Thẩm Quyền Ban Hành Văn Bản Dưới Luật / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Thẩm Quyền Ban Hành Văn Bản Của Đảng

– Căn cứ Điều lệ Đảng và Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII),

– Xét đề nghị của Văn phòng Trung ương Đảng,

Điều 1: Ban hành Quy định về thể loại, thẩm quyền ban hành và thể thức văn bản của Đảng (văn bản kèm theo).

Điều 2: Giao cho Văn phòng Trung ương Đảng hướng dẫn, theo dõi việc thực hiện thống nhất Quy định này trong hệ thống cơ quan Đảng.

Điều 3: Các tỉnh uỷ, thành uỷ, các ban, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương có trách nhiệm thực hiện quyết định này.

Điều 4: Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.

(Ban hành kèm theo Quyết định số 31-QĐ/TW

ngày 01 tháng 10 năm 1997 của Bộ Chính trị )

Văn bản của Đảng là loại hình tài liệu được thể hiện bằng ngôn ngữ viết để ghi lại hoạt động của các tổ chức Đảng, do cấp uỷ, tổ chức, cơ quan có thẩm quyền của Đảng ban hành theo quy định của Điều lệ Đảng và của Trung ương.

Hệ thống văn bản của Đảng gồm toàn bộ các loại văn bản của Đảng được sử dụng trong hoạt động của hệ thống tổ chức Đảng từ Trung ương đến cơ sở.

Các cấp uỷ, tổ chức, cơ quan Đảng ban hành văn bản phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Các văn bản của Đảng phải được viết bằng tiếng Việt, phù hợp về thể loại và đúng về thể thức.

Văn bản của Đảng chỉ được sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ bằng văn bản của chính cơ quan đã ban hành, hoặc bằng văn bản của cơ quan Đảng cấp trên có thẩm quyền.

II- THỂ LOẠI VĂN BẢN CỦA ĐẢNG

Thể loại văn bản là tên gọi của từng loại văn bản, phù hợp với tính chất, nội dung và mục đích ban hành của văn bản.

Các thể loại văn bản của Đảng gồm:

Cương lĩnh chính trị là văn bản trình bày những nội dung cơ bản về mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng trong một giai đoạn nhất định.

Điều lệ Đảng là văn bản xác định tôn chỉ, mục đích, hệ tư tưởng, các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động, cơ cấu tổ chức bộ máy của Đảng, quy định trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn của đảng viên và các tổ chức Đảng.

Chiến lược là văn bản trình bày quan điểm, phương châm, mục tiêu chủ yếu và các giải pháp có tính toàn cục về phát triển một hoặc một số lĩnh vực trong một giai đoạn nhất định.

Nghị quyết là văn bản ghi lại các quyết định được thông qua ở đại hội, hội nghị cơ quan lãnh đạo Đảng các cấp, hội nghị đảng viên về đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch hoặc các vấn đề cụ thể.

Quyết định là văn bản dùng để ban hành hoặc bãi bỏ các quy chế, quy định, quyết định cụ thể về chủ trương, chính sách, tổ chức bộ máy, nhân sự thuộc phạm vi quyền hạn của cấp uỷ, tổ chức, cơ quan Đảng.

Chỉ thị là văn bản dùng để chỉ đạo các cấp uỷ, tổ chức, cơ quan Đảng cấp dưới thực hiện các chủ trương, chính sách hoặc một số nhiệm vụ cụ thể.

Kết luận là văn bản ghi lại ý kiến chính thức của cấp uỷ, tổ chức, cơ quan Đảng về những vấn đề nhất định hoặc về chủ trương, biện pháp xử lý công việc cụ thể.

Quy chế là văn bản xác định nguyên tắc, trách nhiệm, quyền hạn, chế độ và lề lối làm việc của cấp uỷ, tổ chức, cơ quan Đảng.

Quy định là văn bản xác định các nguyên tắc, tiêu chuẩn, thủ tục và chế độ cụ thể về một lĩnh vực công tác nhất định của cấp uỷ, tổ chức, cơ quan Đảng hoặc trong hệ thống các cơ quan chuyên môn có cùng chức năng, nhiệm vụ.

Thông tri là văn bản chỉ đạo, giải thích, hướng dẫn các cấp uỷ, tổ chức, cơ quan Đảng cấp dưới thực hiện nghị quyết, quyết định, chỉ thị … của cấp uỷ, hoặc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể.

Hướng dẫn là văn bản giải thích, chỉ dẫn cụ thể việc tổ chức thực hiện văn bản của cấp uỷ hoặc của cơ quan Đảng cấp trên.

Thông cáo là văn bản dùng để công bố về một sự kiện, sự việc quan trọng.

Tuyên bố là văn bản dùng để chính thức công bố lập trường, quan điểm, thái độ của Đảng về một sự kiện, sự việc quan trọng.

Lời kêu gọi là văn bản dùng để yêu cầu hoặc động viên mọi người thực hiện một nhiệm vụ hoặc hưởng ứng một chủ trương có ý nghĩa chính trị.

Báo cáo là văn bản dùng để tường trình về tình hình hoạt động của một cấp uỷ, tổ chức, cơ quan Đảng hoặc về một đề án, một vấn đề, sự việc nhất định.

Kế hoạch là văn bản dùng để xác định mục đích, yêu cầu, chỉ tiêu của nhiệm vụ cần hoàn thành trong khoảng thời gian nhất định và các biện pháp về tổ chức, nhân sự, cơ sở vật chất cần thiết để thực hiện nhiệm vụ đó.

Quy hoạch là văn bản xác định mục tiêu và các phương án, giải pháp lớn cho một vấn đề, một lĩnh vực cần thực hiện trong một thời gian tương đối dài, nhiều năm.

Chương trình là văn bản dùng để sắp xếp nội dung công tác, lịch làm việc cụ thể của cấp uỷ, tổ chức, cơ quan Đảng hoặc của các đồng chí lãnh đạo trong một thời gian nhất định.

Đề án là văn bản dùng để trình bày có hệ thống về một kế hoạch, giải pháp giải quyết một nhiệm vụ, một vấn đề nhất định để cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Tờ trình là văn bản dùng để thuyết trình tổng quát về một đề án, một vấn đề, một dự thảo văn bản để cấp trên xem xét, quyết định.

Công văn là văn bản dùng để truyền đạt, trao đổi các công việc cụ thể trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cấp uỷ, tổ chức, cơ quan Đảng.

Biên bản là văn bản ghi chép diễn biến, ý kiến phát biểu và ý kiến kết luận của đại hội Đảng và các hội nghị của cấp uỷ, tổ chức, cơ quan Đảng.

Các cấp uỷ, tổ chức, cơ quan Đảng thường dùng các giấy tờ hành chính sau đây:

2- Giấy chứng nhận ( hoặc giấy xác nhận, thẻ chứng nhận),

III- THẨM QUYỀN BAN HÀNH VĂN BẢN

1- Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng ban hành :

Điều 7: Các cơ quan lãnh đạo Đảng cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh)

1- Đại hội đại biểu đảng bộ cấp huyện ban hành :

1- Đại hội đảng bộ (đại hội đại biểu hoặc đại hội toàn thể đảng viên) ban hành :

1- Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Đảng uỷ Công an Trung ương, các đảng uỷ khối các cơ quan Trung ương và các đảng uỷ trực thuộc Trung ương được ban hành các loại văn bản tương ứng với các cơ quan lãnh đạo Đảng cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương .

2- Các đảng uỷ trực thuộc tỉnh, thành uỷ được ban hành các loại văn bản tương ứng với các cơ quan lãnh đạo Đảng cấp huyện.

3- Các đảng uỷ trực thuộc huyện, quận, thị, thành phố trực thuộc tỉnh được ban hành các loại văn bản tương ứng với các cơ quan lãnh đạo Đảng cấp cơ sở.

Điều 13:Ngoài thẩm quyền ban hành các thể loại văn bản được quy định trên, các cấp uỷ, tổ chức, cơ quan đảng tuỳ tình hình được ban hành các thể loại văn bản như: kế hoạch, quy hoạch, chương trình, đề án, tờ trình, công văn, biên bản và các giấy tờ hành chính được nêu tại điều 5 của bản quy định này.

IV – THỂ THỨC VĂN BẢN CỦA ĐẢNG

Thể thức văn bản của Đảng bao gồm các thành phần cần thiết của văn bản được trình bày đúng quy định để bảo đảm giá trị pháp lý và giá trị thực tiễn của văn bản.

Mỗi văn bản chính thức của Đảng bắt buộc phải có đủ các thành phần thể thức sau đây:

2- Tên cơ quan ban hành văn bản,

3- Số và ký hiệu văn bản,

4- Địa điểm và ngày, tháng, năm ban hành văn bản,

5- Tên loại văn bản và trích yếu nội dung văn bản,

6- Phần nội dung văn bản,

7- Chữ ký, thể thức để ký và dấu cơ quan ban hành văn bản,

8- Nơi nhận văn bản.

Ngoài các thành phần thể thức bắt buộc được quy định tại điều 15, đối với từng văn bản cụ thể, tuỳ theo nội dung và tính chất, có thể bổ sung các thành phần thể thức sau đây:

1- Dấu chỉ mức độ mật (mật, tối mật, tuyệt mật)

2- Dấu chỉ mức độ khẩn ( khẩn, thượng khẩn, hoả tốc hẹn giờ),

3- Các chỉ dẫn về phạm vi phổ biến, giao dịch, bản thảo và tài liệu hội nghị.

Các thành phần thể thức bổ sung do người ký văn bản quyết định.

1- Bản chính là bản hoàn chỉnh, đúng thể thức, có chữ ký trực tiếp của người có thẩm quyền và dấu của cơ quan ban hành.

2- Bản sao và các thành phần thể thức bản sao

Bản sao là bản sao lại nguyên văn hoặc trích sao một phần nội dung từ bản chính. Văn bản sao dưới mọi hình thức đều phải đảm bảo đủ các thành phần thể thức bản sao sau đây:

– Tên cơ quan sao văn bản,

– Địa điểm và ngày, tháng, năm sao văn bản,

– Chức vụ và chữ ký, họ tên người ký sao và dấu cơ quan sao,

THẨM QUYỀN BAN HÀNH VĂN BẢN CỦA ĐẢNG

Theo Quy định ban hành kèm theo Quyết định của Bộ Chính trị số 31-QĐ/TW, ngày 01-10-1997 và Quyết định của Ban Bí thư số 91-QĐ/TW ngày 16-02-2004, cơ quan lãnh đạo Đảng các cấp (đại hội Đảng và cấp ủy các cấp), các tổ chức, cơ quan Đảng từ Trung ương đến chi bộ có quyền ban hành các loại văn bản như sau: I. Các cơ quan lãnh đạo Đảng cấp trung ương 1- Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng ban hành: – Đại hội: Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chiến lược, nghị quyết, quy chế, thông báo, thông cáo, tuyên bố, lời kêu gọi. – Đoàn Chủ tich: Thông báo, báo cáo. – Đoàn thư ký: Báo cáo. – Ban Thẩm tra tư cách đại biểu: Báo cáo. – Ban Kiểm phiếu: Báo cáo. 2- Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành: Chiến lược, nghị quyết, quyết định, kết luận, quy chế, quy định, thông báo, thông cáo, tuyên bố, lời kêu gọi, báo cáo. 3- Bộ Chính trị ban hành: Nghị quyết, quyết định, chỉ thị, kết luận, quy chế, quy định, thông báo, báo cáo. 4- Ban Bí thư ban hành: Quyết định, chỉ thị, kết luận, quy chế, quy định, thông tri, thông báo, báo cáo. II. Các cơ quan lãnh đạo Đảng cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gọi chung là cấp tỉnh). 1- Đại hội đại biểu đảng bộ cấp tỉnh, thành phố ban hành: – Đại hội: Nghị quyết, quy chế, thông báo. – Đoàn Chủ tịch: Thông báo, báo cáo. – Đoàn Thư ký: Báo cáo. – Ban Thẩm tra tư cách đại biểu: Báo cáo. – Ban Kiểm phiếu: Báo cáo. 2- Ban chấp hành đảng bộ tỉnh, thành phố (gọi tắt là tỉnh ủy, thành ủy) ban hành: Nghị quyết, quyết định, kết luận, quy chế, quy định, thông báo, báo cáo. 3- Ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy ban hành: Nghị quyết, quyết định, chỉ thị, kết luận, quy chế, quy định, thông tri, hướng dẫn, thông báo, báo cáo. III. Các cơ quan lãnh đạo Đảng cấp huyện (huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh gọi chung là cấp huyện). 1- Đại hội đại biểu đảng bộ cấp huyện ban hành: – Đại hội: Nghị quyết, quy chế, thông báo. – Đoàn Chủ tịch: Thông báo, báo cáo. – Đoàn Thư ký: Báo cáo. – Ban Thẩm tra tư cách đại biểu: Báo cáo. – Ban Kiểm phiếu: Báo cáo. 2- Ban chấp hành đảng bộ huyện (gọi tắt là huyện ủy) ban hành: Nghị quyết, quyết định, kết luận, quy chế, quy định, thông báo, báo cáo. 3- Ban thường vụ huyện ủy ban hành: Nghị quyết, quyết định, chỉ thị, kết luận, quy chế, quy định, thông tri, hướng dẫn, thông báo, báo cáo. IV. Các cơ quan lãnh đạo Đảng cấp cơ sở và chi bộ 1- Đại hội đảng bộ (đại hội đại biểu hoặc đại hội toàn thể đảng viên) ban hành: – Đại hội: Nghị quyết. – Đoàn Chủ tịch: Thông báo, báo cáo. – Đoàn Thư ký: Báo cáo. – Ban Thẩm tra tư cách đại biểu (đối với đại hội đại biểu): Báo cáo. – Ban Kiểm phiếu: Báo cáo. 2- Ban chấp hành đảng bộ cơ sở (gọi tắt là đảng ủy) ban hành: Nghị quyết, quyết định, kết luận, quy chế, quy định, thông báo, báo cáo. 3- Ban thường vụ đảng ủy cơ sở ban hành: Nghị quyết, quyết định, kết luận, quy định, thông báo, báo cáo. 4- Chi bộ cơ sở và chi bộ, đảng ủy bộ phận trực thuộc đảng ủy cơ sở ban hành: – Đại hội: Nghị quyết. – Chi bộ, đảng ủy bộ phận: Nghị quyết, báo cáo. V. Các tổ chức đảng được lập ra theo quy định của Điều lệ Đảng hoặc theo quy định của Trung ương 1- Đảng ủy Quân sự Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương, các đảng ủy khối các cơ quan trung ương và các đảng bộ trực thuộc Trung ương được ban hành các loại văn bản tương ứng với các cơ quan lãnh đạo Đảng cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. 2- Các đảng ủy trực thuộc tỉnh, thành ủy được ban hành các loại văn bản tương ứng với các cơ quan lãnh đạo Đảng cấp huyện. 3- Các đảng ủy trực thuộc huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy (trực thuộc tỉnh) được ban hành các loại văn bản tương ứng với các cơ quan lãnh đạo Đảng cấp cơ sở. VI. Các cơ quan tham mưu giúp việc và các ban chỉ đạo, tiểu ban, hội đồng… hoạt động có thời hạn của cấp ủy các cấp (gọi chung cơ quan đảng). 1- Các cơ quan đảng (và liên cơ quan) các cấp ban hành: Quyết định, kết luận, quy chế, quy định, hướng dẫn, thông báo, báo cáo. 2- Ban Cán sự Đảng ngoài nước khi thực hiện nhiệm vụ của cấp ủy cấp trên đối với các đảng bộ, chi bộ hoạt động ở nước ngoài được ban hành văn bản như một cấp ủy cấp trên cơ sở. VII. Các đảng đoàn, ban cán sự Đảng các cấp ban hành: Nghị quyết, quyết định, chỉ thị, kết luận, quy chế, quy định, hướng dẫn thông báo, báo cáo. Ngoài thẩm quyền ban hành các thể loại văn bản được quy định trên, đại hội đảng bộ các cấp (đại hội, đoàn chủ tịch, đoàn thư ký) được ban hành các thể loại văn bản như: chương trình, công văn, biên bản; các cấp ủy, tổ chức, cơ quan Đảng tùy tình hình được quyền ban hành các loại văn bản như: kế hoạch, quy hoạch, chương trình, đề án, tờ trình, công văn, biên bản và được sử dụng các loại giấy tờ hành chính nêu trên. So sánh với các thể loại văn bản của các cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng có thể loại thông tri tương tự như thể loại thông tư, hoặc kết luận mà các cơ quan nhà nước không có thể loại văn bản này.

Điểm Mới Về Thẩm Quyền Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật

Điểm mới về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nội dung ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Điểm mới về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nội dung ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 được xây dựng trên cơ sở hợp nhất hai luật, đó là Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2004 để áp dụng thống nhất việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên phạm vi cả nước. Luật mới này có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2016, gồm 17 chương, 173 điều với nhiều điểm mới quan trọng; cụ thể như về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật có sự thay đổi so với luật cũ:

Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013 và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 đã xác định lại nội dung ban hành văn bản quy phạm pháp luật của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Cụ thể:

– Đối với luật, nghị quyết của Quốc hội:

Điều 15 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 đã quy định rõ ràng, cụ thể những nội dung Quốc hội phải ban hành luật và những nội dung Quốc hội ban hành nghị quyết. Theo đó, Quốc hội ban hành luật để quy định về tổ chức, bộ máy nhà nước, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia…Quốc hội ban hành nghị quyết để quy định việc thực hiện thí điểm một số chính sách mới thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội nhưng chưa có luật điều chỉnh hoặc khác với quy định của luật hiện hành; tạm ngưng hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần luật, nghị quyết của Quốc hội đáp ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân…

– Đối với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Nếu như Khoản 1 Điều 12 quy định Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008:”Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định những vấn đề được Quốc hội giao, sau một thời gian thực hiện trình Quốc hội xem xét, quyết định ban hành luật”, thì nay, Điều 16 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 đã không còn quy định việc pháp lệnh sau một thời gian thực hiện phải trình Quốc hội xem xét, quyết định ban hành luật nữa. Đồng thời, bổ sung một số nội dung Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết gồm: Tạm ngưng hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội đáp ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế – xã hội; Bãi bỏ pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội…

– Đối với lệnh, quyết định của Chủ tịch nước:

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 quy định:

“Điều 13. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước

Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước được ban hành để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước do Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định”

Còn Luật mới quy định tại Điều 17 như sau:

“Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để quy định:

1. Tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương trong trường hợp Ủy ban thường vụ Quốc hội không thể họp được;

2. Vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước”

Như vậy, so với Luật năm 2008 thì Luật mới năm 2015 đã có quy định rõ ràng hơn về thẩm quyền ban hành lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.

– Đối với nghị định của Chính phủ:

Theo Điều 19 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015:

“Chính phủ ban hành nghị định để quy định:

1. Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;

3. Vấn đề cần thiết thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý kinh, tế, quản lý xã hội. Trước khi ban hành nghị định này phải được sự đồng ý của Ủy banthường vụ Quốc hội”

– Đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:

“Điều 27. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ban hành nghị quyết để quy định:

1. Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;

2. Chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;

3. Biện pháp nhằm phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương;

4. Biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.

Điều 28. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quyết định để quy định:

1. Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;

2. Biện pháp thi hành Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp về phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương;

3. Biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương”.

Ngoài ra, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 cũng quy định rõ ràng hơn thẩm quyền ban hành lệnh, quyết định của Chủ tịch nước tại Điều 17; bổ sung một số nội dung Chính phủ ban hành Nghị định tại Điều 19; giới hạn nội dung ban hành văn bản quy phạm pháp luật của một số chủ thể như Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Điều 18). Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 25), Hội đồng nhân dân cấp huyện, Hội đồng nhân dân cấp xã (Điều 30).

Nhiều Văn Bản Ban Hành Sai Về Nội Dung Và Thẩm Quyền

Một biếm họa cho thấy văn bản bất hợp lý vẫn tồn tại. Không ít thách thức

Theo thống kê của Bộ Tư pháp, kết quả rà soát văn bản của các bộ, ngành, địa phương trong 3 năm 2016, 2017, 2018 (trừ Bộ Kế hoạch – Đầu tư; Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội; Bộ Ngoại giao; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Tài chính, Bộ Thông tin và Truyền thông) tại các bộ, cơ quan ngang bộ đã rà soát được 21.952/21.952 văn bản; số văn bản kiến nghị xử lý: 4.394 văn bản; trong đó số văn bản đã xử lý là 3.856; chưa xử lý là 538 văn bản. Tại địa phương, tổng số văn bản phải được rà soát là 146.811 văn bản; số văn bản được rà soát 144.281 văn bản; số văn bản kiến nghị xử lý là 26.112 văn bản; số văn bản được xử lý là 23.322; số văn bản chưa xử lý là 3.790 văn bản. Bên cạnh việc rà soát thường xuyên, nhiều cơ quan cấp bộ, địa phương đã tổ chức rà soát văn bản theo chuyên đề, lĩnh vực.

Riêng Bộ Tư pháp đã kiểm tra hơn 17.000 văn bản của cấp bộ và các địa phương. Qua đó, phát hiện 507 văn bản có quy định chưa phù hợp về nội dung và thẩm quyền, trong đó có hơn 400 văn bản của chính quyền cấp tỉnh. Đến nay, đã xử lý dứt điểm 412 văn bản, nhưng cũng có những văn bản mà cơ quan ban hành chưa có phương án xử lý, giải trình thuyết phục.

Cần thẳng thắn nhìn nhận là hệ thống pháp luật của chúng ta vẫn còn những tồn tại, hạn chế, trong đó có những tồn tại, hạn chế chậm được khắc phục dẫn đến thay vì tạo thuận lợi lại làm chậm hoặc cản trở những nỗ lực tốt đẹp. “Sự chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu đồng bộ, thậm chí mâu thuẫn với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn là những vấn đề đã được nói tới nhiều trong thời gian qua. Nếu chúng ta làm tốt, làm đúng Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định 34/2016/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật này thì chắc bức tranh đã khác, doanh nghiệp và người dân đã không phải than phiền nhiều về pháp luật, Chính phủ và Thủ tướng đã không phải có nhiều chỉ đạo, giao nhiệm vụ cụ thể để làm tốt hơn công tác hậu kiểm văn bản quy phạm pháp luật”- Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Khánh Ngọc nói.

Tăng cường trách nhiệm

Công tác kiểm tra, rà soát đã có tác động rất tích cực tới tinh thần trách nhiệm của các cơ quan. Sau mỗi lần trao đổi về các văn bản sai sót thì tình hình chuyển biến tốt hơn, kịp thời ngăn chặn hậu quả của nhiều quy định chưa phù hợp, có những văn bản vừa ban hành đã phát hiện ra sai sót.

Tuy nhiên, công tác kiểm tra, rà soát văn bản cũng có những điểm yếu. Hiện cả nước có khoảng 23.000 cơ quan có trách nhiệm làm việc này nhưng hoạt động cả hệ thống chưa đều, nhiều bộ, ngành, địa phương chưa thể hiện đầy đủ trách nhiệm của mình. Việc phát hiện một số văn bản có quy định trái pháp luật chưa kịp thời, có trường hợp gây ra hậu quả rồi mới xem xét xử lý và xử lý cũng không kịp thời. Việc xác định và khắc phục hậu quả còn gặp khó khăn, việc xử lý trách nhiệm nhìn chung mới dừng lại ở mức nhắc nhở.

Một trong những khó khăn là các bộ, ngành khi kiểm tra theo thẩm quyền và phát hiện văn bản trái pháp luật không chủ động được việc xử lý triệt để các văn bản này do các văn bản đó phải được cơ quan ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ.

Từ thực tế này, Bộ Xây dựng đề xuất, đối với các văn bản trái pháp luật của địa phương ban hành đã được đôn đốc, nhắc nhiều xử lý nhiều lần nhưng chưa ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ thì sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn. Các bộ, ngành, địa phương tăng cường trách nhiệm đối với công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật; phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp để tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ một số văn bản đang không rõ về hiệu lực; hướng dẫn cụ thể hơn về xử lý trách nhiệm đối với việc ban hành văn bản trái pháp luật; tham mưu giao một cơ quan đầu mối quản lý, vận hành thống nhất Cơ sở Dữ liệu quốc gia về pháp luật.

Thẩm Quyền Ban Hành Nghị Quyết Liên Tịch

Căn cứ quy định tại Điều 4 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 thì:

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật gồm:

1. Hiến pháp.

2. Bộ luật, luật (sau đây gọi chung là luật), nghị quyết của Quốc hội.

3. Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

4. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.

5. Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

6. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

7. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

8. Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước.

9. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh).

10. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

11. Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.

12. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện).

13. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

14. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã).

15. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã

Như vậy, điều luật trên đã quy định hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đối với từng cơ quan cụ thể, trong đó ban hành:

– Nghị quyết liên tịch gồm: nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

– Thông tư liên tịch gồm: thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

Đối với Ủy ban nhân dân Tỉnh chỉ được ban hành Quyết định theo quy định trên mà không có thẩm quyền ban hành thôn tư liên tịch hay nghị quyết liên tịch.

Trân trọng!