Soạn Văn Bản Bài Trong Lòng Mẹ 8 / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Soạn Văn 8: Trong Lòng Mẹ

Soạn Văn 8: Trong lòng mẹ

Soạn Văn lớp 8 Trong lòng mẹ

Soạn Văn Trong lòng mẹ

do Nguyên Hồng sáng tác được VnDoc sưu tầm và giới thiệu. Soạn bài Trong lòng mẹ mẫu này là tài liệu tham khảo giúp các bạn học sinh hiểu rõ về tình cảm bao la của người mẹ dành cho con để từ đó học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 8 chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình.

Soạn Văn: Trong lòng mẹ Trong lòng mẹ (trích Những ngày thơ ấu) Tóm tắt:

Bố chết, mẹ đi tha phương cầu thực, bé Hồng phải sống trong cảnh thiếu thốn tình cảm. Người cô luôn xoáy vào cậu những câu nói cay độc chia cắt mẹ con. Nhưng cậu chưa bao giờ nguôi nhớ mẹ. Rồi mẹ cậu cũng về, cậu nghẹn ngào hạnh phúc trong vòng tay mẹ.

Bố cục:

– Phần 1 (từ đầu … người ta hỏi đến chứ?): Cuộc đối thoại người cô với bé Hồng.

– Phần 2 (còn lại): Cuộc gặp gỡ giữa hai mẹ con.

Câu 1: (Trang 20 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1): Phân tích nhân vật bà cô:

– Độc ác, tàn nhẫn khi hỏi “mày có muốn vào Thanh Hóa không”, khoét vào nỗi đau hoàn cảnh xa mẹ.

– Mỉa mai, chế giễu mẹ cậu nhằm chia rẽ tình cảm: “Phát tài” (nói mỉa người mẹ nghèo khổ), “em bé” (gieo rắc hoài nghi để bé Hồng khinh miệt ruồng rẫy mẹ).

⇒ Bà cô nham hiểm, giả dối, sống tàn nhẫn không có lòng vị tha, đại diện cho những thành kiến, những hủ tục đày đọa người phụ nữ trong xã hội cũ.

Câu 2: (Trang 20 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1): Tình yêu thương mãnh liệt của bé Hồng với người mẹ bất hạnh:

– Khi nghe những lời giả dối, thâm độc xúc phạm mẹ: Cúi đầu không đáp, tỉnh táo nhận ra “những rắp tâm tanh bẩn” của bà cô, nghe “em bé” thì khóc ròng vì thương mẹ, vì uất ức, lòng căm tức xã hội tăng tiến “…mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi”.

– Khi gặp và nằm trong lòng mẹ: “Mợ ơi! …” là tiếng gọi tha thiết khát khao tình mẹ, hàng loạt hành động gấp gáp: Đuổi theo, gọi bối rối, thở hồng hộc, trèo lên xe ríu cả chân, òa khóc. Trong lòng mẹ, cậu ngắm kĩ gương mặt mẹ, mơn man sung sướng “Tôi ngồi trên đệm xe … thơm tho lạ thường”.

⇒ Bé Hồng yêu thương, kính trọng, có niềm tin mãnh liệt về người mẹ của mình.

Câu 3*: (Trang 20 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):

Văn Nguyên Hồng giàu chất trữ tình. Đối tượng thể hiện là tình mẫu tử thiêng liêng, ở dòng cảm xúc phong phú của bé Hồng (xót xa tủi nhục, căm giận sâu sắc, sự quyết liệt, tình thương mẹ,… dồn nén và lên cao). Hơn nữa còn ở cách miêu tả, cách kể đầy cảm xúc, các so sánh ấn tượng giàu sức gợi.

Câu 4: (Trang 20 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):

Hồi kí là một thể loại kí kể lại những sự việc đã xảy ra trong quá khứ mà người kể là người tham dự hoặc chứng kiến, tác giả là người xưng tôi.

Câu 5*:(trang 20 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):

Nguyên Hồng là nhà văn của phụ nữ và nhi đồng:

– Có cái nhìn thông cảm, thấu hiểu với những khổ đau người phụ nữ giữa những hủ tục khắt khe, người con trẻ với khát vọng tình thương, nỗi đau tinh thần.

– Nhà văn am hiểu sâu sắc về phụ nữ và trẻ nhỏ, có sự nắm bắt cá tính và tâm lí nhân vật qua lời văn giàu cảm xúc, ngọt ngào.

Soạn Bài: Trong Lòng Mẹ – Ngữ Văn 8 Tập 1

I. Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả (các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Nguyên Hồng trong SGK Ngữ văn 8 Tập 1)

2. Tác phẩm

* Xuất xứ: Đoạn trích Trong lòng mẹ là chương IV của tác phẩm Những ngày thơ ấu của nhà văn Nguyên Hồng. Những ngày thơ ấu là tập hồi kí kể về tuổi thơ cay đắng của tác giả. Tác phẩm gồm 9 chương, được đăng báo năm 1938, in thành sách lần đầu năm 1940.

* Tóm tắt

Bố chết, mẹ phải đi tha hương cầu thực, bé Hồng phải sống với người cô độc ác trong cảnh thiếu thốn tình cảm. Người cô cứ luôn xoáy vào cậu những câu nói cay độc để chia cắt tình mẹ con. Nhưng cậu chưa bao giờ nguôi nhớ mẹ, cũng chưa bao giờ có ý nghĩ xấu về người mẹ của mình. Đến ngày giỗ đầu của cha cậu, mẹ cậu cũng về thật, cậu nghẹn ngào hạnh phúc trong vòng tay me, sung sướng lăn vào lòng mẹ để cảm nhận hạnh phúc của tình mẫu tử.

* Bố cục:

Đoạn trích Trong lòng mẹ có thể được chia làm 2 phần:

Phần 2: còn lại : Cuộc gặp lại bất ngờ của bé Hồng với mẹ và cảm giác vui sướng cực điểm khi nằm trong vòng tay mẹ.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

Phân tích nhân vật người cô trong cuộc đối thoại với bé Hồng.

Những ý nghĩ cay độc trong lời nói, rồi cả nét mặt cười rất kịch.

Mỉa mai, chế giễu mẹ cậu bé nhằm chia rẽ tình mẫu tử: “phát tài” (ý nói mỉa mai người mẹ nghèo khổ), “em bé” (gieo rắc hoài nghi để cậu bé khinh miệt, ruồng rẫy mẹ).

Giọng nói, cử chỉ quan tâm của bà cô chỉ là giả dối, sáo rỗng.

Khi cháu đã khóc mà bà cô vẫn cố tình xoáy sâu vào nỗi đau của cháu.

Câu 2:

* Tình yêu thương mãnh liệt của chú bé Hồng với người mẹ bất hạnh được thể hiện:

Khi nghe những lời giả dối, xúc phạm mẹ của bà cô: bé Hồng cúi đầu không đáp, tỉnh táo nhận ra “những rắp tâm tanh bẩn” của bà cô, nghe từ “em bé” thì chú khóc ròng vì thương mẹ, vì cảm thấy uất ức, lòng căm tức đã tăng tiến: “…mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi”.

Khi gặp và được nằm trong lòng mẹ: “Mợ ơi!…” chính là tiếng gọi tha thiết của tình mẫu tử, tiếng gọi khát khao của tình mẹ; cùng với đó là hàng loạt những hành động gấp gáp: đuổi theo, gọi bối rối, thở hồng hộc, trèo lên xe ríu cả chân, òa khóc. Trong lòng mẹ, Hồng sung sướng, hạnh phúc, quên đi bao uất ức, khổ cực trong thời gian sống xa mẹ.

Câu 3:

Chất trữ tình thể hiện trong văn Nguyên Hồng:

* Tình huống truyện đặc sắc:

Hồng phải sống trong sự ghẻ lạnh, miệt thị cay nghiệt của họ hàng

Người mẹ thì âm thầm chôn vùi tuổi thanh xuân, chịu nhiều cay đắng, thành kiến của xã hội cũ

Sự yêu thương, niềm tin mãnh liệt vào người mẹ của Hồng không hề bị lung chuyển trước những rắp tâm tanh bẩn của bà cô độc ác.

* Dòng cảm xúc mãnh liệt của Hồng:

Xót xa, tủi nhục, căm hờn, uất nghẹn

Quyết liệt bảo vệ tình mẫu tử

Thấu hiểu, cảm thông và yêu thương mẹ

* Hình ảnh so sánh giàu sức biểu đạt, gây ấn tượng mạnh, gợi cảm.

* Lời văn diễn đạt cảm xúc dạt dào, chân thật

* Kết hợp nhuần nhuyễn giữa kể, tả và biểu lộ cảm xúc.

Câu 4:

Theo em, hồi kí là một thể loại kí kể lại những sự việc đã xảy ra trong quá khứ mà người kể là người tham dự hoặc chứng kiến, tác giả là người xưng “tôi”.

Câu 5:

Có nhà nghiên cứu nhận định Nguyên Hồng là nhà văn của phụ nữ và nhi đồng.

Nhân vật trong những sáng tác chính của ông là phụ nữ và trẻ em, bởi ông có cái nhìn cảm thông, thấu hiểu với những đau khổ của người phụ nữ giữa những thành kiến, hủ tục khắt khe, hiểu được những đứa trẻ có khát vọng tình thương và nỗi đau tinh thần của chúng.

Ông nhìn thấy được những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ và sự ngây thơ, trong sáng, những khát khao của những đứa trẻ.

Trong đoạn trích Trong lòng mẹ:

Nhân vật bà cô là đại diện cho những hủ tục phong kiến còn tồn tại

Nhân vật mẹ bé Hồng là hiện sinh cho hình ảnh nguời phụ nữ tần tảo, chịu nhiều bất hạnh, điều tiếng tủi nhục

Bé Hồng là nhân vật đại diện cho những đứa trẻ phải sống trong cảnh thiếu thốn tình cảm, sống trong sự ghẻ lạnh, cay nghiệt của người đời.

4.5

/

5

(

4

bình chọn

)

Soạn Bài: Trong Lòng Mẹ

Hướng dẫn soạn văn, soạn bài, học tốt bài

– Nhà văn Nguyên Hồng (1918-1982) tên khai sinh là Nguyễn Nguyên Hồng, quê ở thành phố NamĐịnh. Nguyên Hồng sống chủ yếu ở thành phố cảng Hải Phòng. Ông viết nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, thơ. Ông được nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.

Các tác phẩm chính của Nguyên Hồng: Bỉ vỏ (tiểu thuyết, 1938); Những ngày thơ ấu (hồi kí, 1938); Trời xanh(tập thơ, 1960); Cửa biển (bộ tiểu thuyết 4 tập: 1961, 1967, 1973, 1976); Núi rừng Yên Thế (bộ tiểu thuyết lịch sử nhiều tập chưa viết xong); Bước đường viết văn (hồi kí, 1970).

Hồi kí còn gọi là hồi ức; một thể thuộc loại kí, nhằm ghi những sự việc thuộc quá khứ, qua sự nhớ lại. Hồi kí đòi hỏi phải hết sức tôn trọng tính chân thực của câu chuyện; sự việc, số liệu, thời gian phải chính xác. Hồi kí gần với truyện, và nếu viết về những sự kiện tiêu biểu, những nhân vật tiêu biểu, hồi kí lại gần với sử. Hồi kí có thể là một câu chuyện mà tác giả là người được chứng kiến, hoặc vừa chứng kiến vừa tham dự, hoặc chính tác giả là nhân vật trung tâm. Người viết hồi kí lấy bản thân mình làm địa bàn chính để nhớ lại sự việc đã qua (có thể kể lại cho một người khác ghi). Lời văn của hồi kí cốt chính xác, trung thực, giàu suy nghĩ và cảm tưởng cá nhân.

Văn bản Trong lòng mẹ được trích từ tập hồi kí Những ngày thơ ấu, kể về tuổi thơ cay đắng của chính tác giả. Cả một quãng đời cơ cực (mồ côi cha, không được sống với mẹ mà phải sống với người cô độc ác) được tái hiện lại sinh động. Tình mẫu tử thiêng liêng, tình yêu tha thiết đối với mẹ đã giúp chú bé vượt qua giọng lưỡi xúc xiểm độc ác của người cô cùng với những dư luận không mấy tốt đẹp về người mẹ tội nghiệp. Đoạn tả cảnh đoàn tụ giữa hai mẹ con là một đoạn văn thấm đẫm tình cảm và thể hiện sâu sắc tinh thần nhân đạo.

a) Thái độ cười hỏi của bà cô thể hiện trong truyện đã cố tình khoét sâu hố ngăn cách giữa mẹ và con, làm cho cậu bé Hồng rất xót xa cho hoàn cảnh của mẹ. Mặc dầu bé Hồng đã phát khóc, nước mắt ròng ròng nhưng bà cô vẫn tươi cười kể chuyện, cố ý làm cho bé đau khổ, giận dỗi mẹ. Có thể nói bà cô là người có ý đồ muốn bé Hồng xa lánh, khinh miệt mẹ mình. Bé Hồng đã nhận ra vẻ rất kịch của bà cô, đằng sau cái vẻ quan tâm là một ý đồ xấu.

b) Bé Hồng không những không bị những lời thâm hiểm của bà cô làm nhu nhược mà càng biết hoàn cảnh của mẹ, Hồng càng thương mẹ hơn. Biểu hiện rõ nhất là chú bé cố kìm nén tình cảm nhưng “nước mắt ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở cằm và ở cổ”. Cậu bé vẫn tin tưởng, kính yêu mẹ. Đặc biệt là Hồng chỉ thoáng thấy bóng mẹ, đã nhận ra và líu ríu chạy theo. Khi ở trong lòng mẹ, Hồng đã thật sự sung sướng, thực sự được sống trong tình mẫu tử, đến mức ù cả tai, và bỗng nhiên quên hết những lời dèm pha độc địa của bà cô.

c) Giọng văn của Nguyên Hồng giàu chất trữ tình, bởi:

Trước hết, tình huỗng đặt ra trong câu chuyện dễ làm cho người con oán trách mẹ mình, nhưng tình cảm của người con ở đây không hề một chút mảy may thay đổi; ngược lại, vẫn tràn đầy niềm yêu thương, tin tưởng và còn có mơ ước phá tan mọi cổ tục để cho mẹ không bị đau khổ.

– Dòng cảm xúc của nhân vật được thể hiện mãnh liệt qua những chi tiết miêu tả cảm động nghẹn ngào. Sự căm giận, sự xót thương, sự đau khổ và niềm hạnh phúc dường như đều ở đỉnh điểm của tâm trạng.

– Cách thể hiện thông qua kết cấu lớp lang, hình ảnh so sánh gây ấn tượng mạnh, giàu sức gợi cảm. Lời văn dạt dào tình cảm.

Đoạn trích được bố cục theo mạch tự truyện của nhân vật “tôi”. Gần đến ngày giỗ cha, người mẹ đi tha phương cầu thực ở Thanh Hoá vẫn chưa về. Người cô cứ xoáy vào cậu bé Hồng những lời cay độc. Rồi mẹ cậu bé cũng về thật. Cậu nghẹn ngào sung sướng lăn vào lòng mẹ và cảm nhận hạnh phúc của tình mẫu tử.

Đoạn trích có hai nội dung chính (cuộc tranh cãi với bà cô và cảnh mẹ con gặp gỡ) cần bám sát diễn biến sự việc để sử dụng giọng điệu sao cho phù hợp:

– Cuộc tranh cãi với bà cô: giọng bà cô là giọng chì chiết, đay nghiến, châm chọc, cố gắng hạ uy tín của người mẹ trong lòng đứa con. Ngược lại, giọng chú bé Hồng vừa yếu đuối vừa cứng cỏi, sự tự hào về người mẹ xen lẫn cảm xúc đau đớn khi thấy mẹ bị xúc phạm …

– Cảnh mẹ con gặp gỡ: đây là trọng tâm của văn bản, cần đọc diễn cảm, thể hiện được nỗi xúc động vô bờ bến của chú bé khi gặp mẹ (bước ríu cả chân, nũng nịu nép vào người mẹ, khao khát được bé lại để được âu yếm, vỗ về …).

+ Các từ: thầy giáo, công nhânm nông dân, thầy thuốc, kỹ sư… đều có một nét nghĩa chung là: người nói chung xét về nghề nghiệp.

+ Các từ : đi, chạy, nhảy, bò, bơi, trườn… đều có một nét nghĩa chung là: hoạt động dời chỗ.

+ Các từ: thông minh, nhanh trí, sáng suốt… ngu đần, dốt, chậm… đều có chung nét nghĩa: tính chất trí tệu của con người.

– Khái niệm: Trường từ vựng là tập hợp của những từ có ít nhất một nét nghĩa chung.

– Tuỳ theo mức độ khái quát của ý nghĩa, một trường từ vựng có thể chia thành nhiều trường từ vựng nhỏ hơn.

Trường từ vựng “Hoạt động của con người” bao gồm các trường nhỏ hơn:

+ Hoạt động của trí tuệ: nghĩ, suy nghĩ, ngẫm, nghiền ngẫm, phán đoán…

+ Hoạt động của các giác quan để cảm giác: nhìn, trông, ngó, ngửi, nếm, nghe, sờ…

+ Hoạt động dời chỗ: đi, chạy, nhảy, trườn, bò, bay…

+ Hoạt động thay đổi tư thế: đứng, ngồi, cúi, lom khom, ngửa, nghiêng, vắt (chân)…

– Các trường từ vựng nhỏ trong trường từ vựng lớn có thể thuộc về nhiều từ loại khác nhau.

+ Trường từ vựng “các bộ phận của tay”: cánh tay, bàn tay, ngón tay, móng tay, đốt tay… đều là danh từ.

+ Trường từ vựng chỉ “Hoạt động của tay”: vẫy, cầm, nắm, ném, ôm… đều là động từ.

– Do hiện tượng nhiều nghĩa, một từ có thể thuộc nhiều trường từ vựng khác nhau:

. Trường bộ phận của cơ thể: mắt, miệng, tay, chân, tai, mũi….

. Trường hoạt động: nhìn, ngó, trông, theo…

+ Chữ “sắc” trong các trường hợp sau thuộc về những trường từ vựng khác nhau:

– Trong giao tiếp hàng ngày cũng như trong văn chương, sử dụng cách chuyền từ vựng, thường nhằm mục đích tăng thêm tính nghệ thuật của ngôn từ thông qua các phương thức: nhân hoà, so sánh, ẩn dụ…

c. Tủ, rương, hôm, vali, chạn, thúng, mủng, nong, nia, chai, lọ, vại, hũ, bình, …

d. Hiền, hiền lành, dữ, ác, độc ác, tốt bụng, rộng rãi, …

e. Buồn, vui, giận, căm phẫn, kích động, xao xuyến, …

2. Các từ gạch chân trong đoạn văn sau, thuộc trường từ vựng nào?

Làng mạc bị tàn phá, nhưng mảnh đất quê hương vẫn đủ sức nuôi sống tôi như ngày xưa, nếu tôi có ngày trở về. Ở mảnh đất ấy, tháng giêng, tôi đi đốt bãi, đào ổ chuột; tháng tám nước lên, tôi đi đánhgiậm, úp cá, đơm tép; tháng chín, tháng mười, đi móc con da dưới vệ sông.

Các từ gạch chân thuộc trường từ vựng: Hoạt động tác động đến một đối tượng khác ngoài chủ thể.

3. Từ “ướt” trong câu sau đây thuộc trường từ vựng nào?

Từ “ướt” trong câu, thuộc trường từ vựng xúc giác, do phép chuyển nghĩa ẩn dụ.

4. Các từ sau đây đều thuộc trường từ vựng “người”, hãy xếp chúng vào những trường từ vựng nhỏ hơn:

Đàn ông, trẻ em, nhi đồng, đàn bà, thầy giáo, nam, nữ, giáo viên, thiếu niên, thanh niên, công nhân, học sinh, cụ già, trung niên, thầy thuốc, bác sĩ, kỹ sư, giám đốc, lái xe,…

– Người nói chung xét về giới tính: đàn ông, đàn bà…

– Người nói chung xét về tuổi tác: trẻ em, nhi đồng, thanh niên…

– Người nói chung xét về nghề nghiệp: thầy thuốc, thầy giáo…

+ Hoạt động của con người tác động đến đối tượng.

+ Hoạt động của con người tác động đến đối tượng: đá, ném, quăng, lôi, kéo…

+ Tính chất ngoại hình của cơ thể: cao, thấp, béo…

Soạn Bài Trong Lòng Mẹ Trang 20 Sgk Ngữ Văn 8, Tập 1

Hướng dẫn soạn bài Trong lòng mẹ để em soạn bài học này một cách đơn giản trước khi đến lớp và hiểu hơn về nỗi bất hạnh của chú bé Hồng, tình yêu thương cháy bỏng đối với người mẹ bất hạnh của mình cũng như sự thiêng liêng của tình mẫu tử bất diệt.

Soạn bài Trong lòng mẹ. ngắn 1

Câu 1.

– Bà cô tuy hiểu về hoàn cảnh bất hạnh của Hồng nhưng bà chẳng những không động lòng thương xót mà còn cố tìm cách gieo vào đầu chú bé Hồng những ý nghĩ không tốt về người mẹ của mình với mục đích chia rẽ tình cảm mẹ con.

– Khi trò chuyện cùng Hồng gương mặt và giọng điệu của bà luôn tỏ ra vui vẻ, thân mật nhưng thực chất bên trong thì rất “kịch”

🡺 Bà cô hiện lên là một con người độc ác, dối trá, luôn cố tạo ra một lớp vỏ hoàn hảo nhưng thực bên trong thì hà khắc, thối nát. Bà cô chính là hình ảnh hiện thân cho những hủ tục, lề thói xấu xa trong xã hội phong kiến.

Câu 2.– Khi Hồng nghe được những lời dối trá, xấu xa của bà cô xúc phạm đến mẹ thì bé cúi đầu không đáp, nhận ra ngay những ý nghĩ tanh bẩn bên trong lời nói của bà cô.– Khi gặp mẹ, được nằm trong vòng tay của mẹ kèm theo đó là tiếng gọi “mẹ ơi !” 🡪 khát khao yêu thương, khát khao tình mẹ của chú bé Hồng.– Hình ảnh người mẹ xuất hiện khác hẳn với những gì mà bà cô từng miêu tả. Mẹ không xác xơ, gầy còm, gương mặt mẹ sáng với nước da mịn màng, khuôn miệng xinh xắn và hơi thở thơm tho lạ thường.– Bé Hồng luôn dành tình cảm yêu thương, kính trọng đối với mẹ. Nằm trong vòng tay ấm êm của mẹ, em không còn nghĩ ngợi gì đến những lời nói trước kia của bà cô.

Câu 3.– Đoạn trích “Trong lòng mẹ” là một văn bản giàu chất trữ tình.– Thứ nhất, chất trữ tình có trong tình huống trong truyện – đó là tình mẫu tử thiêng liêng được tác giả miêu tả sâu sắc thông qua dòng tâm trạng của chú bé Hồng với đầy đủ những cung bậc cảm xúc.– Thứ hai, chất trữ tình tạo nên nhờ kết hợp các phương thức biểu đạt như: tự sự, miêu tả, biểu cảm. Cùng với đó là việc vận dụng linh hoạt các thủ pháp nghệ thuật so sánh, liên tưởng độc đáo.

Câu 4. Hồi kí là một thể loại văn học nhằm ghi chép, kể lại những sự việc đã xảy ra trong quá khứ. Tác giả là người chứng kiến, tham gia trực tiếp vào câu chuyện

Câu 5.– Phụ nữ và nhi đồng là 2 mảng đề tài xuyên suốt trong các sáng tác của nhà văn Nguyên Hồng.+ Khi viết về mảng đề tài này Nguyên Hồng không chỉ viết bằng ngòi bút đồng cảm, xót thương đối với số phận bất hạnh của họ mà trên hết ông luôn thể hiện sự trăn trở, nâng niu, trân trọng những con người với phẩm chất tốt đẹp.+ Ông thấu hiểu và cảm thông, am hiểu sâu sắc về phụ nữ và nhi đồng, nhanh chóng nắm bắt những nét tâm lý tình cách của nhân vật trên nhiều phương diện với một giọng văn giàu trực cảm.

Soạn bài Trong lòng mẹ. ngắn 2

Bên cạnh Soạn bài Trong lòng mẹ các em cần tìm hiểu thêm những bài soạn khác trong Ngữ Văn 8 như Soạn bài Trường từ vựng hay phần Soạn bài Bố cục của văn bản nhằm củng cố kiến thức Ngữ Văn 8 của mình.

Soạn bài Trong lòng mẹ. ngắn 3

Câu 1:Sự xuất hiện của nhân vật người cô: Tuy xuất hiện không nhiều, chủ yếu qua một đoạn đối thoại với chú bé, nhưng đây cũn là một nhân vật gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Đây rõ ràng là một nhân vật thâm độc, xảo quyệt, bênh vực và bảo vệ những lề thói tàn nhẫn trong xã hội đương thời. Qua một đoạn văn ngắn, bà cô đã hiện lên khá sống động nhờ nghệ thuật miêu tả hành động, ngôn ngữ và tâm lí nhân vật một cách chân thực của Nguyên Hồng.– Đặc điểm nội bật của con người này là sự tàn nhẫn, độc ác.Cô đã nói bé Hồng về chuyện mẹ bé không phải để động viên, chia sẻ, cảm thông, mà ngược lại, với một mục đích đen tối: Cố ý gieo rắc vào đầu đứa trẻ ngây thơ, tội nghiệp này những hoài nghi để nó “khinh ghét, ruồng rẫy” mẹ.Câu 2:Tình yêu mãnh liệt của chú bé Hồng đối với người mẹ bất hạnh được thể hiện qua:– Mặc dù đã ngót một năm chú bé không nhận được tin tức gì của mẹ, đặc biệt mặc dầu bị bà cô xúc xiểm chia rẽ tình mẹ con, nhưng “tình thương và lòng kính mẹ” của bé Hồng vẫn nguyên vẹn.– Bé Hồng không hề trách mẹn nếu quả là mẹ “đã chửa đẻ với người khác”. Tuy non nớt, nhưng bé hiểu “vì tội góa chồng, vì túng bần quá mà mẹ mình phải bỏ các con đi tha phương cầu thực”.– Khi nghe những lời ngọt ngào, thâm độc của bà cô, bé Hồng chỉ thấy xiết thương mẹ, Hồng căm ghét cực độ những hủ tục đã đày đọa mẹ mình.– Lòng căm nghét của bé Hồng được tác giả diễn đạt bằng những câu văn có nhiều hình ảnh cụ thể, gợi cảm và có nhịp điệu dồn dập như sự uất ức của bé ngày một tăng tiến:– Không những thương mẹ, Hồng còn hiểu nỗi lòng mẹ.Câu 3:Giọng văn của Nguyên Hồng giàu chất trữ tình, bởi:– Trước hết, tình huỗng đặt ra trong câu chuyện dễ làm cho người con oán trách mẹ mình, nhưng tình cảm của người con ở đây không hề một chút mảy may thay đổi; ngược lại, vẫn tràn đầy niềm yêu thương, tin tưởng và còn có mơ ước phá tan mọi cổ tục để cho mẹ không bị đau khổ.– Dòng cảm xúc của nhân vật được thể hiện mãnh liệt qua những chi tiết miêu tả cảm động nghẹn ngào. Sự căm giận, sự xót thương, sự đau khổ và niềm hạnh phúc dường như đều ở đỉnh điểm của tâm trạng.– Cách thể hiện thông qua kết cấu lớp lang, hình ảnh so sánh gây ấn tượng mạnh, giàu sức gợi cảm. Lời văn dạt dào tình cảm.Câu 4: Qua văn bản trích, em hiểu hồi kí là một thể loại ghi lại những điều còn nhớ sau khi đã trải qua, đã chứng kiến sự việc.Câu 5:Văn của Nguyên hồng giàu cảm xúc, ngọt ngào và nhuần nhị rất hợp với những kỉ niệm về mẹ và về tuổi thơ. Ông thường viết về những phụ nữ và trẻ em chịu nhiều đau khổ, bất hạnh (như trong các tác phẩm Những ngày ấu thơ, Bi vỏ, Cửa biển…)“Trong lòng mẹ” là một đoạn trích ngắn gọn gồm ba nhân vật: hai người phụ nữ và một cậu bé trai. Ba nhân vật khác nhau về tính cách nhưng đều đã hiện lên sinh động và đầy ấn tượng dưới ngòi bút của Nguyên Hồng. Đoạn trích chứng tỏ sự am hiểu sắc của nhà văn về phụ nữ và trẻ em. Đặc biệt là sự nắm bắt cá tính và tâm lý.Nhà văn thấu hiểu, đồng cảm cho nỗi bất hạnh của phụ nữ, trẻ nhỏ; đồng thời ca ngợi tâm hồn, đức tính cao quý của họ. Ông luôn lên tiếng bênh vực, bảo vệ người phụ nữ; trân trọng những khao khát muôn đời của trẻ nhỏ được sống trong vòng tay yêu thương, che chở, bao bọc của mẹ.

Cô bé bán diêm là bài học nổi bật trong Bài 6 của chương trình học theo SGK Ngữ Văn 8, học sinh cần Soạn bài Cô bé bán diêm, đọc trước nội dung, trả lời câu hỏi trong SGK.

Ngoài nội dung ở trên, các em có thể tìm hiểu thêm phần Soạn bài Bài toán dân số nhằm chuẩn bị cho bài học này.

Hơn nữa, Soạn bài Chương trình địa phương, phần Văn, bài 14 là một bài học quan trọng trong chương trình Ngữ Văn 8 mà các em cần phải đặc biệt lưu tâm.

https://thuthuat.taimienphi.vn/soan-bai-trong-long-me-38433n.aspx