đọc diễn cảm. Trong chương trình Ngữ văn mới đọc là một trong bốn kỹ năng mà học sinh phải tương đối thành thạo, cần hướng dẫn cho học sinh đọc có vận dụng của tư duy, tình cảm, góp phần tái hiện nội dung văn bản. Điều cốt tử với mọi giờ học văn là từ đọc văn bản giúp học sinh hiểu - cảm thụ đúng văn bản thấm thía mối liên hệ khăng khít giữa văn bản với cuộc sống. Từ khâu đọc cũng có thể hình thành cho học sinh các kỹ năng phân tích, bình giá, cảm thụ và nghe tốt, nói tốt, viết tốt. Với văn bản nhật dụng khi đọc không cần nhiều ngữ điều như các văn bản tự sự, biểu cảm, yêu cầu đọc rõ ràng mạch lạc chính xác chú ý đến các thuật ngữ chuyên môn cần phát âm chuẩn xác. Nhấn mạnh, dừng lại lâu hơn ở những cấu tạo hình thức đặc biệt ví dụ như là dòng chữ in đậm trong "Thông tin Ngày Trái Đất năm 2000": Một ngày không sử dụng bao bì nilông hay ở bài "Ôn dịch, thuốc lá" "nếu giặc đánh như vũ bão thì không đáng sợ, đáng sợ là giặc gặm nhấm như tằm ăn dâu" những câu cảm có dấu chấm than cần đọc với giọng phù hợp. Có thể nêu các câu hỏi đểư học sinh tự tìm ra yêu cầu của mỗi văn bản. Ví dụ: Theo em văn bản "Thông tin Ngày Trái Đất năm 2000" chúng ta cần phải đọc với giọng như thế nào ? Hãy nêu yêu cầu đọc của văn bản "Ôn dịch, thuốc lá" ? ở phần chú thích, bên cạnh việc giải nghĩa, ở đây còn có những thông tin khác về lịch sử, xã hội, chính trị ... cần lưu ý học sinh đọc kỹ cả những phần chú thích đó mới hiểu một cách đầy đủ sâu sắc, ý nghĩa của văn bản. Ngoài các từ trong phần chú thích sách giáo khoa giáo viên cần giảng thêm các từ ngữ khó khác. - Ví dụ trong văn bản "Bài toán dân số": giải thích "chàng Ađam và nàng Eva" theo kinh thánh của đạo Thiên chúa, đó là cặp vợ chồng đầu tiên trên trái đất được chúa tạo ra và sai xuống trần gian để hình thành và phát triển loài người. - Tồn tại hay không tồn tại: là câu nói nổi tiếng của nhà văn HămLet trong vở kịch "HămLet" của U.Sêcxpia (Anh). Trong bài "Ôn dịch, thuốc lá" giải thích: - Vi trùng: vi khuẩn gây bệnh - Ký sinh trùng: động vật bậc thấp sống bám vào, nhờ vào một sinh vật chủ nào đó. 4. Mục phân tích. Theo tôi ở phần này cần chú ý những điểm chính sau: a- Đảm bảo nguyên tắc tích hợp. Ngay từ khâu viết sách các nhà biên soạn đã có sự tích hợp, đó là việc thiết kế bài và hệ thống tiết dạy theo hướng đồng quy. ở lớp 6 nội dung chính của các văn bản nhật dụng viết về các di tích lịch sử, các danh lam thắng cảnh và thiên nhiên môi trường. ở lớp 7 nội dung chính là những vấn đề về quyền trẻ em, nhà trường, phụ nữ, văn hoá, giáo dục. ở lớp 8 tập trung vào các nội dung cơ bản như vấn đề dân số, môi truờng tệ nạn xã hội. Nguyên tắc tích hợp thể hiện cụ thể ở nội dung từng bài. Ví dụ: ở văn bản "Thông tin Ngày Trái Đất năm 2000" thực chất là một văn bản thuyết minh về một vấn đề khoa học hiểu được nó một cách cặn kẽ lại không phải đơn giản muốn dạy đạt kết quả cần tích hợp với những kiến thức đang và sẽ học về văn bản thuyết minh ở phần tập làm văn, tích hợp với một số kiến thức khoa học tự nhiên đang và sẽ học như: hoá học, sinh học, địa lý, giáo dục công dân. Ví dụ: nhận xét về cách trình bày bố cục của văn bản ? (Bố cục theo 3 phần: nêu vấn đề, phân tích trình bày cho vấn đề sáng tỏ, kêu gọi mọi người hành động theo vấn đề đã nêu ị cách trình bày rõ ràng chặt chẽ hợp lý, logíc khoa học: tích hợp với bố cục đặc điểm của kiểu văn bản thuyết minh. - Em hiểu gì về đặc điểm tính chất của plastic ? (là chất dẻo nhựa, vật liệu gồm phân tử pôlime, không tự phân huỷ được). - Các chất NH2, CH4 (mêtan), H2S (sunphurơ) là những chất như thế nào? Trong văn bản "Ôn dịch, thuốc lá", "Dân số thế giới", tích hợp với môn lịch sử, địa lý, giáo dục công dân, phương pháp cách làm của văn bản thuyết minh nghị luận, tích hợp với phân môn tiếng Việt ở các yếu tố nghệ thuật. Ví dụ: - Khi nêu tác hại của thuốc lá đối với con người tác giả sử dụng những phương pháp thuyết minh nào ? (liệt kê, phân tích, giải thích). - Ngoài ra còn sử dụng phương thức biểu đạt nào khác ? (biểu đạt trực tiếp, gián tiếp). - Tác dụng của các phương thức biểu đạt đó ? - Trong văn bản "Bài toán dân số" có mấy luận điểm chính ? - Vấn đề nghị luận được đặt ra trong văn bản này là gì ? - Em rút ra kinh nghiệm gì về cách viết văn thuyết minh sau khi học văn bản này ? Dù có đề cập vấn đề thời sự bức thiết đến đâu, văn bản nhật dụng đưa vào sách giáo khoa phải đạt đến giá trị nghệ thuật nhất định. Bởi vậy, hoàn toàn có thể dạy văn bản ấy như một văn bản văn học (xét về phương diện phân tích từ ngữ, thủ pháp nghệ thuật). Một văn bản nhật dụng có thể sử dụng nhiều phương thức biểu đạt khác nhau. Giáo viên có thể căn cứ vào các nội dung đang học, đã học và sẽ học ở hai phần Tiếng Việt, Tập làm văn để xác định trọng điểm phân tích về mặt giá trị nghệ thuật cho phù hợp. Ví dụ: Trong văn bản "Thông tin Ngày Trái Đất năm 2000". - Để trình bày tác hại của việc sử dụng bao bì nilông tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật nào ? (liệt kê) - Dùng biện pháp liệt kê đó có tác dụng gì ? (nêu được tác hại về mọi mặt của việc sử dụng bao bì nilông). - Nhận xét về cách sử dụng từ ngữ của văn bản trên ? (ngắn gọn, rõ ràng, khoa học, chính xác, dễ nhớ dễ hiểu) ị Đặc điểm từ ngữ của kiểu văn bản thuyết minh. - Các trình bày câu, trừ ở đoạn cuối của văn bản có gì đặc biệt ? (chữ in to, sử dụng câu cầu khiến, điệp ngữ). - Có tác dụng gì ? (nhằm khuyên bảo, yêu cầu đề nghị mọi người hạn chế sử dụng bao bì nilông giữ gìn sự trong sạch của môi trường trái đất). Trong văn bản "Ôn dịch, thuốc lá". - Cách trình bày ở tiêu đề văn bản có gì đặc biệt ? (Dấu phẩy được dùng theo lối tu từ để nhấn mạnh sắc thái biểu cảm - thái độ của tác giả: rất căm ghét thuốc lá, gây được sự chú ý với người đọc thấy được nghiện thuốc lá là một bệnh nguy hiểm). - Nhận xét về cách trình bày và nghệ thuật của câu: "Ôn dịch, thuốc lá đe doạ tính mạng, sức khoẻ con người còn mạnh hơn cả AIDS ?" (dòng chữ in nghiêng, biện pháp nghệ thuật so sánh). - Tác dụng của biện pháp nghệ thuật này ? (nhấn mạnh hiểm hoạ to lớn của việc hút thuốc lá). b- Sử dụng câu hỏi phát huy tính tích cực của học sinh. Muốn phát triển trí sáng tạo của học sinh phải chú ý đặc biệt đến phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh. Tốt nhất là tổ chức những tình huống có vấn đề, đòi hỏi dự đoán, nêu giả thiết, tranh luận giữa những ý kiến trái ngược nhau, đưa học sinh vào tình huống tự bộc lộ. Ví dụ trong văn bản "Ôn dịch, thuốc lá" có thể sử dụng một số câu hỏi như: - Trước thông tin: "Ôn dịch, thuốc lá còn nặng hơn cả AIDS" em có thái độ như thế nào ? (Ngạc nhiên, bất ngờ hay không ngạc nhiên? ) - Trong số những thông tin về chiến dịch chống thuốc lá, em chú ý nhất thông tin nào ? Vì sao ? (Học sinh tự bộc lộ theo nhận thức của từng cá nhân). - Em dự định sẽ làm gì trong chiến dịch chống thuốc lá rộng khắp hiện nay? Để phát huy tính tích cực của học sinh theo tôi giáo viên nên sử dụng cả những câu trắc nghiệm trong giờ học. Ngoài những câu hỏi quen thuộc như phát hiện, gợi tìm, suy luận ... việc đưa những câu hỏi trắc nghiệm trong khi giảng dạy là cần thiết (không nhất thiết cứ phải giờ kiểm tra, đánh giá mới sử dụng). Câu hỏi trắc nghiệm được xây dựng theo các dạng câu hỏi lựa chọn đúng sai, câu hỏi nhiều lựa chọn (thường là 4 lựa chọn) câu hỏi điền khuyết, câu hỏi đối chiếu, cặp đôi ... Những câu hỏi này sẽ góp phần rèn luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, năng lực đọc hiểu văn bản, nắm vững và sử dụng các kiến thức kỹ năng từ ngữ ngữ pháp cho học sinh; hạn chế được thói quen học tư học lệch của học sinh, học sinh phải bỏ nhiều thời gian đọc và suy nghĩ trước khi trả lời. Ví dụ: ở bài "Bài toán dân số" - Theo em nguyên nhân chính của sự gia tăng dân số là gì ? A. Do khả năng sinh con trong thực tế của người phụ nữ rất lớn B. Do kinh tế thấp kém C. Do không có biện pháp kế hoạch hoá gia đình D. Do con người, nhất là phụ nữ chưa được hưởng quyền lợi giáo dục. - Theo em trong thực tế đâu là con đường tốt nhất để hạn chế sự gia tăng dân số ? A. Đẩy mạnh sự phát triển kinh tế của quốc gia châu lục B. Đẩy mạnh sự phát triển giáo dục đối với phụ nữ C. Tạo nên sự ổn định về chính trị của quốc gia, châu lục ... D. Đẩy mạnh sự phát triển văn hoá, xã hội của quốc gia châu lục ... Tóm lại: có rất nhiều phương pháp giảng dạy để phát huy tính tích cực của học sinh, song giờ dạy chỉ dừng lại ở những câu hỏi gợi tìm, suy luận, khái quát đánh giá thì chưa đủ. Để có không khí học tập sôi nổi, huy động được nhiều học sinh tham gia theo tôi giáo viên cần đặc biệt chú ý đến cách đưa học sinh vào những tình huống có vấn đề để học sinh tự bộc lộc. Ví dụ: Em dự định sẽ làm gì để "Thông tin Ngày Trái Đất năm 2000" đi vào đời sống biến thành hành động cụ thể ?. - Chỉ sử dụng bao bì nilông khi thật cần thiết - Đề nghị mọi người trong gia đình hãy hạn chế sử dụng bao bì nilông - Gom nhặt bao bì nilông vào nơi quy định - Vẽ những bức tranh thể hiện tác hại của việc sử dụng bao bì nlông Đứng trước thực trạng môi trường đang bị huỷ hoại dần em có suy nghĩ như thế nào ? ở văn bản "Bài toán dân số" có thể liên hệ: Em có hiểu biết gì về sự gia tăng dân số ở địa phương em ? Nó có tác động gì tới đời sống kinh tế xã hội ? (Vẫn còn nhiều gia đình sinh con thứ ba, có gia đình sinh con thứ năm đời sống vật chất khó khăn, nhiều người trong họ trong khu đân cư phải trợ giúp, đến nhà trường phải miễn giảm học phí, không có điều kiện cho con ăn ngon mặc đẹp, nuôi dạy chúng trưởng thành cũng rất khó khăn). Theo em tại sao ở địa phương em vẫn có người sinh con thứ ba ? (Vì muốn có con trai có nhiều con cháu mới có nhiều phúc, tư tưởng thích đông con nhiều cháu ...) - Giả sử gia đình em bố mẹ chỉ sinh được 2 con gái, bây giờ có ý định sinh con thứ ba em sẽ làm gì để khuyên bố mẹ đừng sinh đẻ nữa ? Ví dụ: Trong văn bản "Ôn dịch, thuốc lá". - Em sẽ làm gì nếu trong gia đình em có người nghiện hút thuốc lá ? (Dẫn chứng những tác hại của thuốc lá mà em biết sau khi học xong văn bản, khuyên người đó bỏ thuốc bằng nhiều cách, có thể hút ít dần rồi bỏ hẳn, dùng kẹo cai nghiện ...) - Giải thích tại sao trên bao bì thuốc lá lại ghi: "Hút thuốc lá có hại cho sức khoẻ"? Có rất nhiều cách đưa ra những câu hỏi giúp học sinh liên hệ với thực tế cuộc sống, có thể đưa ra những tình huống giả định hoặc những câu hỏi chứa đựng những thông tin nhận thức về thực tế cuộc sống của các em. Có liên hệ với thực tế có đưa học sinh trở về với những vấn đề bức thiết của cuộc sống, khẳng định vai trò vị trí của các em trong hiện tại, tương lai mới thể hiện được giá trị của văn bản nhật dụng. c. Sử dụng tr

Phương Pháp Dạy Tích Hợp Chùm Văn Bản Nghị Luận Thời Trung Đại Ở Chương Trình Ngữ Văn Lớp 11

Dạy học tích hợp và khai thác văn bản dựa vào đặc trưng thể loại là phương pháp, đồng thời là nguyên tắc của bộ môn Ngữ văn ở chương trình phổ thông. Trong quá trình thực hiện, chúng tôi thấy tính ưu việt của phương pháp này hơn hẳn những phương pháp trước đây được vận dụng. Tính ưu việt của phương pháp thể hiện rõ qua thái độ, niềm say mê, kết quả tiếp nhận của học sinh trong từng bài học. Người học không chỉ được chiếm lĩnh kiến thức, có kĩ năng đọc-hiểu các kiểu văn bản thuộc các thể loại văn học các em thường đọc từ sách báo hàng ngày mà còn có khả năng tạo lập văn bản.     Văn chính luận là một thể loại có vị trí quan trọng trong đời sống nhân loại. Đã có rất nhiều áng văn trở thành mẫu mực, bất hủ của từng dân tộc và trên toàn thế giới. Là thể loại gắn trực tiếp với đời sống của từng quốc gia trong những thời điểm đặc biệt.     Chương trình phân ban thấy được tính nhật dụng của thể loại nên đã đưa vào dạy học ở nhà trường phổ thông nhiều văn bản đặc sắc với nhiều thể như: Cáo, chiếu, điều trần, hịch, tựa, tiểu luận, tuyên ngôn, lời kêu gọi.Những tác phẩm dù khác nhau về thời điểm ra đời, khác nhau về loại hình văn hoá nhưng chúng đều có sức hấp dẫn đặc biệt bởi tính trí tuệ uyên bác và tình cảm sâu sắc của người chấp bút.     Văn chính luận trung đại ra đời trong bối cảnh văn hoá, xã hội phong kiến nên chịu sự chi phối bởi hệ tư tưởng chính thống cũng như quan niệm văn chương của thời đại. Trong quá trình dạy học người giáo viên một mặt phải tôn trọng tính chỉnh thể của văn bản, bám sát văn bản để hướng dẫn học sinh đọc-hiểu, mặt khác để hiểu thấu đáo các luận điểm và cách thức lập luận của tác giả trung đại, giáo viên phải trau dồi tri thức văn hoá đọc cho bản thân và hướng dẫn học sinh cách đọc tác phẩm của tiền nhân đúng với thi pháp của một thời đại, phù hợp với ngữ cảnh đã sản sinh văn bản. Do đó, phương pháp dạy tích hợp trở thành nguyên tắc bắt buộc. Khi người học có được kĩ năng đọc-hiểu thể loại thì việc hướng dẫn, tổ chức học sinh tự chiếm lĩnh tri thức trở nên dễ dàng. Người thầy lúc này trở thành nhà thiết kế, người kiến trúc sư của giờ học văn.     Văn chính lận trung đại bên cạnh những đặc trưng có tính phổ quát của thể loại như tính lập luận chặt chẽ, dẫn chứng xác thực, sự uyên bác của người viết, giọng điệu hùng hồn; kết hợp hài hòa vẻ đẹp trí tuệ và vẻ đẹp tình cảm, cảm xúc; văn chính luận trung đại còn mang tính chất văn-sử-triết bất phân. Tính chất nguyên hợp này làm nên giá trị độc đáo của thể loại. Do đó, trong quá trình hướng dẫn học sinh đọc-hiểu, giáo viên phải nắm vững hệ thống tri thức thể loại và phương pháp tích hợp cũng như tri thức văn hóa học để người dạy thực sự làm chủ đối tượng.     Chùm bài văn nghị luận trung đại ở chương trình 11 gồm  văn bản Chiếu cầu hiền và trích đoạn Xin lập khoa luật học vào phần cuối của chương trình văn học trung đại. Từ tính chất đặc thù của thể loại và cấu trúc của chương trình mang tính chất tổng kết nên giáo viên phải ý thức được nhiệm vụ kép của phương pháp tích hợp trong chùm bài học này.          Văn bản Chiếu cầu hiền và trích đoạn Xin lập khoa luật dạy trong các tiết:T25-26-27 theo chương trình cơ bản và T29-30 ở chương trình nâng cao. Trước khi đi vào đọc-hiểu trực tiếp văn bản giáo viên cần xây dựng hệ thống câu hỏi chuẩn bị bài ở nhà của học sinh gồm những nội dung sau:      Nội dung tìm hiểu thứ nhất:      Em hiểu như thế nào về tính chất văn-sử-triết bất phân trong văn chương trung đại? Tính chất đó được biểu hiện như thế nào trong hai văn bản Chiếu cầu hiền và         Xin lập khoa luật?      Nội dung thứ hai:     Phương pháp tích hợp trong giờ dạy văn bản nghị luận trung đại là hướng khai thác những thông tin ngoài văn bản, liên văn bản như tiểu sử tác giả, ngữ cảnh sản sinh văn bản, so sánh các văn bản cùng thể loại, cùng đề tài để soi chiếu vào nội dung tác phẩm, góp phần giải mã các lớp ý nghĩa tiềm ẩn trong văn bản.     Nếu người tiếp nhận không hiểu ngữ cảnh sẽ không cắt nghĩa được mạch ngầm văn bản, đặc biệt là loại văn bản có sự gián cách về thời gian và môi trường văn hóa tiếp nhận với tính chất giáo huấn, ngôn chí, ngụ bao biếm hết sức sâu sắc của loại hình văn hóa trung đại. Soi chiếu vấn đề từ ngoài văn bản kết hợp với góc nhìn bên trong văn bản sẽ mang lại một hiệu ứng tổng hợp, toàn diện đối với thông điệp tác giả muốn hướng tới người tiếp nhận. Do đó, giáo viên hướng dẫn học sinh tiếp cận vấn đề trong tính liên thông sẽ tạo được một phản xạ tâm lí tích cực đến người học, các em sẽ có lối tư duy ánh chiếu vấn đề đặt ra trong tác phẩm với hơi thở, nhịp sống đương đại. Học sinh sẽ tự tìm thấy ý nghĩa hiện đại, muôn thủa của những vấn về mà nhà văn hướng tới. Cụ thể ở đây là vai trò của người hiền đối với vận mệnh dân tộc cũng như những tố chất cần có ở những người lãnh đạo quốc gia qua văn bản Chiếu cầu hiền, và yêu cầu canh tân đất nước, đổi mới tư duy, tiếp nhận văn hóa nước ngoài đối với vận hội đất nước của trích đoạn Xin lập khoa luật hướng tới. Khi thực hiện tốt phương pháp tích hợp, học sinh sẽ có hứng thú học tập và tác phẩm không bị đóng băng trong lớp sương nghệ thuật trung đại. Từ đây tính thời sự của vấn đề được học sinh tự đánh thức, tránh được lối dạy áp đặt một chiều từ phía người thầy. Tiến xa hơn nhận thức là học sinh sẽ có kĩ năng đọc đúng thể loại và phương pháp tạo lập, sản sinh văn bản khi có yêu cầu. Đây là một kết quả kép nếu giáo viên biết vận dụng linh hoạt.     Ở phần trên khi đặt vấn đề, chúng tôi có nêu tính chất kép của phương pháp dạy tích hợp đối với chùm bài nghị luận trung đại ở chương trình Ngữ văn 11. Cơ sở lí luận để chúng tôi nêu vấn đề là dựa vào kết cấu, vị trí của chùm bài trong bố cục chương trình. Văn bản Chiếu cầu hiền và trích đoạn Xin lập khoa luật được học trong các tiết liên tiếp và nằm ở phần cuối văn học trung đại, do đó sau hai bài học này giáo viên cần giúp học sinh khái quát lại vẻ đẹp của văn chính luận thời trung đại.       Vận dụng phương pháp tích hợp vào từng bài học cụ thể, chúng ta sẽ có được những kết quả như sau:     Đối với bài Chiếu cầu hiền, sau khi  dẫn dắt vấn đề và ghi tên văn bản lên bảng, giáo viên gọi một học sinh đọc tiểu dẫn. Khi cả lớp đã nghe đọc phần tiểu dẫn, giáo viên ghi mục này lên bảng và nêu câu hỏi: Phần tiểu dẫn cung cấp những nội dung thông tin nào về tác giả Ngô Thì Nhậm? Những nội dung đó có ý nghĩa như thế nào giúp em tìm hiểu văn bản?     Qua sự chuẩn bị ở nhà, kết hợp với phần tiểu dẫn học sinh sẽ dễ dàng có được những kiến giải ban đầu: Ngô Thì Nhậm xuất thân trong một gia đình có nhiều người đậu đạt và làm quan to ở triều Lê-Trịnh. Dòng họ Ngô ở Tả Thanh Oai là một dòng họ lớn có 15 nhà văn, nhà thơ nổi tiếng đương thời. Bản thân ông là một cựu thần của nhà Lê nhưng nay đã ra cộng tác đắc lực với triều Tây Sơn. Trong khi một số trí thức Bắc Hà quay lưng hoặc chống lại tân triều, thậm chí người nhà của ông cũng bất hợp tác với Quang Trung chỉ vì cố chấp với tư tưởng trung quân lỗi thời thì việc Ngô Thì Nhậm bước qua lời nguyền lịch sử-lời nguyền “trung thần bất sự nhị quân” của Nho giáo-đã thể hiện một tầm nhìn quảng đại, một thái độ mềm dẻo, linh hoạt trong ứng xử của nhà văn. Từ một văn thần của cựu triều nhưng nay được hoàng đế Quang Trung hết mực tin dùng, giao  trọng trách lớn, điều đó có sức thuyết phục rất lớn đối với những ai còn hoài nghi tấm lòng thành của đức hoàng đế Quang Trung. Những ai còn mang tư tưởng bảo thủ, cố chấp sẽ dễ tìm thấy được lối giải thoát cho tâm lí mặc cảm vốn sẵn có trong con người nhà nho. Lựa chọn Ngô Thì Nhậm chấp bút soạn tờ Chiếu cầu hiền Nguyễn Huệ quả có tầm nhìn xa trông rộng!     Phương pháp tích hợp sẽ được vận dụng thường xuyên trong quá trình hướng dẫn học sinh đọc-hiểu văn bản. Do đối tượng hướng tới của văn bản chủ yếu là giới trí thức Bắc Hà nên trong quá trình lập luận, trần tình, Ngô Thì Nhậm gặp phải không ít điều hết sức nhạy cảm. Lúc này ông phải trổ hết tài năng của một nhà chính luận trong cuộc hùng biện. Điều ông không một lúc nào được quên là ông đang nói bằng tư tưởng của hoàng đế Quang Trung – người đứng trên bục cao của chiến thắng, nhưng trong mắt không ít trí thức Bắc Hà lại là kẻ thù của cựu triều! Sự mếch lòng và tâm thế dò xét, đề phòng là tâm lí thường trực ở giới nhiều chữ này. Do đó, một mặt giọng văn vừa thể hiện quyền uy của một vị hoàng đế, mặt khác phải thật mềm mỏng, chân thành mới hầu mong mục đích cầu hiền mang lại kết quả như mong muốn.     Khi gợi lại những biến cố, sự kiện đã qua cũng như thực trạng, cách hành xử hiện thời của giới trí thức Bắc Hà, Ngô Thì Nhậm đã dùng cách nói uyển ngữ, cách nói hình ảnh với nhiều điển tích làm cho câu chuyện có tầm khái quát, tránh được những đụng chạm rất dễ xẩy ra, đồng thời lại nói được điều cần nói một cách tế nhị và rất hiệu quả trong việc thu phục nhân  tâm của một đối tượng vô cùng nhạy cảm. Đặc biệt, cách nói như thế mang đến một thông điệp  tới giới trí thức đương thời rằng vị vua áo vải cờ đào này đâu phải là tên võ biền chẳng hiểu gì thi thư lễ nghĩa như ai đó từng đã đánh giá và có thành kiến về ông! Gọi tên đúng những đối tượng bất hợp tác hoặc hợp tác một cách giữ kẽ, cầm chừng hoặc phí đời bằng cách tìm đến cái chết để thể hiện thứ đạo lí ngu trung bằng những hình ảnh như: “gõ mõ canh cửa”, “ra biển vào sông”, “chết đuối trên cạn” quả là một lối diễn đạt hết sức tinh tế. Giọng văn vừa có cảm thông vừa có khiến trách, vừa khuyên bảo vừa ngăn ngừa hết sức hợp lí.     Cùng với hệ thống tri thức ngoài văn bản như: bối cảnh thời đại, vị thế của mỗi bên đối thoại và đặc điểm tâm lí cũng như lối giao tiếp có tính lễ nghi đặc biệt của thời đại đã chi phối cách viết của bài chiếu. Câu chuyện viết cho ai? Viết để làm gì đã chi phối một cách sâu sắc đến hai câu hỏi tiếp theo: Viết cái gì ? Viết như thế nào đã là rất rõ.    Ở trích đoạn Xin lập khoa luật của Nguyễn Trường Tộ, một lần nữa việc tìm hiểu bối cảnh lịch sử-xã hội và đối tượng chấp bút cũng như đối tượng hướng tới của bản điều trần là hết sức quan trọng.     Về cuộc đời của tác giả, giáo viên phải gợi mở và giúp học sinh phân tích được những lớp thông tin sau những chỉ dẫn hết sức cơ bản của sách giáo khoa như: Là người uyên thâm Hán học nhưng không lựa chọn con đường công danh chốn triều đường mà lui về dạy học. Là người theo đạo Thiên chúa trong bối cảnh triều đình phong kiến không mặn mà với các tôn giáo khác với đạo Nho, theo em những điều trên có ảnh hưởng như thế nào đối với tư tưởng tác giả và tâm thế của Nguyễn Trường Tộ khi viết bản điều trần?     Dựa vào ngữ cảnh văn hóa-lịch sử và tiểu sử của tác giả, học sinh sẽ thấy được sự lựa chọn của riêng nhà văn trong việc lập thân và lựa chọn tín ngưỡng sẽ đem đến những thuận lợi cho tác giả như sau:     Không lựa chọn con đường làm quan để tồn tại, Nguyễn Trường Tộ có lợi thế là ông không bị những ràng buộc khắt khe của nhãn quan mang tính giai cấp chi phối, những câu thúc có tính thực dụng của đời sống vật chất, bổng lộc của chốn quan trường. Đối với thế chế đương thời, ông là người đứng ngoài nhìn vào nên dễ thấy được những bất cập của nó. Là người theo đạo Thiên chúa, tác giả có điều kiện tiếp thu tự do các luồng tư tưởng phương Tây. Là một trí thức Nho học uyên thâm nên độ khúc xạ văn hóa và quá trình tiếp biến văn hóa diễn ra ở nhà văn có tính chọn lọc và giá trị nhân văn sâu sắc.     Nhưng, là người từ bỏ con đường truyền thống của trí thức nho sĩ để đi vào một hướng riêng khác với số đông đương thời, Nguyễn Trường Tộ dễ thường vấp phải cái nhìn dị nghị, dò xét của các bậc thức giả cùng thời, đặc biệt là đấng thiên tử! Do đó, tâm thế để soạn thảo bản điều trần lần này của ông khác hẳn bậc đại nho Chu Văn An thời Trần dâng Thất trảm sở. Tuy tâm huyết, hoài bão của kẻ hậu sinh chưa hẳn đã thua kém gì bậc tiền bối, nếu không nói là tâm huyết và bản lĩnh của  Nguyễn Trường Tộ lần này có phần mãnh liệt hơn vì phận vị  của người dâng sở và bối cảnh lịch sử bây giờ có quá nhiều vấn đề hết sức nhạy cảm mà khi chấp bút tác giả chắc đã lường được không ít khó khăn và hiểm nguy.     Với bản lĩnh của một trí thức đất Việt, một nhãn quan tinh anh vượt tầm thời đại, Nguyễn Trường Tộ hiểu rất rõ lẽ được mất của cuộc “đối thoại” lần này. Làm chủ được hệ thống tri thức văn hóa Đông-Tây cùng với tinh thần đấu tranh hết sức mềm dẻo và bầu nhiệt huyết cao độ, tác giả đã thuyết phục người nghe bằng cả lí lẫn tình, trong đó có cả phần tâm linh của con người thời trung đại. Cho nên song song với quá trình phê phán những bất cập, lạc hậu của Nho giáo trước vận mệnh của dân tộc và nhu cầu canh tân đất nước, Nguyễn Trường Tộ đã khéo léo trích dẫn những lời nói của Khổng Tử để làm luận chứng cho mỗi luận điểm của mình. Đọc văn bản điều trần, người nghe luôn gặp gỡ một sự dung hòa kì diệu giữa lí và tình giữa Đông và Tây; cho dù trong thực tế giữa chúng có một sự cách biệt rất lớn. Nếu không phải là một nhà tư tưởng thì tác giả bản điều trần dễ rơi vào cửa tử của một sự xung đột Đông-Tây khó bề hóa giải. Dung hòa nhưng vẫn giữ được lập trường, chính kiến, dung hợp để tránh được tội khi quân nhưng vẫn giữ được bản lĩnh, tác giả quả rất cao cường khi chỉ ra sự khác biệt trong điều hành bằng đức trị của Nho giáo và điều hành nhà nước bằng pháp luật; đồng thời Nguyễn Trường Tộ cũng đã đi đến khẳng định sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật. Chỉ ra sự bất cập của thế chế đương thời nhưng nhà văn vẫn giữ được thể diện cho bậc thiên tử. Tài biện luận của Nguyễn Trường Tộ quả không thua bất kì một thuyết gia nào trong lịch sử Đông-Tây.     Khi phương pháp được vận dụng thành thục sẽ tạo được kĩ năng cho người dạy và người học. Từ đây, niềm hứng thú, say mê khám phá của học sinh được đánh thức. Từ việc giáo viên phải nêu yêu cầu học sinh thực hiện bài về nhà thì nay người học có được ý thức tự giác tìm hiểu vấn đề và chủ động đưa ý kiến của mình ra đối thoại trước lớp. Câu chuyện tự học, tự đào tạo đã không còn là lí luận xa vời nữa mà đã trở thành nhu cầu tự thân của các em. Khi thói quen trở thành ý thức tự giác của người học thì đến lượt mình, người thầy giáo không thể bằng lòng với những vốn kiến thức có sẵn mà luôn không ngừng cập nhật tri thức và đổi mới phương pháp mới đủ sức thuyết phục được người học và đặc trưng của bộ môn. Giữa thầy giáo và học sinh tự nhiên trở thành những người bạn thực sự trong mê lộ chiếm lĩnh tri thức và khám phá thế giới.

Phương Pháp Làm Bài Văn Nghị Luận 7

PHƯƠNG PHÁP GIÚP HỌC SINH LÀM TỐT VĂN NGHỊ LUẬN TRONG PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN 7

PHẦN A. MỞ ĐẦU

I. LÍ DO CHỌN SKKN: Trong quá trình lĩmh hội và truyền đạt tri thức thức chương trình Ngữ văn nói chung và bậc THCS nói riêng, phân môn tập làm văn đóng vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp tri thức cơ bản về các kiểu văn bản, hình thành các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết,… để hiểu khái quát về các loại văn bản và bố cục chung của nó. Bản thân hoạt động tập làm văn là một hoạt động tích hợp tri thức: văn bản, tiếng Việt vào việc tạo lập văn bản mới. Chương trình tập làm văn đặt trọng tâm ở thực hành: Xây dựng bài qua thực hành, thực hành nhận biết và thực hành qua văn bản. Do đó điểm mới và khó trong chương trình Ngữ văn là phương pháp dạy thực hành. Cụ thể và quan trọng nhất là rèn luyện kĩ năng viết một bài văn đúng, đủ, hay và có sức thuyết phục. Đối với chương trình ngữ văn 7, văn nghị luận là một thể văn mới hơn khó hơn so với chương trình cũ và với trình độ tiếp thu, khả năng nhận biết và diễn đạt của các em nằm ở lứa tuổi 13, 14 do đó còn nhiều hạn chế. Nếu những em có khả năng tư duy trừu tượng tốt, biết trình bày một quan điểm, thái độ đúng trước một vấn đề, có chủ kiến rõ ràng thì sẽ không thấy khó. Còn những em quen tư duy cụ thể, cảm tính, ít năng lực suy luận, ít có bản lĩnh, ít có chủ kiến đối với mọi việc thì sẽ cảm thấy khó. Thực trạng học sinh hiện nay, cho thấy kĩ năng viết còn hạn chế nhất là việc trình bày lại những suy nghĩ của mình trước một vấn đề nào đó. Để giúp các em tiếp thu đỡ khó khăn, tạo điều kiện cho các em có sự hứng thú trong học tập gặt hái được những kết quả nhất định để bước sang học chương trình ngữ văn lớp 8, 9 có thể tránh bớt phần bỡ ngỡ và có điều kiện nâng cao kiến thức trong quá trình học tập vì vậy bản thân tôi mạnh dạn chọn đề tài, SKKN: “PHƯƠNG PHÁP GIÚP HỌC SINH LÀM TỐT VĂN NGHỊ LUẬN TRONG PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN 7 “.

II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU. Do điều kiện và thời gian nên SKKN của tôi chỉ gói gọn ở đối tượng học sinh lớp7 cụ thể là lớp7E, G của trường THCS Lao Bảo Hướng Hoá – Quảng trị.III.PHẠM VI NGHIÊN CỨU Chương trình THCS ban hành năm 2002, phần nội dung chương trình quy định văn nghị luận chỉ được học từ tiết 74 ở lớp 7 .Chính vì thế trong sáng kiến kinh nghiệm này, tôi chỉ đề cập đến nội dung văn nghị luận trong SGK văn 7 tập II. Cụ thể là từ tháng 01 đến 05 tức là bắt đầu của học kì II.PHẦN B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.I. Cơ sở lí luận: Chúng ta phải nhận thức rằng văn nghị luận là một trong những kiểu văn bản rất quan trọng trong đời sống xã hội, có vai trò rèn luyện tư duy, năng lực biểu đạt, suy luận của các em giúp các em có những quan điểm đúng đắn, tư duy sâu sắc trước đời sống. Có thể khẳng định rằng kiểu văn nghị luận khó có thể hình thành tư duy tư tưởng mạch lạc, tư duy sáng tạo, ý nghĩa sâu sắc trong đời sống. Một em học sinh có năng lực nghị luận tốt thì sẽ có khả năng biểu đạt, phán đoán chính xác sự việc, sẽ tạo ra một điều kiện thuận lợi để thành đạt trong cuộc sống. Do đó muốn tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh làm văn nghị luận tốt, giáo viên phải giúp học sinh nắm vững khái niệm, có quan điểm rõ ràng khi nói đến một việc, đồng thời giúp các em biết tư duy lô-gích, sử dụng thành thạo các thao tác: phân tích, tổng hợp, qui nạp, diễn dịch, so sánh, suy lý… Cần phải giúp các em biết văn nghị luận phải có luận điểm, có lý lẽ, có dẫn chứng (từ thực tế văn, thơ) và có phương pháp lập luận chặt chẽ để nối kết các vấn đề, quan điểm nhỏ cùng một luận cứ để giải quyết vấn đề nào đó và đề ra lập luận lớn. II. Cơ sở thực tiễn: Trong quá trình giảng dạy bản thân tôi nhận thấy rằng giữa giảng dạy phương pháp truyền thống hay phương pháp mới một cách riêng biệt thì nó khó đem lại kết quả cao, bài giảng vì thế có phần cứng nhắc, vì vậy khi giảng dạy bản thân tôi phải kết hợp phương pháp truyền thống và phương pháp mới trong cùng một tiết dạy để tránh sự cứng nhắc. Vì thế

4 Văn Bản Nghị Luận Lớp 7

Nghị Quyết Kết Luận Của Hội Nghị Lần Thứ 4 Ban Chấp Hành Trung ương Khóa Xii, Nghị Quyết Kết Luận Hội Nghị Lần Thứ Tư Ban Chấp Hành Trung ương Đảng Khóa Xii, Nghị Quyết Kết Luận Hội Nghị Trung ương 4 Khóa Xii, Dàn ý Bài Văn Nghị Luận Đề Suy Nghĩ Từ Truyện Ngụ Ngôn Đẽo Cày Giữa Đường, Bai Tham Luan Cong Tac Phoi Hop Theo Nghi Dinh 03 Va Nghi Đinh 133 Cua Chinh Phủ, Bài Văn Mẫu Nghị Luận Xã Hội, Dàn Bài Văn Nghị Luận 8, Dàn Bài Văn Nghị Luận Lớp 8, Dàn ý Nghị Luận Về Tệ Nạn Xã Hội, Bài Văn Mẫu Nghị Luận Lớp 9, ôn Tập Văn Nghị Luận, Bài Văn Mẫu Nghị Luận Lớp 7, Bài Văn Mẫu Nghị Luận, Dàn Bài Văn Nghị Luận Văn Học, Dàn ý Nghị Luận Văn Học Lớp 9, Dàn ý Nghị Luận Văn Học Lớp 11, Dàn ý Nghị Luận Văn Học, Bài Văn Mẫu Nghị Luận Xã Hội Lớp 11, Bài Văn Mẫu Nghị Luận Xã Hội Lớp 12, Đề Bài Nghị Luận Xã Hội Lớp 11, Đề Bài Nghị Luận Xã Hội Lớp 12, Bài Văn Nghị Luận ước Mơ Của Em, Bài Văn Nghị Luận ước Mơ, Đề Bài Nghị Luận Xã Hội Lớp 9, Bài Văn Nghị Luận 9, Bài Văn Nghị Luận 8, Bài Văn Nghị Luận 7, Bài Văn Nghị Luận 12, Dàn Bài Văn Nghị Luận, Dàn ý Nghị Luận Xã Hội, Dàn ý Nghị Luận Về ước Mơ, Bài Nghị Luận Về ước Mơ, Bài Văn Mẫu Nghị Luận Xã Hội Lớp 9, Dàn ý Một Bài Văn Nghị Luận, Bài Văn Mẫu Lớp 9 Nghị Luận Xã Hội, Bài Tóm Tắt Văn Bản Nghị Luận, Dàn ý Bài Văn Nghị Luận Văn Học, Dàn ý Bài Văn Nghị Luận, Văn Mẫu Nghị Luận 7, Văn Nghị Luận Lớp 7 Chớ Nên Tự Phụ, Nghị Luận Văn 9, Nghị Luận Văn Học 8, Văn Mẫu Nghị Luận Lớp 7, Văn Mẫu Nghị Luận Văn Học 11, Văn Nghị Luận Lớp 7, Dàn ý Bài Nghị Luận Xã Hội, Nghị Luận Văn Học 9, Văn Mẫu Nghị Luận Xã Hội, Dàn ý Bài Nghị Luận Văn Học, Văn Mẫu Nghị Luận Xã Hội Lớp 12, Dàn ý Bài Văn Nghị Luận Xã Hội, Dàn ý Bài Văn Nghị Luận Xã Hội Lớp 11, ôn Tập Văn Nghị Luận Lớp 7, Tóm Tắt ôn Tập Văn Nghị Luận, Tóm Tắt Văn Bản Nghị Luận, Dàn Bài Văn Nghị Luận Xã Hội, Dàn ý Làm Bài Văn Nghị Luận, Dàn ý 1 Bài Văn Nghị Luận, Văn Bản Nghị Luận, Dàn ý 1 Bài Văn Nghị Luận Văn Học, Văn Bản Nghị Luận Về Vấn Đề Xả Rác, Dàn ý 1 Bài Văn Nghị Luận Xã Hội, 4 Văn Bản Nghị Luận Lớp 7, Văn Mẫu Nghị Luận 12, Nghị Luận Văn 8, Dàn ý Bài Văn Nghị Luận Xã Hội Lớp 9, Văn Mẫu Nghị Luận Xã Hội 12, Dàn Bài Bài Văn Nghị Luận Xã Hội, Nghi Luan Ve Van De Xa Rac Bua Bai, Bài ôn Tập Văn Nghị Luận, Các Đề Nghị Luận Xã Hội Thi Hsg Lớp 9, Dàn Bài Nghị Luận, Nghị Luận, Dàn Bài Nghị Luận Văn Học, Nghị Luận Bài 2 Đứa Trẻ, Văn Mẫu Nghị Luận Văn Học 12, 1 Số Văn Bản Nghị Luận, Bài Nghị Luận Số 1 Lớp 11, 2 Văn Bản Nghị Luận, Dàn Bài Nghị Luận Về Tệ Nạn Xã Hội, Các Đề Nghị Luận Xã Hội, Dàn Bài Một Bài Văn Nghị Luận, Dàn Bài Bài Văn Nghị Luận, Dàn Bài 1 Bài Văn Nghị Luận Xã Hội, Dàn Bài 1 Bài Văn Nghị Luận, Nghị Luận Xã Hội, Bài Tập Làm Văn Nghị Luận Xã Hội, Bài Tập Làm Văn Nghị Luận Số 7 Lớp 8, Bài Tập Làm Văn Nghị Luận Số 6 Lớp 8, Mẫu Bài Văn Nghị Luận Xã Hội, Bài Tập Làm Văn Nghị Luận Lớp 8, Bài Tập Làm Văn Nghị Luận Lớp 7, Các Bài Tập Làm Văn Nghị Luận Xã Hội, Văn Nghị Luận, Bài Mẫu Văn Nghị Luận Lớp 7, Bài Văn Mẫu Nghị Luận Văn Học, Văn Nghị Luận Lớp 7 Học Học Nữa Học Mãi, Dàn ý Văn Nghị Luận Xã Hội, Nghị Luận Văn 10, 2 Bài Văn Nghị Luận,

Nghị Quyết Kết Luận Của Hội Nghị Lần Thứ 4 Ban Chấp Hành Trung ương Khóa Xii, Nghị Quyết Kết Luận Hội Nghị Lần Thứ Tư Ban Chấp Hành Trung ương Đảng Khóa Xii, Nghị Quyết Kết Luận Hội Nghị Trung ương 4 Khóa Xii, Dàn ý Bài Văn Nghị Luận Đề Suy Nghĩ Từ Truyện Ngụ Ngôn Đẽo Cày Giữa Đường, Bai Tham Luan Cong Tac Phoi Hop Theo Nghi Dinh 03 Va Nghi Đinh 133 Cua Chinh Phủ, Bài Văn Mẫu Nghị Luận Xã Hội, Dàn Bài Văn Nghị Luận 8, Dàn Bài Văn Nghị Luận Lớp 8, Dàn ý Nghị Luận Về Tệ Nạn Xã Hội, Bài Văn Mẫu Nghị Luận Lớp 9, ôn Tập Văn Nghị Luận, Bài Văn Mẫu Nghị Luận Lớp 7, Bài Văn Mẫu Nghị Luận, Dàn Bài Văn Nghị Luận Văn Học, Dàn ý Nghị Luận Văn Học Lớp 9, Dàn ý Nghị Luận Văn Học Lớp 11, Dàn ý Nghị Luận Văn Học, Bài Văn Mẫu Nghị Luận Xã Hội Lớp 11, Bài Văn Mẫu Nghị Luận Xã Hội Lớp 12, Đề Bài Nghị Luận Xã Hội Lớp 11, Đề Bài Nghị Luận Xã Hội Lớp 12, Bài Văn Nghị Luận ước Mơ Của Em, Bài Văn Nghị Luận ước Mơ, Đề Bài Nghị Luận Xã Hội Lớp 9, Bài Văn Nghị Luận 9, Bài Văn Nghị Luận 8, Bài Văn Nghị Luận 7, Bài Văn Nghị Luận 12, Dàn Bài Văn Nghị Luận, Dàn ý Nghị Luận Xã Hội, Dàn ý Nghị Luận Về ước Mơ, Bài Nghị Luận Về ước Mơ, Bài Văn Mẫu Nghị Luận Xã Hội Lớp 9, Dàn ý Một Bài Văn Nghị Luận, Bài Văn Mẫu Lớp 9 Nghị Luận Xã Hội, Bài Tóm Tắt Văn Bản Nghị Luận, Dàn ý Bài Văn Nghị Luận Văn Học, Dàn ý Bài Văn Nghị Luận, Văn Mẫu Nghị Luận 7, Văn Nghị Luận Lớp 7 Chớ Nên Tự Phụ, Nghị Luận Văn 9, Nghị Luận Văn Học 8, Văn Mẫu Nghị Luận Lớp 7, Văn Mẫu Nghị Luận Văn Học 11, Văn Nghị Luận Lớp 7, Dàn ý Bài Nghị Luận Xã Hội, Nghị Luận Văn Học 9, Văn Mẫu Nghị Luận Xã Hội, Dàn ý Bài Nghị Luận Văn Học, Văn Mẫu Nghị Luận Xã Hội Lớp 12,

Skkn Một Số Biện Pháp Dạy Học Cụm Văn Bản Nghị Luận Hiện Đại Lớp 7 Theo Hướng Tích Cực

Môn ngữ văn là môn kết tinh nhiều giá trị văn hóa dân tộc và nhân loại. Với dân tộc Việt, Văn chương gắn bó thân thiết nhất. Từ thuở còn nằm trong nôi, đứa trẻ được nâng niu, bồi đưỡng đời sống tâm hồn từ văn chương qua lời hát ru ngọt ngào âu yếm của bà, của mẹ. Lớn lên khi cắp sách đến trường, thầy giáo là những người tiếp tục bồi đắp đời sống ấy cho các em qua các tác phẩm văn chương. Và theo quy định hiện nay của bộ Giáo dục, người trẻ tuổi muốn thi vào các trường đại học chuyên khoa nào thì bài thi bắt buộc vẫn là bài thi văn qua hình thức thi tự luận.

Vì vậy, người thầy giáo được xem là người lái đò. Làm người lái đò phải biết rõ dòng sông, cần phải biết lúc nào nước lên nước xuống, cần phải biết khúc sông nào nông, khúc sông nào sâu, để điều khiển con đò cập bến. Người thầy giáo dạy văn đặc biệt là phần văn bản nghị luận ở bậc THCS (trong đó có lớp 7) cũng vậy. Bản thân người thầy cũng thấy rõ rằng: dạy phần văn bản nghị luận hiện đại là khó nhưng khó hơn là làm sao để học sinh cảm nhận và lĩnh hội được những tinh hoa từ các tác phẩm ấy. Có thể nói đây là những trăn trở của một giáo viên dạy văn khi đứng trên bục giảng dạy các tác phẩm văn nghị luận với đối tượng là học sinh lớp 7.

STT Nội dung Trang 1 Phần mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài 1.2. Mục đích nghiên cứu 1.3. Đối tượng nghiên cứu 1.4. Phương pháp nghiên cứu 1 2 2 2 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm a. Văn nghị luận hiện đại b. Dạy học tích cực 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. a. Đối với giáo viên b. Đối với học sinh c. Kết quả thực trạng 2.3. Các giải pháp a. Các giải pháp b. Các biện pháp tổ chức thực hiện 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với các hoạt động giáo dục. a. Với bản thân giáo viên b. Với học sinh c. Với đồng nghiệp và nhà trường 3 3 3- 4 4- 5 4 4-5 5 5- 16 5 5- 16 16- 17 16 17 17 3 Kết luận, kiến nghị 3.1. Kết luận 3.2. Kiến nghị a. Đối với chương trình sách giáo khoa b. Đối với các cấp quản lí c. Đối với học sinh d. Đối với giáo viên 18 18- 19 18 18 18 19 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài: Môn ngữ văn là môn kết tinh nhiều giá trị văn hóa dân tộc và nhân loại. Với dân tộc Việt, Văn chương gắn bó thân thiết nhất. Từ thuở còn nằm trong nôi, đứa trẻ được nâng niu, bồi đưỡng đời sống tâm hồn từ văn chương qua lời hát ru ngọt ngào âu yếm của bà, của mẹ. Lớn lên khi cắp sách đến trường, thầy giáo là những người tiếp tục bồi đắp đời sống ấy cho các em qua các tác phẩm văn chương. Và theo quy định hiện nay của bộ Giáo dục, người trẻ tuổi muốn thi vào các trường đại học chuyên khoa nào thì bài thi bắt buộc vẫn là bài thi văn qua hình thức thi tự luận. Vì vậy, người thầy giáo được xem là người lái đò. Làm người lái đò phải biết rõ dòng sông, cần phải biết lúc nào nước lên nước xuống, cần phải biết khúc sông nào nông, khúc sông nào sâu,để điều khiển con đò cập bến. Người thầy giáo dạy văn đặc biệt là phần văn bản nghị luận ở bậc THCS (trong đó có lớp 7) cũng vậy. Bản thân người thầy cũng thấy rõ rằng: dạy phần văn bản nghị luận hiện đại là khó nhưng khó hơn là làm sao để học sinh cảm nhận và lĩnh hội được những tinh hoa từ các tác phẩm ấy. Có thể nói đây là những trăn trở của một giáo viên dạy văn khi đứng trên bục giảng dạy các tác phẩm văn nghị luận với đối tượng là học sinh lớp 7. Văn bản nghị luận là một trong những kiểu văn bản quan trọng và phổ biến trong đời sống. Khi cần trình bày một cách trực tiếp, mạch lạc, sâu sắc một tư tưởng, quan điểm nào đó trước cuộc sống, người ta thường dùng nghị luận làm phương thức biểu đạt chính. Vì thế, đề tài của các văn bản nghị luận được lựa chọn dạy trong chương trình SGK Ngữ văn bậc THCS cũng vậy. Qua các tiêu đề của các văn bản đủ để thấy sự phong phú, đa dạng của các vấn đề được đem ra bàn luận. Từ đề tài chiến tranh, hòa bình, chủ quyền độc lập quốc gia đến việc bảo tồn, giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc; từ vai trò, vị trí, ý nghĩa đến đặc trưng nghệ thuật của văn chương; từ phương pháp đọc sách đến những vấn đề về dịch bệnh, môi trường,…Sự phong phú, đa dạng; tính cập nhật của đề tài nghị luận trong chương trình Ngữ văn phổ thông đã thể hiện rõ quan điểm dạy học văn gắn với thực tế đời sống, rút ngắn khoảng cách giữa văn học nhà trường với đời sống xã hội; nâng cao vốn hiểu biết về văn hóa – xã hội nói chung cho học sinh. Mặt khác, dạy học theo hướng tích cực là hướng dạy học đúng đắn lấy học sinh làm trung tâm. Song áp dụng như thế nào vào các tiết dạy phần văn nghị luận hiện đại lớp 7 thật không đơn giản chút nào. Xuất phất từ thực tế đó và qua các năm giảng dạy trực tiếp các tác phẩm văn học này, tôi xin được chia sẻ cùng đồng nghiệp: ” Một số biện pháp dạy học cụm văn bản nghị luận hiện đại lớp 7 theo hướng tích cực” để cùng tham khảo. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn giảng dạy, đề xuất các giải pháp hợp lí của hướng dạy học tích cực nhằm nâng cao hiệu quả dạy học cụm văn bản nghị luận hiện đại . 1.3. Đối tượng nghiên cứu: – Dạy học cụm văn bản nghị luận hiện đại lớp 7 theo hướng tích cực – Học sinh lớp 7 trường THCS Xuân Thành- Thọ Xuân- Thanh Hóa. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: Thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: – Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: – Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu nhập thông tin: Quan sát, điều tra, tổng kết kinh nghiệm qua thực tiễn giảng dạy trên lớp. – Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: Lấy số liệu từ thực tiễn bài làm học sinh để xử lí số liệu, thống kê, báo cáo kết quả. – Phương pháp đánh giá rút kinh nghiệm: Giáo viên đánh giá rút ra kinh nghiệm sau khi thực hiện đề tài . 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận: a. Văn bản nghị luận hiện đại: Nghị luận là bàn bạc, bày tỏ ý kiến của mình về một vấn đề nào đó. ” Văn nghị luận là văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó”( SGK ngữ văn 7- trang 9, tập). Văn bản nghị luận hiện đại là các văn bản của các tác giả hiện đại, được viết theo phương thức nghị luận đặt ra là giải quyết những vấn đề quan trọng trong đời sống con người và trong xã hội hiện đại. Trong sách giáo khoa ngữ văn THCS gồm các văn bản: Tinh thần yêu nước của nhân dân ta, Sự giàu đẹp của tiếng việt, Đức tính giản dị của Bác Hồ, Ý nghĩa văn chương, Thuế máu, Đi bộ ngao du, Bàn về đọc sách, Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới, Tiếng nói của văn nghệ, Chó Sói và Cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông- ten. Trong đó các tiết được phân phối chương trình học ở lớp 7 gồm: STT Tên văn bản Tác giả Chủ đề 1 Tinh thần yêu nước của nhân dân ta Hồ Chí Minh Nghị luận chính trị- xã hội 2 Sự giàu đẹp của tiếng việt Đặng Thai Mai Nghị luận chính trị- xã hội 3 Đức tính giản dị của Bác Hồ Phạm Văn Đồng Nghị luận chính trị- xã hội. 4 Ý nghĩa văn chương Hoài Thanh Nghị luận văn học. Đây là những tác phẩm nghị luận thực sự có giá trị cả về mặt nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Song dạy và học các tác phẩm này thật không đơn giản chút nào. b. Dạy học tích cực: Phương pháp dạy học tích cực là hướng tới hoạt động học tập tích cực chủ động , sáng tạo của học sinh. Giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn học tập, học sinh là trung tâm của quá trình dạy học. Phương pháp dạy học tích cực sẽ chống lại lối dạy đọc chép, thói quen học tập thụ động. Khi giảng dạy bên cạnh những phương pháp dạy học truyền thống ( thuyết trình, miêu tả,), người thầy cần kết hợp với các phương pháp giáo dục hiện đại,tổ chức hướng dẫn học sinh tự khám phá những điều mình chưa biết trên cơ sở kiến thức đã biết. Trên thực tế, việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực vào việc dạy các tiết giảng văn các văn bản nghị luận với đối tượng là học sinh lớp 7 như thế nào đối với người giáo viên đứng trên bục giảng cũng không phải là dể. 2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: a. Đối với giáo viên: Tác giả của các văn bản này là những chính khách, những người giữ trọng trách quan trọng trong xã hội, là những nhà văn hóa lớn. Văn nghị luận của họ đề cập nhiều vấn đề vừa mang tính khoa học lâu dài trong xã hội hiện đại: truyền thống yêu nước của dân tộc, vẻ đẹp trong cách sống của lãnh tụ, sự giàu đẹp trong tiếng nói của dân tộc, những giá trị của văn chương,…Mục đích chung của người viết là hướng sự quan tâm của đông đảo bạn đọc đến những vấn đề có ý nghĩa quan trọng và thiết thực đối với đời sống cá nhân và cộng đồng. Từ đó, xây dựng được nhận thức và hành động tích cực của độc giả trong đời sống của họ. Vậy làm thế nào để thông qua các tiết dạy đó, giáo viên có thể truyền tải đến các em học sinh để các em lĩnh hội áp dụng phù hợp thực tế bản thân, bồi đắp hoàn thiện nhân cách các em? Đó là điều không phải người giáo viên nào cũng tiến hành thành công. b. Đối với học sinh: Cụ thể cái khó trong các tiết dạy phần văn nghị luận ở lớp 7 ở các tiết ngữ văn 81,85,93,97 là : Thứ nhất, đây là lần đầu tiên các em tiếp xúc với các tác phẩm nghị luận mà đặt ra những vấn đề có ý nghĩa sâu sắc đòi hỏi các em phải rút ra chính kiến suy nghĩ của bản thân, bởi các em vừa làm quen với hàng loạt tác phẩm ở lớp 6 hay học kì I lớp 7 mang tính cảm thụ là nhiều. Thứ hai, đặc trưng của các tác phẩm này là luận điểm, hệ thống luận cứ, trình tự lập luận, tư tưởng quan điểm của người viết,… Đây là những vấn đề khó đối với học sinh khi tiếp cận tác phẩm nghị luận hiện đại trong chương trình học, dù các em đã làm quen về văn nghị luận qua phân môn Tập làm văn lớp 7 kì II( lập luận giải thích, lập luận chứng minh). Ngoài ra, đối với đối tượng là học sinh lớp 7 trường THCS Xuân Thành các em ít có điều kiện tiếp cận công nghệ thông tin, do đa phần các em là con các hộ nông dân. Đó là một hạn chế các em tìm hiểu thêm kiến thức từ các tác phẩm văn học trên In ter net. Từ những lí do đó cùng với thực trạng của môn Văn chưa là môn học lựa chọn của nhiều học sinh( các em tập trung các môn tự nhiên ), nên các tiết học các tác phẩm nghị luận hiện đại này chưa hiệu quả. Hiện tượng học sinh không soạn bài, làm bài tập, không hứng thú học các dạng văn bản này gây khó cho giáo viên khi dạy. Từ đó, làm các em càng xa rời bộ môn Văn hơn. c. Kết quả khảo sát thực trạng: Năm học trước: 2014 – 2023, dù giáo viên đã có nhiều phương pháp biện pháp tích cực song kết quả tiếp thu bài các em vẫn chưa cao. Điều đó được thể hiện rõ qua bài kiểm tra Văn tiết 98 trong chương trình ngữ văn 7 kì II. Tổng số Bài KT SL % SL % SL % SL % SL % 35 Tiết98 3 8.55 12 34.20 16 45.85 4 11.40 0 0 Bảng số liệu 1 ( Kì II, Năm học: 2014- 2023). 2.3. Các giải pháp và biện pháp tổ chức thực hiện: a. Các giải pháp: Giải pháp 1: Nghiên cứu lựa chọn kĩ phương pháp dạy học tích cực với các nội dung phù hợp với các tiết giảng văn nghị luận hiện đại lớp 7. Giải pháp 2: Lựa chọn nội dung kiến thức, khâu lên lớp phù hợp để áp dụng phương pháp dạy học tích cực. Giải pháp 3: Tiến hành thực nghiệm tại lớp đang dạy: lớp 7 trường THCS Xuân Thành, Thọ Xuân, Thanh Hóa. b. Các biện pháp tổ chức thực hiện: b.1: Đọc diễn cảm văn bản nghị luận hiện đại: Đọc diễn cảm là biện pháp đặc trưng trong các tiết giảng văn khi tiếp cận tác phẩm văn học. Song đọc diễn cảm một tác phẩm nghị luận hiện đại như thế nào để tác động tốt đến tiết học không phải là dể. Đọc diễn cảm văn bản nghị luận phải thể hiện được giọng điệu chung trong các biểu hiện và cụ thể riêng qua từng văn bản. Có nghĩa là trước hết phải nắm được mục đích việc đọc là nắm được nhận định, quan điểm thể hiện trong văn bản đó, tạo cảm xúc chung cho tiết học Văn. Chẳng hạn đọc văn bản: ” Đức tính giản dị của Bác Hồ”, Giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách đọc giọng chân thành và trong sáng vì văn bản đề cập gương sáng của một con người cao quý, được viết bởi tinh thần và sự hiểu biết tôn vinh của tác giả. Đọc văn bản: ” Ý nghĩa văn chương” của Hoài Thanh, cần chú ý giọng điệu chân thành sâu lắng, chậm. Đặc biệt là đoạn văn đầu tiên khi tác giả lấy dẫn chứng chi tiết hình ảnh thi sĩ thấy xác chết một con chim rơi xuống chân mình. Đó là hình ảnh giàu tính hàm xúc, lay động lòng nhân ái con người. Hoặc khi đọc văn bản: ” Tinh thần yêu nước của nhân dân ta”, giọng điệu chung là rõ ràng mạch lạc, hào sảng ở 2 phần đầu minh chứng cho lòng yêu nước của nhân dân ta trong lịch sử và hiện tại cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Phần cuối, đọc chậm lại trùng xuống bởi tác giả đề ra nhiệm vụ hiện tại cho mọi người là phải thể hiện lòng yêu nước trước yêu cầu trước mắt- thời điểm năm 1951. Như vậy, đọc diễn cảm văn bản nghị luận hiện đại chú ý giọng điệu chung toàn bài và từng đoạn văn để thay đổi cho phù hợp. b.2: Sử dụng phương tiện dạy học hợp lí: Sử dụng các phương tiện dạy học hiệu quả trong đó có phương tiện trực quan sẽ khắc phục được những hạn chế trong dạy học Ngữ văn. Phương tiện dạy học hiện nay được sử dụng phổ biến ở các trường THCS đã đạt chuẩn quốc gia thường là máy chiếu. Vậy sử dụng máy chiếu như thế nào cho hợp lí vừa mang lại hứng thú cho học sinh vừa tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh? Trước hết, giáo viên cần chủ động trong việc sử dụng máy chiếu. Mục đích có thể tích hợp được các tri thức khác nhau của các môn học, chứ không phải là công cụ để trình chiếu. Chẳng hạn khi giảng tiết Ngữ văn 7- tiết 81 văn bản: ” Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” của Hồ Chí Minh, giáo viên cần huy động tích hợp kiến thức môn lịch sử, điện ảnh,… qua máy chiếu để thấy được khí thế hừng hực của tinh thần yêu nước nhân dân ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Giảng tiết Ngữ văn 93: ” Đức tính giản dị của Bác Hồ”, giáo viên cần huy động vốn hiểu biết của học sinh về phong cách sống và viết của Bác qua văn bản và các tác phẩm khác của Người. Ngoài ra, sử dụng máy chiếu kết hợp phim ảnh giới thiệu nhà sàn của Bác cùng những vật dụng sinh hoạt của Người ở khu bảo tàng Hồ Chí Minh. Mặt khác có thể sử dụng máy chiếu như bảng phụ để chiếu các luận điểm, bài tập trắc nghiệm cuối bài giảng để học sinh dể nhìn và nắm kiến thức. Như vậy, các hình ảnh trực quan đó không những giúp các em hiểu sâu sắc thêm tác phẩm mà còn tạo hứng thú học tập cho các em, làm cho các tiết dạy văn bản nghị luận hiện đại trở nên sinh động, có tác dụng tốt trong việc cung cấp tri thức, rèn kĩ năng cảm thụ đồng thời giáo dục tình yêu quê hương đất nước, yêu văn học, hoàn thiện nhân cách. b. 3. Tổ chức hình thức hoạt động nhóm cho học sinh trong tiết dạy: Hoạt động nhóm trong dạy học là một hình thức tổ chức mà trong đó học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên làm việc cùng nhau trong những nhóm nhỏ để hoàn thành mục đích học tập chung của nhóm đặt ra. Hoạt động này đưa học sinh vào hình thức học chủ động tích cực, sáng tạo nắm tri thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Đặc biệt, trong các tiết dạy cụm văn bản nghị luận hiện đại sẽ tránh được học sinh thụ động nắm kiến thức , tiết học tránh được sự khô khan nhàm chán. Tất nhiên, hoạt động nhóm vận dụng trong từng phần tiết dạy một cách hợp lí , bởi đây là tiết dạy một giờ giảng văn chứ không phải là tiết tiếng việt. Qua vận dụng ở các tiết học văn bản nghị luận hiện đại: Tiết 81,85,93,97, tôi đúc rút kinh nghiệm như sau: Chẳng hạn, khi dạy văn bản ” Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” có thể tổ chức hoạt động nhóm ở mục I (tìm hiểu chung) cụ thể mục 2 (thể loại) và 3 (bố cục) với câu hỏi chung như sau: Văn bản ” Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” thuộc thể loại nào? Vấn đề nghị luận của văn bản này là gì? Văn bản có thể chia làm mấy phần? Nội dung từng phần? + Mở bài: từ đầu…. ” lũ cướp nước”( Nhận đinh chung về lòng yêu nước của nhân dân ta). + Thân bài: Tiếp theo… ” nồng nàn yêu nước”( Những biểu hiện về lòng yêu nước của nhân dân ta). + Kết bài: Còn lại( Nhiệm vụ của chúng ta). Thứ hai, có thể áp dụng hoạt động nhóm ở phần phân tích cảm thụ văn bản. Đây là phần cơ bản nhất của tiết giảng văn. Vậy áp dụng như thế nào để không làm mất đi đặc trưng của giờ cảm thụ tác phẩm văn học. Quan niệm của Hoài Thanh về nguồn gốc của văn chương là lòng thương người và rộng ra là thương cả muôn loài, muôn vật. Quan niệm ấy có đúng không? Thử tìm một vài dẫn chứng văn học mà em đã học để chứng minh ý kiến đó của tác giả? Đại diện nhóm trả lời, nhóm khác bổ sung đảm bảo yêu cầu theo gợi ý sau: – Quan điểm đó là đúng và rất sâu sắc được chứng minh trong thực tế văn chương. – Dẫn chứng: + Bà Huyện Thanh Quan viết tác phẩm ” Qua Đèo Ngang” bởi vì nỗi ” Nhớ nước, thương nhà”. + Văn chương bắt nguồn từ tiếng nói nội tâm của hồn người. Đó phải chăng là nỗi lòng hiếu kính của con cái với cha mẹ qua bài ca dao : ” Công cha như núi ngất trời Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển đông Núi cao biển rộng mênh mông Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi”. ( Những câu hát tình cảm gia đình, Ngữ văn 7, tập 1). + Khánh Hoài viết ” Cuộc chia tay của những con búp bê” phải chăng cũng là tiếng lòng đồng cảm xót thương cho những mảnh đời bất hạnh của trẻ em không may mắn trước thực trạng diễn ra trong xã hội hiện đại: Bố mẹ li hôn, con cái “Tan đàn xẻ nghé”. Từ lòng thương người đó, rộng hơn là thương cả muôn loài, muôn vật. Hình ảnh thi sĩ và con chim sắp chết cùng dịp đau thương ấy hòa cùng trong phần đầu văn bản ” Ý nghĩa văn chương” há chẳng phải là minh chứng hùng hồn đó sao! Như vậy, thông qua hoạt động này hình thành các em xúc cảm về văn chương taọ thuận lợi các em tiếp thu các đơn vị kiến thức còn lại. Thứ ba, có thể sử dụng hình thức hoạt động nhóm – bàn (2 học sinh) trao đổi phần luyện tập, liên hệ thực tế cuối bài học. Đó là điều các em được tự do trình bày ý kiến, hiểu biết của mình sau khi học tác phẩm với bạn để định hướng tìm ra cái chung cái đúng nhất. Ví dụ: Theo Đặng Thai Mai trong ” Sự giàu đẹp của tiếng việt” thì tiếng việt của chúng ta rất giàu và đẹp, vậy là học sinh chúng ta phải làm gì để giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng việt? Gợi ý: Rèn luyện ngôn ngữ tiếng việt trong nói và viết đúng chuẩn, tránh lai căng trong dùng từ. Khi giao tiếp phải đặt đối tượng mục đích giao tiếp lên trên để lựa chọn ngôn ngữ phù hợp, cuộc giao tiếp diễn ra thành công. Sau đây là giáo án tiết dạy minh họa: Ngữ văn 7- Tiết 93: Văn bản: ĐỨC TÍNH GIẢN DỊ CỦA BÁC HỒ – Phạm Văn Đồng – A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT: 1. Kiến thức: – Đức tính giản dị của Bác Hồ được biểu hiện trong lối sống, trong quan hệ với mọi người, trong việc làm và trong sử dụng ngôn ngữ nói, viết hàng ngày. 2. Kĩ năng: – Đọc – hiểu văn bản nghị luận xã hội. – Đọc diễn cảm và phân tích nghệ thuật nêu luận điểm và luận chứng trong văn bản nghị luận. * Kỹ năng sống: Thông qua văn bản, rèn luyện các em kỹ năng sống phân biệt cái tốt, xấu, tránh xa cái xấu trong xã hội, sống giản dị khiêm tốn. 3. Thái độ: – Có ý thức rèn luyện những đức tính và thói quen sống giản dị ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. – Từ đó, học sinh tự xác định được mục tiêu phấn đấu, rèn luyện về lối sống của bản thân theo tấm gương đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh.