Ngữ Văn 8: Đọc Hiểu Tác Phẩm “Tức Nước Vỡ Bờ”

Những nội dung cơ bản cần nắm vững

1.1. Ngô Tất Tố là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của trào lưu văn học hiện thực trước cách mạng. Ông nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực: khảo cứu triết học cổ và văn học cổ, viết báo, phóng sự, tiểu thuyết, dịch văn học..,

1.2. Tác phẩm Tắt đèn là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp của Ngô Tất Tố. Qua Tắt đèn, có thể thấy Ngô Tất Tố có thái độ yêu ghét rạch ròi, dứt khoát, sâu sắc và nhất quán của Ngô Tất Tố.

1.3. Đoạn trích Tức nước vỡ bờ cho thấy bộ mặt tàn ác bất nhân của xã hội thực dân phong kiến đương thời đã đẩy người nông dân vào bước đường cùng. Đồng thời, đoạn trích còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nông dân, vừa giàu yêu thương, vừa có sức sống tiềm tàng,mạnh mẽ.

Vài nét về tác giả, tác phẩm

Ngô Tất Tố (1893 – 1954) là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của trào lưu văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám. Ông tham gia, đóng góp ở nhiều lĩnh vực: viết báo, tiểu thuyết, phóng sự, khảo cứu triết học, văn học cổ, dịch thuật văn học… và ở lĩnh vực nào ông cũng gặt hái được những thành công.

Bên cạnh những công trình khảo cứu giá trị, Ngô Tất Tố có một khối lượng bài báo đồ sộ đề cập đến nhiều vấn đề thời sự, xã hội, chính trị. Với một lối viết sắc sảo, điêu luyện, giàu tính chiến đấu, một lập trường dân chủ tiến bộ; một phong cách chuyên nghiệp và một giọng điệu châm biếm “rất” Ngô Tât Tố . Ông đã được coi là “một tay ngôn luận xuất sắc trong đám nhà nho” – Vũ Trọng Phụng.

Rất gần với phong cách báo chí ấy nhưng dài hơi hơn, giàu chất văn học hơn là những thiên phóng sự: “Tập án cái đình” (1939), “Việc làng” (1940); … và khó có thể ngờ được rằng tác giả của những bài phóng sự sắc sảo, đanh thép ấy lại củng chính là người đã dịch những bài thơ Đường cổ điển rất thoát và rất có thần.

Ngô Tất Tố đặc biệt nổi tiếng với tư cách là một nhà văn chuyên viết về đề tài nông thôn và số phận người nông dân dưới chế độ phong kiến, thực dân lúc đó. “Tăt đèn” là tiểu thuyết tiêu biểu, cho mảng đề tài này.

Ngoài ra, Ngô Tất Tố còn có tiểu thuyết “Lều chõng” tái hiện tỉ mỉ, sinh động chế độ thi cử đương thời với một cảm quan phê phán tính chất khắc nghiệt, tiêu cực, phản khoa học của nền giáo dục, khoa cử phong kiến lúc bấy giờ.

“Tắt đèn” có thể coi là tác phẩm tiêu biêu nhất trong sự nghiệp văn học của Ngô Tất TỐ. Lấy đề tài từ một vụ thuế ở một làng quê đồng bằng Bắc Bộ trong những năm 1930 – 1945, cuốn tiểu thuyết vừa phản ánh được nỗi thống khổ của người nông dân vừa lột trần được bộ mặt bất nhân, tàn ác của giai cấp thống trị.

“Tắt đèn” là một bức tranh thu nhỏ của nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với hàng loạt nhân vật điển hình, sinh động. Đó là vợ chồng tên địa chủ keo kiệt, tàn nhẫn; là bọn cường hào tham lam, hống hách; là tên quan bỉ ổi; là những người phụ nữ nông dân bị áp bức, chà đạp đến độ phải vùng lên phản kháng và dù bị vùi dập dưới bùn đen, họ vẫn giữ trọn những phẩm chất đẹp đẽ trong tâm hồn.

Với nghệ thuật tạo tình huống, ngôn ngữ điêu luyện, hình ảnh sinh động, những hình tượng điển hình.,, và một cảm quan hiện thực sâu săc, nhất quán, “Tắt đèn” đã trở thành một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của trào lưu văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám. Cũng chính với tác phẩm này, Ngô Tất Tố được tôn xưng là “Nhà văn của nông dân”.

1. Câu hỏi 1 (GSK, trang 32)

Đọc phần tóm tắt ở đầu đoạn trích trong SGK (phần chữ nhỏ) để xác định tình cảnh chung của chị Dậu trước tình huống xảy ra trong đoạn trích này.

Khi bọn tay sai xông vào nhà chị Dậu, tình thế của chị đang rất nguy khốn: vụ thuế đang ở vào thời điểm gay gắt nhất, bọn tay sai đang dốc sức đốc thúc những người còn nợ SƯU vì quan sắp về làng thu thuế. Nhà chị Dậu thuộc dạng “cùng đinh”, đã phải chạy vạy hết cách, kể cả là bán con, bán chó mà vẫn chưa đủ tiền nộp SƯU. Anh Dậu bị bắt trói, cùm kẹp đến rũ rượi mới được thả về… Cả nhà đã nhịn đói mấy ngày, vừa mới được bà hàng xóm tốt bụng cho bát gạo để nấu cháo cầm hơi…

Khi bọn cai lệ, ngưòi nhà lí trưởng xông vào, chị Dậu bị đẩy vào một tình thê vô cùng nguy cấp: không có cách gì chạy tiền nộp SƯU mà nếu để anh Dậu bị bắt trói một lần nữa thì mạng sống khó mà giữ được… Hoàn cảnh bế tắc như không lối thòát.

2. Câu hỏi 2 (SGK, trang 32)

Phân tích nhân vật trên cơ sở gợi ý của SGK. Em có nhận xét gì về nghệ thuật khắc hoạ nhân vật của tác giả: ngoại hình, hành động, ngôn ngữ của nhân vật được thể hiện như thế nào?

Cai lệ là viên chỉ huy một tốp lính lệ (lính phục vụ, hầu hạ nơi quan nha). Đây là viên chỉ huy cấp thấp nhất trong quân đội của chế độ thực dân phong kiến. Vối chức danh ấy, cai lệ hoàn toàn chỉ là một công cụ, tay sai không hơn không kém. Nhưng đây lại là một công cụ chuyên dụng, một công cụ bằng sắt.

Dù là một tên tay sai mạt hạng hắn cũng có quyền đánh trói người vô tội vạ bởi hắn đại diện cho “nhà nước”, cái nhà nước phong kiến – thực dân tàn bạo chà đạp lên quyền sống của ngưòi nông dân. Thực tế ấy được bộc lộ qua lòi cay đắng của anh Dậu: “Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta thì phải tù, phải tội”.

Chỉ trong một đoạn trích ngắn ngủi, Ngô Tất Tố đã xây dựng được một hình tượng nhân vật cai lệ rất điển hình với tính cách đậm nét và nhất quán. Những chi tiết miêu tả hành động của hắn “sầm sập tiến vào”; “trợn ngược hai mắt”; “đùng đùng giật phắt cái thừng”; “bịch luôn vào ngực chị Dậu”; “Sấn đến để tóm anh Dậu”; “Tát vào mặt chị Dậu đánh bốp”… cùng thống nhất thể hiện bản chất lỗ mãng, hung hăng, độc ác của hắn. Khi bản chất ấy lộ ra, người ta không còn ngạc nhiên khi thấy tên cai lệ này dưòng như không nghe được tiếng nói con người, không mảy may đếm xỉa đến lời van xin, giãi bày của chị Dậu, và cũng không nói được tiếng ngươi, chỉ thấy hắn “quát”, “thét”, “hầm hè”, “nham nhảm”.

Tác giả đã để chị Dậu đối đáp với cai lệ một vài câu và chỉ qua ngần ấy câu thôi, sự lỗ mãng, thô bạo của cai lệ một lần nữa được khẳng định. Lời giãi bày của chị Dậu càng lễ phép, có lí, có tình bao nhiêu thì lời đáp của cai lệ càng thô tục, hung hãn bấy nhiêu: “Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất!”; “Nếu không có tiền nộp SƯU cho ông bây giờ, thì ông sẽ dỡ cả nhà mày đi, chửi mắng thôi à!”.

Với tên tay sai mẫn cán, đắc lực của giai cấp thông trị này, lòng trắc ẩn là một khái niệm không tồn tại. Hắn sẵn sàng thẳng tay đánh một người phụ nữ, sẵn sàng bắt trói một ngưòi ốm nặng đến độ không còn sức chống cự, thậm chí đến mạng sống cũng còn khó giữ. Hắn sẵn sàng dỡ nhà, cắm đất, đẩy một gia đình tới bước đưòng cùng chỉ nhằm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Như vậy, từ ngôn ngữ, cử chỉ đến hành động bủa cai lệ đều thể hiện một bản chất tàn bạo, phi nhân tính của hắn.

Đồng thời, như trên đã nói, cai lệ hành động vối tư cách là ngưòi thừa hành công vụ, là người nhà nước, do đó, hắn chính là đại diện tiêu biểu cho chê độ ấy. Bản chất tàn bạo của hắn cũng chính là bản chất tàn bạo của xã hội thực dân nửa phong kiến. Xét ở bình diện này, nhân vật cai lệ đã có một ý nghĩa khái quát hoá cao, là hiện thân sinh động của giai cấp thống trị nói chung, hệ thông địa chủ – cưòng hào ác bá ở nông thôn Việt Nam nói riêng lúc bấy giờ.

3. Câu hỏi 3 (SGK, trang 33)

Đọc lướt toàn đoạn trích, chú ý sự thay đổi trong cách xưng hô, giọng điệu, hành động của chị Dậu. Suy nghĩ giải thích căn nguyên của những hành động ấy.

Trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”, chị Dậu được đặt vào một tình thế đặc biệt nguy khốn (đã phân tích ở Câu 1). Đó là một hoàn cảnh điển hình, thòi điểm mà tính cách nhân vật được bộc lộ rõ ràng và đầy đủ nhất.

Mở đầu đoạn trích, chị Dậu hiện lên với dáng vẻ của một ngựời vợ nghèo hiền hậu, yêu thương chồng con. Hành động lấy quạt, quạt cho cháo chóng nguội, “rón rén bưng một bát lớn đến chỗ chồng nằm”, “đón lấy cái Tỉu và ngồi xuống đó như có ý chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không”, giọng dịu dàng, lo lắng nói vối chồng… đều thể hiện điều đó.

Khi bọn cai lệ và người nhà lí trưởng sầm sập tiến vào, chị đã van xin tha thiết. Dáng điệu run run, cách xưng hô cháu – ông, sắc mặt xám lại, lời lẽ quỵ luỵ… của chị đã cho thấy thân phận thấp cổ bé họng của người nông dân xưa. Họ bị áp bức đến độ phải nhẫn nhục chịu đựng, đến độ phải van xin cả những kẻ tay sai mạt hạng nhất của bọn quan lại. Nhưng những lời van xin tha thiết của chị không được đếm xỉa. Đến khi cai lệ “bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi sấn đến để trói anh Dậu”, chị đã “liều mạng cự lại”: “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ”. Hành động “cự lại” của chị lúc này vẫn chỉ là bằng lí lẽ. Chị nói đến cái lí đương nhiên trong cuộc sông, cái đạo lí tôi thiểu trong phép ứng xử giữa người với người. Chị không xưng “cháu” nữa mà xưng “tôi”. Bằng sự thay đổi đó, chị đã đứng thẳng lên, có vị thế ngang hàng với cai lệ. Nhưng rồi lí lẽ cũng chẳng ăn thua. Cai lệ vẫn tàn nhẫn thẳng tay “tát vào mặt chị một cái đánh bốp rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh Dậu”, chị đã vùng lên: “Chị Dậu nghiến hai hàm rằng: – Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Dương như sự tức giận, phẫn uất đã lên đến cao độ. Chị Dậu không còn ý thức kìm chế theo thân phận bị áp bức của mình nữa mà đã tự xưng là “bà”, gọi cai lệ là “mày”. Cách xưng hô ấy, câu nói hết sức “đanh đá” ấy cho thấy sự căm giận ngùn ngụt của chị. Vị thế giữa chị và cai lệ đã bị đảo ngược. Chị không còn là một người phụ nữ yếu đuôi, bé mọn nữa mà đang nhìn bọn tay sai với tư thê của người trên.

Cảnh tượng chị Dậu quật ngã cai lệ và người nhà lí trưởng thể hiện sức mạnh ghê gớm tiềm ẩn bên trong ngưòi phụ nữ “lực điền”. Đôi lập với bộ dạng thảm hại của hai tên tay sai, hình ảnh chị Dậu nổi bật lên với tư thế ngang tàng của ngưòi dám đứng lên tự bảo vệ lẽ công bằng cho bản thân và cho những ngưòi thương yêu. Sức mạnh ấy phải chăng chính là sức mạnh của lòng yêu thương? Sự thay đổi thái độ của chị Dậu, hành động bất ngờ, quyết liệt của chị do bị o bê quá mà thành “tức nước vỡ bò”. Dù là van xin, dù là cãi lí hay phản kháng… cũng chỉ là các cách khác nhau để bảo vệ người chồng ốm yếu trong tình thế nguy kịch. Hiểu như thế chúng ta mới thấy hành động quyết liệt, giọng điệu đanh đá của chị Dậu ở đoạn sau không hề mâu thuẫn với thái độ dịu dàng, nhẫn nhịn, lo lắng ở đoạn đầu, thậm chí còn bổ sung, thông nhất với nhau. Đơn giản vì đó là những biểu hiện khác nhau của một tấm lòng yêu thương chồng con rất mực.

Như vậy, nhân vật chị Dậu đã được xây dựng như một tính cách đa diện: hiền dịu, hi sinh nhưng không hề yếu đuối mà vẫn tiềm tàng một tinh thần phản kháng, một sức sống mạnh mẽ. Chị đã nhận thức được sự bất công và không chấp nhận: “Thà ngồi tù. Để chúng nó. làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…”. Mặc dù, hành động của chị Dậu có tính chất bột phát, chưa giải quyết được vấn đề (sau đoạn này, cả nhà chị Dậu vẫn bị trói, điệu ra đình làng) nhưng đã khẳng định được sức mạnh tiềm tàng của người nông dân, ý thức của họ về sự bất công và báo trước một xu thế tất yếu sẽ xảy ra theo quy luật “Con giun xéo lắm cũng quằn”.

4. Câu hỏi 4 (SGK, trang 33)

Cần hiểu ý nghĩa của thành ngữ “Tức nước vỡ bờ” dựa vào nội dung đoạn trích để tìm ra những lí do dẫn đến việc đặt tiêu đề đó.

Nhan đề “Tức nước vỡ bờ” đặt cho đoán trích này rất thoả đáng. Trước hết, đây là một thành ngữ dân gian; với đặc điểm súc tích, giàu ý nghĩa của những cụm từ cấu trúc kiểu này, nhan đề “Tức nước vỡ bờ” vừa thông nhất, vừa bổ sung, làm nổi bật ý nghĩa của đoạn trích.

Thành ngữ “Tức nước vỡ bờ” là một kinh nghiệm mà ông cha ta đã đúc kết, nêu lên một chân lí khách quan: Một sự vật khi bị dồn nén đến một mức độ nhất định tất yếu sẽ phá vỡ khuôn khổ ấy. Có thể nói hành động của chị Dậu được thể hiện trong đoạn trích chính là điểm gặp gỡ giữa Ngô Tất Tô” và tư tưởng người xưa khi cùng thể hiện lôgíc cuộc sống: có áp bức tất có đấu tranh. Rõ ràng, bằng cảm quan hiện thực của mình, nhà văn đã nhận thức được xu hướng tất yếu của thời đại: Người nông dân bị chà đạp, áp bức quá tất sẽ vùng lên đấu tranh. Không chỉ thế, Ngô Tất Tố còn dự đoán trước được sức mạnh phản kháng sẽ vô cùng mạnh mẽ. Dù chưa vạch ra con đưòng đấu tranh tự giác mà sau này Cách mạng tháng Tám đã vạch ra cho nhân dân ta, nhưng với những nhận thức biện chứng, tiến bộ ấy, Ngô Tất Tố đã có một nền tảng để vững vàng đón nhận ánh sáng của Đảng, giác ngộ và hướng ngòi bút theo Cách mạng tháng Tám trong giai đoạn về sau.

5. Câu hỏi 5 (SGK, trang 33)

Chứng minh nhận định trên dựa trên cơ sở tìm hiểu việc tạo dựng tình huống, việc miêu tả ngoại hình, hành động, ngôn ngữ, tâm lí nhân vật, nghệ thuật kể chuyện, ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ đôi thoại trong đoạn văn ấy.

Đọc đoạn văn “Tức nước vỡ bờ”, chúng ta có cảm giác như đang xem một vở kịch ngắn, trong đó đoạn chị Dậu đánh nhau với hai tên tay sai chính là phần mở nút. Tính kịch không chỉ được thể hiện ở chỗ tác giả chú trọng đến ngôn ngữ đốì thoại, hành động, cử chỉ của nhân vật mà chủ yếu là ở tài tạo lập tình huống, dàn dựng các chi tiết, thúc đẩy sự kiện diễn biến theo một chiều hướng đầy kịch tính. Phải chăng vì lẽ đó, nhà nghiên cứu phê bình văn học Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: “Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo”?

Trước hết, cái “khéo” của Ngô Tất Tố là đã đấy nhân vật vào một tình huống mà mâu thuẫn đã đạt đến độ gay gắt, đòi hỏi phải được giải quyết: chị Dậu phải tìm mọi cách để đối phó với tên cai lệ và ngưòi nhà lí trưởng, bảo vệ tính mạng cho ngươi chồng đau ốm. Hoàn cảnh điển hình ấy là điều kiện tiên quyết để một nhân vật được nâng lên thành tính cách điển hình.

Trong đoạn trích, ngôn ngữ đốì thoại trở thành một phương tiện hữu hiệu để tác giả khắc hoạ tính cách nhân vật. Đối lập với những lòi nói có lí, có tình của chị Dậu, thì ngôn ngữ thô tục, lỗ mãng của tên cai lệ không thể lẫn và che giấu được một bản chất tàn ác, bất nhân.

Đặc biệt, ngôn ngữ tác giả với giọng điệu châm biếm đã tạo nên vẻ đa diện, sự cuốn hút của đoạn văn. Ngô Tất Tố đã miêu tả cảnh tượng chị Dậu quật ngã hai tên tay sai một cách sinh động với giọng điệu hài hước ấy. Tiếng cười hả hê của ngưòi đọc bật lên khi được chứng kiến sự đối lập giữa một bên là chị Dậu với tư thế ngang tàng, sức mạnh ghê gớm và một bên là bộ dạng thảm hại của hai tên tay sai. Tên cai lệ “lẻo khoẻo” bị chị Dậu “túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa”, “ngã chổng quèo trên mặt đất”, còn tên ngưòi nhà lí trưởng cũng chẳng khá hơn, bị “túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm”. Sự hài hước còn toát lên ở chỗ, vừa ngay trước khi bị “chị chàng con mọn” làm cho bẽ mặt, cai lệ và tên ngưòi nhà lí trưởng còn hùng hổ, dữ tợn, tay gậy, tay thước doạ nạt chị. Lúc đó, chúng hung hăng bao nhiêu thì giờ đây chúng thảm bại, tơi tả bấy nhiêu. Trong vài dòng miêu tả, Ngô Tất Tô đã thực hiện việc mở nút “vở kịch” của mình một cách “tuyệt khéo”: các hành động dồn dập nhưng không rối, trái lại, rất rõ nét, đầy đủ, không thừa, không thiếu. Nhờ thế, Ngô Tất Tô” đã “làm cho độc giả hả hê một chút sau khi đọc những trang rất buồn thảm” (Vũ Ngọc Phan). Đó là sự hả hê khi được chứng kiến sự thất bại thảm hại của cái xấu, cái ác trong xã hội xưa.

Chúng ta cũng không thể không nói đến nghệ thuật xây dựng nhân vật qua việc khắc hoạ diễn biến tâm lí rất tiêu biểu của Ngô Tất Tô trong đoạn văn này. Thái độ, tâm trạng, kéo theo hành động của chị Dậu thay đổi từ chỗ dịu dàng, nhún nhường, nín nhịn, lễ phép, thậm chí quỵ luỵ đến chỗ cứng cỏi, đanh thép và cuôì cùng là quyết liệt, ghê gớm. Diễn biến ấy được miêu tả chân thực, sinh động và hợp lôgíc. Nó khiến cho tính cách nhân vật trở nên đa dạng mà vẫn nhất quán, giàu tính hiện thực.

Như vậy, với sự tài tình trên mọi phương diện (nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật tao dựng tình huống, ngôn ngữ…), Ngô Tất Tô đã rất thành công trong đoạn trích này nội riêng và trơng tiểu thuyêt “Tắt đèn” nói chung. Đến đây, có thể khẳng định rằng lòi nhận xét của Vũ Ngọc Phan về đoạn văn là hoàn toàn xác đáng.

6. Câu hỏi 6 (SGK, trang 33)

Giải thích nhận xét của Nguyễn Tuân trước khi đi vào chứng minh. Đặt tác phẩm trong bối cảnh ra đòi để hiểu hơn ý nghĩa “xui người nông dân nổi loạn” của tiểu thuyết này.

Như Nguyễn Tuân đã nhận xét, vối tác phẩm “Tắt đèn”, Ngô Tất Tô” đã “xui ngưòi nông dân nổi loạn”. Điều đó có nghĩa là khẳng định giá trị hiện thực và khả năng tác động mạnh mẽ của tác phẩm này. Với cuốn tiểu thuyết của mình, Ngô Tất Tố đã phơi bày bộ mặt xấu xa, đê tiện của bọn địa chủ, cường hào ác bá; đã chỉ ra cho người nông dân thấy rằng cuộc sông của họ đã khổ quá rồi và họ chỉ còn cách phải đấu tranh, không thể chịu đựng hơn được nữa; đồng thòi nhắc họ rằng trong con người họ đang tiềm tàng một sức mạnh ghê gớm cần được phát huy.

Chỉ riêng đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” cũng bao hàm đầy đủ những giá trị đó.

Qua tình huống giằng co giữa một bên là gia đình chị Dậu nghèo xác xơ, không có tiền đóng thuế, đang bị đẩy đến bước đường cùng với một bên là những kẻ đốc thúc, thu thuế cho bằng được; tác giả đã phơi bày bộ mặt tàn ác, bất nhân của bọn tay sai nói riêng, của chế độ xã hội đương thời nói chung. Đọc lên, chúng ta không thể không căm giận trước cái ác nghiễm nhiên hoành hành như thế. Bên cạnh đó, tình cảnh khổ sở của gia đình chị Dậu không chỉ khơi gợi niềm cảm thương mà chắc chắn còn khiến độc giả thời đó tự nhìn nhận, ý thức sâu sắc hơn nữa cảnh ngộ của chính mình hay những người xung quanh mình. Quan trọng hơn cả, bằng hành động phản kháng quyết liệt của chị Dậu và sự chiến thắng của chị, tư thế của chị; tác giả đã khẳng định một chân lí cuộc sông “Tức nước vỡ bờ”, đã dự báo xu thế đấu tranh tất yếu của ngưòi dân bị áp bức. Đồng thời, khẳng định sức mạnh tiềm tàng của họ. Một khi người ta đã ý thức được nỗi khổ của mình, ý thức được nguyên nhân nỗi khổ, ý thức được vũ khí, sức mạnh mà họ có, lẽ đương nhiên người ta sẽ đấu tranh. Nói Ngô Tất Tô” đã “xui người nông dân nổi loạn”, chính là vì thế!

Giá trị đặc sắc hơn cả của “Tắt đèn” là ở chỗ đã xây dựng được một điển hình chân thực, đẹp đẽ, khoẻ mạnh về ngưòi phụ nữ nông dân lao động. Qua nhân vật chị Dậu, tác giả không những thấu hiểu nỗi thông khổ của ngưòi nông dân bị áp bức bóc lột mà còn khang định phẩm chất đẹp đẽ ỏ họ, không gì có thể vùi dập. Tác phẩm có những trang thật cảm động, miêu tả nỗi lòng người mẹ, người vợ của chị Dậu. Chị còn là một phụ nữ lao động đảm đang, tháo vát, thông minh. Sống trong nghèo khổ, chị vẫn có một ý thức về nhân phẩm trong trắng mà mạnh mẽ, tiền tài không thể làm vẩn đục, bạo lực không thể khuất phục. Chị Dậu rất mực dịu hiền nhưng không hề yếu đuôi. Khi cần, chị phản kháng dũng cảm, thể hiện một sức sống kiên cường, bất khuất của người nông dân Việt Nam.

Tác Phẩm: Tức Nước Vỡ Bờ (Trích “Tắt Đèn”)

Nội dung

(Mở đầu tác phẩm là không khí căng thẳng, ngột ngạt của một làng quê trong những ngày sưu thuế. Tiếng trống mõ, tù và inh ỏi, tiếng thét lác, đánh đập, tiếng kêu khóc vang lên như trong một cuộc săn người. Gia đình chị Dậu thuộc loại “nhất nhì trong hạng cùng đinh” nên mấy hôm nay chị phải chạy vạy ngược xuôi để có tiền nộp suất sưu cho anh Dậu. Anh Dậu đang ốm cũng bị bọn tay sai xông đến đánh trói, lôi ra đình cùm kẹp. Chị đành phải rứt ruột đem cái Tí, đứa con gái đầu lòng 7 tuổi, bán cho lão Nghị Quế bên thôn Đoài. Ngờ đâu chị lại còn buộc phải nộp cả suất sưu của người em chồng đã chết từ năm ngoái! Thật là cùng đường. Giữa đình làng, tiếng kêu uất ức của chị vang lên thảm thiết. Đêm hôm ấy, người ta cõng anh Dậu rũ rượi như một xác chết ở ngoài đình về trả cho chị. Gọi mãi anh không tỉnh chị vô cùng hoảng sợ, đau đớn. May sao, nhờ bà con xung quanh xúm đến cứu giúp, anh Dậu đã từ từ mở mắt. Một bà lão hàng xóm ái ngại cảnh cả nhà chị nhịn đói suốt từ hôm qua, mang đến cho chị bát gạo để nấu cháo…) Cháo chín, chị Dậu bắc mang ra giữa nhà, ngả mâm bát múc ra la liệt. Rồi chị lấy quạt quạt cho chóng nguội. Tiếng trống và tiếng tù và[1](!) đã thủng thẳng đua nhau từ phía đầu làng đến đình. Tiếng chó sủa vang các xóm. Bà lão láng giềng lại lật đật chạy sang: – Bác trai đã khá rồi chứ? – Cảm ơn cụ, nhà cháu đã tỉnh táo như thường. Nhưng xem ý hãy còn lề bề lệt bệt[2] chừng như vẫn mỏi mệt lắm. – Này, bảo bác ấy có trốn đi đâu thì trốn. Chứ cứ nằm đấy, chốc nữa họ vào thúc sưu[3], không có, họ lại đánh trói thì khổ. Người ốm rề rề như thế, nếu lại phải một trận đòn, nuôi mấy tháng cho hoàn hồn.

– Vâng, cháu cũng đã nghĩ như cụ. Nhưng để cháo nguội, cháu cho nhà cháu ăn lấy vài húp cái đã. Nhịn suông từ sáng hôm qua tới giờ còn gì. – Thế thì phải giục anh ấy ăn mau đi, kẻo nửa người ta sắp sửa kéo vào rồi đấy! Rồi bà lão lật đật trở về với vẻ mặt băn khoăn. Cháo đã hơi nguội. Thằng Dần vục đầu vừa thổi vừa húp soàn soạt. Chị Dậu rón rén bưng một bát lớn đến chỗ chồng nằm: – Thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột. Rồi chị đón lấy cái Tỉu và ngồi xuống đó như có ý chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không. Anh Dậu uốn vai ngáp dài một tiếng. Uể oải, chống tay xuống phản, anh vừa rên vừa ngỏng đầu lên. Run rẩy cất bát cháo, anh mới kề vào đến miệng, cai lệ[4] và người nhà lí trưởng đã sầm sập tiến vào với những roi song, tay thước[5] và dây thừng. Gõ đầu roi xuống đất, cai lệ thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều xái(6) cũ: – Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau! Hoảng quá, anh Dậu vội để bát cháo xuống phản và lăn đùng ra đó, không nói được câu gì. Người nhà lí trưởng cười một cách mỉa mai: – Anh ta lại sắp phải gió[6] như đêm qua đấy! Rồi hắn chỉ luôn vào mặt chị Dậu: – Chị khất tiền sưu đến chiều mai phải không? Đấy! Chị hãy nói với ông cai, để ông ấy ra đình kêu với quan cho! Chứ ông lí tôi thì không có quyền dám cho chị khất một giờ nào nữa! Chị Dậu run run: – Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bễ[7] tiền sưu của nhà nước đâu? Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất…

Cai lệ không để cho chị được nói hết câu, trợn ngược hai mắt, hắn quát: – Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất! Chị Dậu vẫn thiết tha: – Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại! Cai lệ vẫn giọng hầm hè: – Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thì ông sẽ dỡ cả nhà mày đi, chửi mắng thôi à! Rồi hắn quay ra bảo anh người nhà lí trưởng: – Không hơi đâu mà nói với nó, trói cổ thằng chồng nó lại, điệu ra đình kia! Người nhà lí trưởng hình như không dám hành hạ một người ốm nặng, sợ hoặc xảy ra sự gì, hắn cứ lóng ngóng ngơ ngác, muốn nói mà không dám nói. Đùng đùng, cai lệ giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu. Chị Dậu xám mặt, vội vàng đặt con xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay hắn: – Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho! -Tha này! Tha này! Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu. Hình như tức quá không thể chịu được, chị Dậu liều mạng cự lại: – Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ! Cai lệ tát vào mặt chị một cái đánh bốp, rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh Dậu. Chị Dậu nghiến hai hàm răng:

– Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem! Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khoẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền[8], hắn ngã chỏng quèo[9] trên mặt đất, miệng vẫn nham nhảm thét đòi trói vợ chồng kẻ thiếu sưu. Người nhà lí trưởng sấn sổ bước đến giơ gậy chực đánh chị Dậu. Nhanh như cắt, chị Dậu nắm ngay được gậy của hắn. Hai người giằng co nhau, du đẩy nhau, rồi ai nấy đều buông gậy ra, áp vào vật nhau. Hai đứa trẻ con kêu khóc om sòm. Kết cục, anh chàng “hầu cận[10] ông lí” yếu hơn chị chàng con mọn, hắn bị chị này túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm. Anh Dậu sợ quá muốn dậy can vợ, nhưng mệt lắm, ngồi lên lại nằm xuống vừa run vừa kêu: – U nó không được thế! Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta thì mình phải tù, phải tội. Chị Dậu vẫn chưa nguôi cơn giận: – Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội[11] mãi thế, tôi không chịu được…

(Mở đầu tác phẩm là không khí căng thẳng, ngột ngạt của một làng quê trong những ngày sưu thuế. Tiếng trống mõ, tù và inh ỏi, tiếng thét lác, đánh đập, tiếng kêu khóc vang lên như trong một cuộc săn người. Gia đình chị Dậu thuộc loại “nhất nhì trong hạng cùng đinh” nên mấy hôm nay chị phải chạy vạy ngược xuôi để có tiền nộp suất sưu cho anh Dậu. Anh Dậu đang ốm cũng bị bọn tay sai xông đến đánh trói, lôi ra đình cùm kẹp. Chị đành phải rứt ruột đem cái Tí, đứa con gái đầu lòng 7 tuổi, bán cho lão Nghị Quế bên thôn Đoài. Ngờ đâu chị lại còn buộc phải nộp cả suất sưu của người em chồng đã chết từ năm ngoái! Thật là cùng đường. Giữa đình làng, tiếng kêu uất ức của chị vang lên thảm thiết. Đêm hôm ấy, người ta cõng anh Dậu rũ rượi như một xác chết ở ngoài đình về trả cho chị. Gọi mãi anh không tỉnh chị vô cùng hoảng sợ, đau đớn. May sao, nhờ bà con xung quanh xúm đến cứu giúp, anh Dậu đã từ từ mở mắt. Một bà lão hàng xóm ái ngại cảnh cả nhà chị nhịn đói suốt từ hôm qua, mang đến cho chị bát gạo để nấu cháo…)Cháo chín, chị Dậu bắc mang ra giữa nhà, ngả mâm bát múc ra la liệt. Rồi chị lấy quạt quạt cho chóng nguội.Tiếng trống và tiếng tù và(!) đã thủng thẳng đua nhau từ phía đầu làng đến đình.Tiếng chó sủa vang các xóm.Bà lão láng giềng lại lật đật chạy sang:- Bác trai đã khá rồi chứ?- Cảm ơn cụ, nhà cháu đã tỉnh táo như thường. Nhưng xem ý hãy còn lề bề lệt bệtchừng như vẫn mỏi mệt lắm.- Này, bảo bác ấy có trốn đi đâu thì trốn. Chứ cứ nằm đấy, chốc nữa họ vào thúc sưu, không có, họ lại đánh trói thì khổ. Người ốm rề rề như thế, nếu lại phải một trận đòn, nuôi mấy tháng cho hoàn hồn.- Vâng, cháu cũng đã nghĩ như cụ. Nhưng để cháo nguội, cháu cho nhà cháu ăn lấy vài húp cái đã. Nhịn suông từ sáng hôm qua tới giờ còn gì.- Thế thì phải giục anh ấy ăn mau đi, kẻo nửa người ta sắp sửa kéo vào rồi đấy!Rồi bà lão lật đật trở về với vẻ mặt băn khoăn.Cháo đã hơi nguội.Thằng Dần vục đầu vừa thổi vừa húp soàn soạt. Chị Dậu rón rén bưng một bát lớn đến chỗ chồng nằm:- Thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột.Rồi chị đón lấy cái Tỉu và ngồi xuống đó như có ý chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không.Anh Dậu uốn vai ngáp dài một tiếng. Uể oải, chống tay xuống phản, anh vừa rên vừa ngỏng đầu lên. Run rẩy cất bát cháo, anh mới kề vào đến miệng, cai lệvà người nhà lí trưởng đã sầm sập tiến vào với những roi song, tay thướcvà dây thừng.Gõ đầu roi xuống đất, cai lệ thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều xái(6) cũ:- Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!Hoảng quá, anh Dậu vội để bát cháo xuống phản và lăn đùng ra đó, không nói được câu gì. Người nhà lí trưởng cười một cách mỉa mai:- Anh ta lại sắp phải giónhư đêm qua đấy!Rồi hắn chỉ luôn vào mặt chị Dậu:- Chị khất tiền sưu đến chiều mai phải không? Đấy! Chị hãy nói với ông cai, để ông ấy ra đình kêu với quan cho! Chứ ông lí tôi thì không có quyền dám cho chị khất một giờ nào nữa!Chị Dậu run run:- Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bễtiền sưu của nhà nước đâu?Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất…Cai lệ không để cho chị được nói hết câu, trợn ngược hai mắt, hắn quát:- Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất!Chị Dậu vẫn thiết tha:- Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại!Cai lệ vẫn giọng hầm hè:- Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thì ông sẽ dỡ cả nhà mày đi, chửi mắng thôi à!Rồi hắn quay ra bảo anh người nhà lí trưởng:- Không hơi đâu mà nói với nó, trói cổ thằng chồng nó lại, điệu ra đình kia!Người nhà lí trưởng hình như không dám hành hạ một người ốm nặng, sợ hoặc xảy ra sự gì, hắn cứ lóng ngóng ngơ ngác, muốn nói mà không dám nói. Đùng đùng, cai lệ giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu.Chị Dậu xám mặt, vội vàng đặt con xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay hắn:- Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!-Tha này! Tha này!Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu.Hình như tức quá không thể chịu được, chị Dậu liều mạng cự lại:- Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!Cai lệ tát vào mặt chị một cái đánh bốp, rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh Dậu.Chị Dậu nghiến hai hàm răng:- Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khoẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèotrên mặt đất, miệng vẫn nham nhảm thét đòi trói vợ chồng kẻ thiếu sưu.Người nhà lí trưởng sấn sổ bước đến giơ gậy chực đánh chị Dậu. Nhanh như cắt, chị Dậu nắm ngay được gậy của hắn. Hai người giằng co nhau, du đẩy nhau, rồi ai nấy đều buông gậy ra, áp vào vật nhau. Hai đứa trẻ con kêu khóc om sòm. Kết cục, anh chàng “hầu cậnông lí” yếu hơn chị chàng con mọn, hắn bị chị này túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.Anh Dậu sợ quá muốn dậy can vợ, nhưng mệt lắm, ngồi lên lại nằm xuống vừa run vừa kêu:- U nó không được thế! Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta thì mình phải tù, phải tội.Chị Dậu vẫn chưa nguôi cơn giận:- Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tộimãi thế, tôi không chịu được…

Tìm Hiểu Chung Về Tác Phẩm Tức Nước Vỡ Bờ

1. Tìm hiểu chung

a. Xuất xứ

– Tức nước vỡ bờ là đoạn trích thuộc chương XVIII của tiểu thuyết Tắt đèn. Đây là tác phẩm tiêu biểu nhất của Ngô Tất Tố, và cũng là một trong những tác phẩm xuất sắc của văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.

b. Tóm tắt

       Gia đình anh Dậu nghèo khổ không có tiền nộp sưu. Anh Dậu vì thiếu sưu mà bị lôi ra đình đánh đập và khi được trả về chỉ còn là một thân xác rũ rượi. Đươc bà hàng xóm cho bát gạo, chị Dậu nấu cháo cho anh Dậu ăn. Nhưng anh chưa kịp ăn thì tên cai lệ và người nhà lí trưởng đến đòi sưu. Chị Dậu van xin chúng tha cho anh Dậu nhưng chúng không nghe mà còn đánh chị và sấn đến định trói anh Dậu mang đi. Quá phẫn nộ, chị đã liều cự lại và chống trả quyết liệt, quật ngã hai tên tay sai.

c. Bố cục: 2 phần

-Phần 1 (từ đầu… “ăn có ngon miệng hay không”): Cảnh chị Dậu chăm sóc chồng.

-Phần 2 (còn lại): Cảnh chị Dậu phản kháng.

2. Giá trị nội dung và nghệ thuật:

a. Giá trị nội dung

Vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân phong kiến đương thời; xã hội ấy đã đẩy người nông dân vào tình cảnh khổ cực, khiến họ phải liều mạng chống lại. Đoạn trích còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân, vừa giàu tình yêu thương vừa có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.

b. Giá trị nghệ thuật

– Tình huống truyện đặc sắc, có kịch tính cao.

– Cách kể chuyện, miêu tả nhân vật chân thực, sinh động. Nghệ thuật tương phản làm nổi bật tính cách nhân vật.

– Ngòi bút hiện thực sinh động, ngôn ngữ đối thoại đặc sắc.

Văn Bản “Tức Nước Vỡ Bờ”

Nhớ lại, đúng là tội thật. Bọn cường hào, ác bá ngày đó lộng hành quá, chúng hạch sách, sách nhiễu người dân đủ điều. Sưu cao thuế nặng và bao nhiêu thứ oan khiên khác cứ mặc tình mà đổ xuống đầu những người nông dân hiền lành, chất phác, và nghèo đến cực cùng. Ca dao Việt Nam có câu:

Con ơi nhớ lấy lời này, Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.

Không có gì ******** hơn và đáng lên án hơn khi mà chính chúng – những tên quan tham ô lại – thay vì làm nhiệm vụ “dân chi phụ mẫu” (đối xử với dân như bậc cha mẹ lo cho con cái) thì chúng lại lợi dụng chức quyền của mình để bòn rút những đồng tiền vốn đã còm cõi của những người nông dân chân lấm, tay bùn, suốt tháng quanh năm bán lưng cho trời, bán mặt cho đất.

Cướp! Chúng cướp hết! Bằng đủ mọi hình thức. Chị Dậu chạy đôn, chạy đáo bán tất cả mọi thứ mới đủ nộp suất thuế thân cho chồng, lại bị chúng buộc đóng thêm suất thuế cho người chết. Chết rồi mà vẫn phải đóng thuế! Nỗi oan rành rành ra đó mà chẳng thể nào giải được. Bao lần lên phủ, lên huyện ăn chực, nằm chờ để kêu oan, nhưng có ai nghe đâu mà kêu với réo. Chị quay về mái nhà tranh nhìn người chồng đã bị bọn chúng đánh đập dã man đến mang bệnh mà cảm thấy bất lực, không biết làm sao để thoát ra khỏi được cái bế tắc của cuộc đời mình.

Và đấy là đoạn mà giọng thầy đã nghẹn lại, gần như khóc: Đến người bệnh chúng cũng chẳng tha, nhà chị đã trống quơ, trống hoác, chẳng còn lại gì, mà một lũ ác ôn đầu trâu, mặt ngựa vẫn cứ nhất quyết xông vào để vơ vét. Cái hình ảnh cả một bọn cai lệ hung hãn, hách dịch, ỷ đông hè nhau xông vào để trấn áp một chị nông dân cô lẻ đã làm bật lên những tiếng thét gào cùng cực cho những phận người quá rẻ rúng, đã trót sống phải nhằm thời kỳ mạt vận, khi mà bọn cường quyền gian ác cấu kết với nhau và không từ bất cứ thủ đoạn nào để vơ vét làm giàu trên những cái xác khô cằn của đồng loại.

Con giun xéo mãi cũng quằn. “Tức nước” ắt “vỡ bờ”. Người đàn bà lực điền ấy, cuối cùng, nghiến chặt hai hàm răng lại và bật lên tiếng thách thức đầy phẫn nộ: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem”. Rồi chị túm cổ tên cai lệ ấn giúi ra phía cửa. “Đó là một kết cuộc tất yếu cho mọi đè ép, bất công quá mức trong cuộc đời này.” Tôi vẫn còn nhớ đó là câu nói sau cùng thầy nói trước khi trao trả bài luận viết lại cho tôi. Sự bất mãn và tức giận vẫn còn hằn sâu trên gương mặt thầy. Thầy tôi vốn nhân hậu. Thầy nói thầy không chịu đựng nỗi khi phải nghe, phải nhìn thấy cảnh con người cùng chung nguồn cội lại nỡ lòng nào ức hiếp lẫn nhau.

Lâu quá rồi tôi đã không còn biết tin gì về thầy nữa, không biết thầy còn sống hay đã chết. Lần gặp thầy lần cuối là một kỷ niệm buồn. Lần đó, tôi trở về thăm quê khi vừa hoàn thành xong chương trình đại học và trở thành một đồng nghiệp của thầy. Vừa bước vào một quán cà phê, tôi ngỡ ngàng nhận ra thầy đang ngồi ở một góc quán với một bàn vé số kế bên: thầy đang bán vé số. Trên người thầy vẫn là bộ quần áo thầy đã mặc khi đứng trên bục giảng hơn bảy năm về trước, giờ đây đã sờn vai, bạc màu. Thầy tôi đó sao? Tôi như không tin vào mắt mình. Chưa kịp bật lên hai tiếng “thầy ơi”, tôi đã bắt gặp ánh mắt thầy ngượng ngùng lẫn tránh. Đó là lần cuối cùng tôi gặp thầy. Một vài năm sau, tôi có việc gấp, phải rời quê hương.

Ngày ấy thầy có dạy chúng tôi: “Chúng ta đang sống trong một xã hội mới mà mọi thứ đều là của chung, mọi thứ đều phải được sung vào công quĩ.” Nhớ lại lời thầy dạy, tôi bỗng đâm lo cho thầy: Không biết sau khi tôi đi rồi, cái bàn vé số kiếm sống qua ngày của thầy có được sung vào công quĩ không? Nếu có thì rồi thầy lấy gì mà sống. Càng nghĩ tôi càng đâm lo và tự trách mình đã không thể liên lạc được với thầy trong chừng ấy năm.

Đã hơn hai mươi năm qua trôi qua, bất chợt nhớ thầy, tôi lại nhớ về chị Dậu, nhớ về “Tức Nước Vỡ Bờ”.

Người ta nói: “Con người không thể nào tắm hai lần trên cùng một dòng nước chảy”. Câu ấy có nghĩa là lịch sử thường không lặp lại. Thế mà, sao tôi lại nhìn thấy bóng dáng của những người nông dân khốn khổ, đáng thương của một thế kỷ trước lại mơ hồ vương vất trên những cánh đồng hôm nay của Văn Giang, của những vùng đất trải dài từ Nam ra Bắc? Những oan hồn nào đã không thể siêu sinh? Định mệnh nào lại nghiệt ngã đến thế với những người con dân Việt?

Ngày xưa và ngày nay tưởng rằng là xa thế nhưng xét cho cùng, vẫn nằm trên cùng một dòng trục thời gian, mà ngày xưa ở đầu kia xa lắc, còn ngày nay ở đầu phía bên này của hiện thực. Tôi đứng ở đầu này của dòng thời gian, nhớ thầy, nhớ lại những gì thầy đã dạy: “Con giun xéo mãi cũng quằn, tức nước ắt vỡ bờ.” Vâng, em tin như thế, thầy ơi! Nhất định phải là như thế. Và em ước một lần nữa được nhìn lại gương mặt thỏa nguyện của thầy khi thầy cất cao câu nói của chị Dậu: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem”.

thanks nhiu nka kaka

Dàn Ý Phân Tích Chi Tiết Tác Phẩm Tức Nước Vỡ Bờ

– Chuyện xảy ra ở làng Đông Xá trong những ngày sưu thuế. Gia đình chị Dậu nghèo nhất nhì trong hạng cùng đinh. Đến kì nộp sưu, anh chị phải chạy vạy ngược xuôi nhưng vẫn không đủ tiền.

– Trước khi bị bắt ra ngoài đình, anh Dậu đã ủy quyền cho chị lo việc nhà. Chị bán cái Tí, đứa con gái đầu lòng 7 tuổi cho vợ chồng Nghị Quế. Chị đã bán con, bán cho để nộp sưu cho anh nhưng vẫn thiếu xuất sưu của người em chồng đã mất từ năm trước nên anh Dậu vẫn chưa được tha.

– Đến khi anh bị ngất sửu chúng mới trả về cho chị Dậu. Chị nấu cháo cho anh ăn, anh vừa kề bát cháo lên miệng thì bọn cai lệ kéo đến thúc sưu. Anh sợ quá lăn đùng ra ngất.

– Gánh nặng gia đình, tính mạng anh Dậu phụ thuộc hoàn toàn vào sự chèo chống của chị – người phụ nữ con mọn, chân yếu tay mềm.

– Chúng xuất hiện với những công cụ để hành hung: roi song, tay thước, dây thừng…

– Cử chỉ: gõ đầu roi xuống đất thét, trợn ngược hai mắt quát, giọng hầm hè, đùng đùng giật phắt cái thừng, chạy sầm sập…

c) Diễn biến tâm lí, tính cách của chị Dậu

* Trước khi bọn tay sai xuất hiện: Chị hiện lên là một người rất mực yêu thương chồng con.

– Khi anh Dậu vừa mới tỉnh, việc đầu tiên của chị là nấu cháo cho chồng và các con ăn:

+ Quạt cháo cho nhanh nguội để anh Dậu ăn.

+ Bước từng bước rón rén bưng cháo đến bên chồng.

+ Ngồi chờ chồng ăn cháo có ngon không và lo lắng cho sức khỏe của chồng.

– Những cử chỉ, lời nói chị dành cho người chồng đau yếu rất mộc mạc nhưng vô cùng đằm thắm, dịu dàng.

à Chị mang vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, hết lòng yêu thương chồng con.

* Khi bọn tay sai xuất hiện

– Lúc đầu: Phân trần, van xin bọn chúng cho khất sưu kể cả khi cai lệ quát tháo, dọa nạt vẫn một mực van xin tha thiết “nhà cháu đã túng lại phải đóng cả xuất sưu của chú nó nữa nên mới lôi thôi như thế chứ cháu có dám bỏ bễ tiền sưu của nhà cháu đâu, hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất”.

– Lúc sau:

+ Những lời van xin, lễ phép tha thiết của chị đã bị tên cai lệ bỏ ngoài tai. Hắn cứ xông đến để trói anh Dậu và còn đánh chị khi bị chị ăn vạ. Hành động “bịch vào ngực chị Dậu mấy bịch” là giọt nước làm tràn li, không thể nín nhịn được nữa, chị đã liều mạng cự lại.

+ Lời lẽ của chị đã làm cai lệ tức giận, hắn đánh chị một cách tàn nhẫn và nhảy vào cạnh chồng chị.

+ Cùng với lời thách thức, chị đã xông vào đánh nhau với bọn chúng và nhanh chóng hạ gục hai tên tay sai. Trước sức mạnh của chị, hai tên tay sai vốn rất hung hăng, hống hách trở nên thật nực cười, thảm hại.