Tóm Tắt Văn Bản Thánh Gióng Ngắn Nhất / Top 7 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Tóm Tắt Truyện Thánh Gióng Ngắn Gọn Nhất Hay

BÀI LÀM VĂN MẪU SỐ 1 TÓM TẮT TRUYỆN “THÁNH GIÓNG” Vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở một làng nọ, có hai vợ chồng già hiền lành, chăm chỉ mà vẫn chưa có con. Một hôm, người vợ ra đồng, ướm thử lên một dấu chân thì kì lạ thay, về nhà mang thai. Sau mười hai tháng, sinh ra một đứa trẻ mà lên ba vẫn chưa biết nói, biết cười. Đúng lúc ấy, giặc Ân tràn vào nước ta xâm lươc. Nhà vua kêu sứ giả đi tìm người tài. Ai ngờ đâu, khi sứ giả đi đến làng đó, cậu bé đột nhiên biết nói, biết cười, lại bải người mẹ gọi sứ giả vào. Sứ giả vào, cậu bé liền bải sứ giả về tâu với nhà vua cần chuẩn bị những gì. Sứ giả vội trở về báo tin với nhà vua. Từ hôm đó, cậu bé bỗng lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không đủ. Hàng xóm, láng giềng phải góp cơm, gạo, quần áo để nuôi cậu bé. Rồi khi giặc đến, cậu bé không biết nói, biết cười ngày nào bỗng vươn mình trở thành một tráng sĩ. Gióng liền cưỡi ngựa sắt ra trận, đi đến đâu giặc chết đến đó. Những nơi Thánh Gióng đã đi qua thì “Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại”(“Đất Nước”- Nguyễn Khoa Điềm”). Đánh giặc xong, Thánh Gióng liền cưỡi ngựa sắt bay về trời. Nhân dân nhớ ơn của người, lập đền thờ ở nhiều nơi trên đata nước.

BÀI LÀM VĂN MẪU SỐ 2 TÓM TẮT TRUYỆN “THÁNH GIÓNG” Vào đời vua Hùng thứ sáu, ở làng nọ, có một người phụ nữ ra đồng làm việc và ướm thử chân vào một dấu chân thì bỗng nhiên về nhà lại có mang. Đứa trẻ sinh ra, lên ba nhưng vẫn không biết nói, cười. Giặc tràn đến nước ta, sứ giả theo lệnh nhà vua đi tìm người tài thì kì lạ thay, cậu bé bỗng bảo mẹ gọi sứ giả vào. Từ hôm đó, cậu bé lớn nhanh như thổi. Hàng xóm, láng giiềng cùng góp sức vào nuôi cậu. Thế rồi, Gióng cưỡi ngựa sắt ra trận, đánh tan quân thù. Giặc không còn, Thánh Gióng liền cưỡi ngựa sắt bay về trời. Nhân dân biết ơn và lập đền thờ ở nhiều nơi.

Tóm Tắt Truyện Thánh Gióng

Tóm tắt truyện Thánh Gióng – Bài số 1

Thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có cặp vợ chồng ông lão tuy chăm chỉ làm ăn và nổi tiếng là phúc đức nhưng không có con. Một hôm, bà vợ đang làm đồng thấy một vết chân to liền ướm chân vào. về nhà bà mang thai và sau mười hai tháng thì sinh ra một bé trai khôi ngô tuấn tú. Điều kì lạ là mãi lên ba tuổi, cậu bé vẫn chưa biết đi, chảng biết nói, biết cười.

Khi giặc Ân xâm phạm bờ cõi, vua Hùng cho người đi tìm nhân tài cứu nước. Cậu bé cất tiếng đầu tiên và cũng là lời xin được đi đánh giặc. Cậu bé yêu cầu sứ giả về tâu vua sắm cho cậu ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt. Từ đó cậu lớn nhanh như thổi. Sau khi ăn hết bảy nong cơm, ba nong cà do bà con hàng xóm gom góp, cậu bé vươn vai thành một tráng sĩ, mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt xông ra trận diệt giặc. Trong lúc đánh giặc, roi sắt bị gãy, tráng sĩ nhổ những bụi tre ven đường làm vũ khí đánh giặc.

Dẹp xong giặc Ân, tráng sĩ một mình một ngựa lên đỉnh núi rồi bay lên trời. Để’ tưởng nhớ công ơn tráng sĩ, nhân dân lập đền thờ, hàng năm tổ chức hội làng để tưởng nhớ. Những dấu tích của trận đánh năm xưa vẫn còn lưu lại trên mặt đất, trên những bụi tre nơi cậu bé diệt giặc.

Tóm tắt truyện Thánh Gióng – Bài số 2

Vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng già chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức, nhưng lại không có con. Họ buồn lắm. Một hôm, bà lão ra đồng thấy một vết chân to khác thường. Thấy lạ, bà lão đặt bàn chân mình vào ước chừng bàn chân mình nhỏ hơn bao nhiêu. Thấm thoắt thời gian trôi đi, bà lão có thai, rồi mười hai tháng sau bà sinh được một đứa bé trai khôi ngô tuấn tú. Hai vợ chồng già mừng lắm. Nhưng lạ thay, đứa bé đã lên ba mà không biết nói, không biết cười, không biết đi, đặt đâu nằm đấy. Vợ chồng ông lão đâm lo?

Bấy giờ giặc Ân thế mạnh như chẻ tre tràn vào xâm lược nước ta. Nhà vua túng thế, bèn sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng loa của sứ giả, bỗng cựa mình và cất tiếng nói: ” Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phải đánh tan lũ giặc này”. Sứ giả lấy làm kinh ngạc và cũng tỏ ý vui mừng, vội về tâu với vua. Nhà vua chấp thuận và sai người ngày đêm làm đủ những vật mà chú bé yêu cầu.

Từ hôm gặp sứ giả, chú bé bỗng lớn nhanh như thổi. Cơm ăn không biết no, áo vừa mới mặc đã chật. Hai vợ chồng làm lụng cực nhọc mà không đủ nuôi con. Bà con xóm làng thấy thế, bèn xúm vào kẻ ít nhiều nuôi chú bé.

Giặc Ân đã đến chân núi Trâu, tình thế đất nước như ngàn cân treo sợi tóc. Ai nấy đều lo lắng và sợ sệt. Vừa lúc, sứ giả mang đủ các thứ mà chú bé đã dặn. Chú bé vươn vai, trong phút chốc đã trở thành tráng sĩ thật oai phong, thật lẫm liệt. Tráng sĩ vỗ mạnh vào mông ngựa sắt, ngựa hí vang dội cả một vùng. Tráng sĩ mặc áo giáp sắt cầm roi sắt nhảy lên lưng ngựa. Ngựa phi nước đại, phun lửa xông thằng vào quân giặc hết lớp này đến lớp khác. Bỗng roi sắt bị gãy, tràng sĩ liền nhổ nhũng bụi tre ven đường quất vào quân giặc. Thế giặc hỗn loạn, tan vỡ. Đám tàn quân dẫm dạp lên nhau mà tháo chạy. Tráng sĩ đuổi quân giặc đến chân núi Sóc (Sóc Sơn) thì dừng lại, rồi một mình, một ngựa lên đỉnh núi, cởi áo giáp sắt để lại ngựa sắt và tráng sĩ bay lên trời.

Để tưởng nhớ người tráng sĩ có công đánh tan giặc Ân xâm lược. Nhà vua phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay tại quê nhà.

Hiện nay vẫn còn dấu tích đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Hàng năm, đến tháng tư là làng mở hội tưng bừng để tưởng nhớ người tráng sĩ Thánh Gióng. Và để ngắm nhìn những dấu tích mà tráng sĩ và ngựa sắt đã đánh tan giặc Ân, đó là tre đằng ngà, nhưng ao hồ liên tiếp…

Tóm tắt truyện Thánh Gióng – Bài số 3

Ngày xưa, ở làng Gióng có hai vợ chồng nhà nọ, nhà nghèo, họ đã sống với nhau nhiều năm mà chưa có con, hai ông bà ngày đêm ao ước có một đứa con để bế bồng. Có lẽ niềm mong mỏi của đôi vợ chồng nghèo đã động đến lòng trắc ẩn của nhà trời. Một hôm, người vợ ra đồng làm việc, bà thấy một vết chân to, khác lạ với chân bình thường, tò mò bà bèn đặt chân mình lên ướm thử. Không lâu sau đó bà thấy mình có dấu hiệu thụ thai, mười hai tháng sau sinh ra một cậu con trai. Hai vợ chồng rất hạnh phúc và đặt tên con là Gióng. Gióng lớn rất nhanh, nhưng lên ba tuổi vẫn không biết nói, không biết cười. Đúng thời điểm ấy, giặc Ân xâm phạm bờ cõi nước ta. Trước tình hình hung hãn của bọn giặc, nhà vua lo sợ bèn sai sứ giả đi tìm người tài giỏi cứu nước. Một hôm, chú bé đang nằm trong nhà, nghe thấy tiếng rao của sứ giả chú bé bỗng nhiên bật nói: ” Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con”. Sứ giả vào chú bé bảo: ” Ông về bẩm báo với nhà vua rằng đúc cho ta một con ngựa sắt, một cái áo giáp sắt và một cây roi sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này.”

Được một cậu bé còn nhỏ tuổi mà nói thế, sứ giả vừa mừng rỡ, vừa kinh ngạc, chạy vội về bẩm báo với nhà vua. Nhà vua mừng rỡ sai người ngày đêm làm gấp những thứ mà chú bé yêu cầu. Từ ngày ấy, chú bé lớn nhanh như thổi cơm ăn mấy cũng không no. Ba mẹ Gióng không đủ gạo để nuôi con, phải nhờ sự góp sức của dân làng. Đến ngày giặc kéo đến, sứ giả đem tới những thứ Gióng yêu cầu. Gióng đứng dậy vươn vai một cái biến thành một tráng sĩ, mặc áo giáp sắt, cầm roi sắt, cưỡi ngựa sắt lao đến chỗ có giặc. Gióng đánh đến đâu giặc tan đến đó, một số giặc bỏ chạy thoát thân, còn lại chết la liệt. Sau khi đã giết được một số lượng lớn tên giặc, cũng là lúc roi sắt gãy. Gióng đã nhanh trí nhổ cụm tre bên đường làm vũ khí tiếp tục giết giặc để giết giặc. Sau khi đã giết được sạch bóng giặc Ân, Gióng phi thẳng ngựa lên đỉnh núi Sóc Sơn, cởi áo giáp sắt bỏ lại, phi ngựa về Trời.

Để tưởng nhớ công lao của Thánh Gióng với nhân dân Vua phong Gióng là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ở ngay quê nhà. Vì ngày xưa ngựa sắt đã phun lửa thiêu cháy cả một làng. Nên từ đó còn có tên là làng Cháy hay làng Phù Đổng. Câu truyện ca ngợi vị anh hùng làng Gióng chống giặc ngoại xâm.

Tóm tắt truyện Thánh Gióng – Bài số 4

Ngày xưa, ở làng Gióng có hai vợ chồng nọ, nhà nghèo, hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm, bà mẹ ra đồng như mọi hôm, bà thấy một vết chân to bèn đặt chân mình lên ướm thử, không ngờ về nhà bà thụ thai, mười hai tháng sau sinh ra một cậu con trai, hai ông bà đặt tên là Gióng, Gióng lên ba vẫn không biết nói, không biết cười. Lúc bấy giờ có giặc Ân xâm phạm bờ cõi nước ta, thế giặc mạnh nhà vua lo sợ bèn sai sứ giả đi tìm người tài giỏi cứu nước. Một hôm, chú bé đang nằm trong nhà, nghe thấy tiếng rao của sứ giả chú bé bỗng nhiên bật nói: ” Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con”. Sứ giả vào chú bé bảo ” Ông về bẩm báo với nhà vua rằng đúc cho ta một con ngựa sắt, một cái áo giáp sắt và một cây roi sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này.” Sứ giả vừa mừng rỡ, vừa kinh ngạc, chạy vội về bẩm báo với nhà vua. Nhà vua mừng rỡ sai người ngày đêm làm gấp những thứ mà chú bé yêu cầu. Từ ngày ấy, chú bé lớn nhanh như thổi cơm ăn mấy cũng không no. Ba mẹ Gióng nghèo không đủ tiền mua gạo nuôi Gióng, đành nhờ bà con giúp đỡ, mọi người ai cũng muốn Gióng ăn nhanh chống lớn để đi đánh giặc nên rất sẵn lòng góp gạo nuôi Gióng. Giặc ngoại xâm đã kéo đến, vừa lúc đó sứ giả đem tới những thứ Gióng yêu cầu. Bỗng Gióng vươn vai một cái biến thành một tráng sĩ, mặc áo giáp sắt, cầm roi sắt, cưỡi ngựa sắt đi đánh giặc. Gióng đánh đến đâu giặc tan đến đó, bỗng roi sắt gãy, Gióng nhổ cụm tre bên đường để giết giặc. Sau khi đã dẹp tan giặc Ân Gióng phi ngựa lên đỉnh núi Sóc Sơn cởi áo giáp sắt bỏ lại, phi ngựa về Trời. Vua nhớ công ơn phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ở ngay quê nhà.

Vì ngày xưa ngựa sắt đã phun lửa thiêu cháy cả một làng. Nên từ đó còn có tên là làng Cháy hay làng Phù Đổng. Câu chuyện ca ngợi vị anh hùng làng Gióng chống giặc ngoại xâm.

Vũ Hường tổng hợp

Từ khóa tìm kiếm:

tom tat truyen thanh giong

4 Bài Văn Tóm Tắt Truyện Thánh Gióng

5 bài văn mẫu Tóm tắt truyện Thánh Gióng

1. Tóm tắt truyện Thánh Gióng, mẫu số 1:

Vào đời vua Hùng Vương thứ sáu. Ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão tuy chăm chỉ làm ăn, lại có tiếng là phúc đức nhưng mãi không có con. Một hôm bà vợ ra đồng ướm chân vào một vết chân to, về thụ thai và mười hai tháng sau sinh ra một cậu con trai khôi ngô. Điều kì lạ là tuy đã lên ba tuổi, cậu bé chẳng biết đi mà cũng chẳng biết nói cười.

Giặc Ân xuất hiện ngoài bờ cõi, cậu bé bỗng cất tiếng nói xin được đi đánh giặc. Cậu lớn bổng lên. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa may xong đã chật, bà con phải góp cơm gạo nuôi cậu. Giặc đến, cậu bé vươn vai thành một tráng sĩ, mặc giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt xông ra diệt giặc. Roi sắt gẫy, Gióng bèn nhổ cả những bụi tre bên đường đánh tan quân giặc.

Giặc tan, Gióng một mình một ngựa trèo lên đỉnh núi rồi bay thẳng lên trời. Nhân dân lập đền thờ, hàng năm mở hội làng để tưởng nhớ. Các ao hồ, những bụi tre đằng ngà vàng óng đều là những dấu tích về trận đánh của Gióng năm xưa.

2. Tóm tắt truyện Thánh Gióng, mẫu số 2:

Giặc tan, Gióng một mình một ngựa trèo lên đỉnh núi rồi bay thẳng lên trời. Nhân dân lập đền thờ, hàng năm mở hội làng để tưởng nhớ. Các ao hồ, những bụi tre đàng ngà vàng óng đều là những dấu tích về trận đánh của Gióng năm xưa.

Vào đời vua Hùng Vương thứ sáu. Ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão tuy chăm chỉ làm ăn, lại có tiếng là phúc đức nhưng mãi không có con. Một hôm bà vợ ra đồng ướm chân vào một vết chân to, về thụ thai và mười hai tháng sau sinh ra một cậu con trai khôi ngô. Điều kì lạ là tuy đã lên ba tuổi, cậu bé chẳng biết đi mà cũng chẳng biết nói cười.

Giặc Ân xuất hiện ngoài bờ cõi, cậu bé bỗng cất tiếng nói xin được đi đánh giặc. Cậu lớn bổng lên. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa may xong đã chật, bà con phải góp cơm gạo nuôi cậu. Giặc đến, cậu bé vươn vai thành một tráng sĩ, mặc giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt xông ra diệt giặc. Roi sắt gẫy, Gióng bèn nhổ cả những bụi tre bên đường đánh tan quân giặc.

Giặc tan, Gióng một mình một ngựa trèo lên đỉnh núi rồi bay thẳng lên trời. Nhân dân lập đền thờ, hàng năm mở hội làng để tưởng nhớ. Các ao hồ, những bụi tre đằng ngà vàng óng đều là những dấu tích về trận đánh của Gióng năm xưa.

3. Tóm tắt truyện Thánh Gióng, mẫu số 3:

Truyện kể rằng: Vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng, có hai vợ chồng ông lão, tuy làm ăn chăm chỉ, lại có tiếng là phúc đức nhưng mãi không có con. Một hôm, bà vợ ra đồng ướm chân vào một vết chân lạ, về nhà bà thụ thai: Mười hai tháng sau bà sinh ra một cậu con trai khôi ngô tuấn tú. Nhưng lạ thay! Tới ba năm sau, cậu bé vẫn chẳng biết nói, biết cười, cứ đặt đâu nằm đấy.

Bấy giờ, giặc Ân tràn vào bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh lắm! Vua Hùng bèn sai người đi khắp nước rao cầu hiền tài giết giặc. Nghe tiếng rao, cậu bé bỗng cất tiếng nói xin được đi đánh giặc. Từ đấy cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng chẳng no.

Tráng sĩ Gióng mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt rồi cầm roi sắt xông ra diệt giặc. Roi sắt gẫy, Gióng bèn nhổ cả những bụi tre bên đường để quét sạch giặc thù.

Giặc tan, Gióng một mình một ngựa lên đỉnh núi Sóc Sơn rồi bay thẳng về trời. Ở đó nhân dân lập đền thờ, hàng năm lại mở hội làng để tưởng nhớ. Ngày nay các ao hồ và những bụi tre ngà vàng óng đều là dấu ấn xưa về trận đánh và là nơi ông Gióng đã đi qua

4. Tóm tắt truyện Thánh Gióng, mẫu số 4:

Truyện kể rằng, ngày xửa ngày xưa, có một dấu chân khổng lồ in trên một tảng đá ở thôn Gióng Mốt, xã Phù Đổng, dân gian tương truyền rằng đó dấu chân của ông Đổng về hái cà trong đêm mưa bão. Ông Đổng cao lớn một cách lạ thường: đầu thì đội trời, chân thì đạp đất, vai thì chạm mây, ông vun đá thì thành đồi núi, xẻ cát thì thành sông, cào đất thì thành những cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay. Giọng nói ông vang như tiếng sấm, bước chân ông đi lún cả đất trời, mắt ông thì lóe sang như tia chớp, hơi thở thì phun ra mây mưa, gió bão. Những dấu tích mà ông Đổng để lại vẫn còn đến ngày nay nơi như gò Bình Tân, núi Khám, núi Sóc Sơn, làng Gióng Mốt. Hàng năm, cứ vào mùng 9 tháng 4 âm lịch, ông Đổng lại về hái cà gây nên mưa, sấp chớp đùng đùng.

Ở làng Gióng Mốt, có một bà lão đã già rồi nhưng vẫn chưa có con, bà sống một mình trong một túp lều tranh rách nát. Hàng ngày, bà ra vườn chăm sóc luống cà hoặc ra đồng mò cua bắt ốc rồi đem ra chợ bán để lấy tiền mua gạo, tự nuôi sống bản thân. Trong một đêm giông bão, mưa như trút nước ông Đổng về hái cà và để lại những dấu chân khổng lồ ngay trong vườn. Sáng hôm sau, khi bà lão ra vườn chăm sóc luống cà thì thấy những dấu chân rất lạ, to ơi là to, bà rất ngạc nhiên, liền đưa chân lên ướm thử và sau đó không lâu thì bà mang bầu.

Bà bỏ lên rừng Trai Mòn, sau chín tháng mười ngày thì bà sinh ra ông Đổng ngay dưới một gốc cây lớn, trên một cái gò đất nổi lên giữa một cái đầm, bà đặt tên đứa con trai mình là Gióng. Ngay sau hôm đấy, trời bỗng nhiên hóa thành nhiều tôm, cua, cá để bà ăn lấy nhiều sữa nuôi con, hóa đá thành bồn để bà tắm cho con, hóa thành chõng tre để ru con ngủ. Trong ba năm liền, ông Đổng cứ nằm yên trên chõng tre, không nói không cười. Đến khi đất nước bị giặc Ân sang xâm chiến thì ông Đổng liền bước ra khỏi chõng tre, vươn vai và biến thành một chàng trai cao to khỏe mạnh và đòi mẹ đi đánh giặc Ân. Chính vì lẽ đó mà ông cha ta có câu hát ví von rằng:

Trời thương Bách Việt sơn hà,Trong nơi thảo mãng nảy ra kỳ tài

(Người anh hùng làng Gióng – Cao Huy Đỉnh)

5. Tóm tắt truyện Thánh Gióng, mẫu số 5:

Xưa kia có hai vợ chồng nọ nghèo khó mà không có một mụn con. Truyện là bà vợ ra đồng, ướm thử chân vào vết lạ liền mang thai Tháng Gióng. Bấy giờ, giặc n đã lăm le bờ cõi, Chàng lớn lên ba năm không nói không cười nhưng xứ giả đi qua liền nhờ mẹ gọi vào. Chàng đòi may ngựa sắt, áo giáp sắt, roi sắt cho chàng đi đánh giặc. Chàng lớn nhanh như thổi, cả làng nuôi Gióng lớn để đánh giặc. Giặc đến, chàng quất roi sắt, phi ngựa sắt vào đánh giặc. Giặc tan vỡ, chàng một mình một ngựa đến chân núi Sóc bỏ lại ngựa bay lên trời.

Như vậy chúng tôi đã gợi ý Tóm tắt truyện Thánh Gióng các em tìm hiểu Kể lại chuyện Thánh Gióng bằng lời văn của em để có thể Soạn bài Thánh Gióng tốt hơn.

https://thuthuat.taimienphi.vn/tom-tat-truyen-thanh-giong-39876n.aspx

Tóm Tắt Văn Bản Lão Hạc Ngắn Gọn Nhất

Tìm hiểu chung để tóm tắt văn bản Lão Hạc

1. Tác giả

– Nam Cao (1917 – 1951) sinh ra ở Hà Nam

Nam Cao (1917 – 1951)

– Ông không những là cái tên xuất sắc trong nền văn học hiện thực 1930 – 1945 mà còn là một nhà báo, một chiến sĩ cách mạng lớn.

– Là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất vào thế kỷ 20.

2. Tác phẩm

– Những tác phẩm của ông gắn liền với hình ảnh của người nông dân Việt Nam thời kỳ trước và sau cách mạng tháng Tám.

– Truyện ngắn “Lão Hạc” được đánh giá là một tác phẩm xuất sắc của Nam Cao viết về hình ảnh cùng cực của người nông dân, qua đó nhà văn tố cáo tội ác của chế độ phong kiến.

3. Tóm tắt Lão Hạc sơ lược

Lão Hạc là 1 người nông dân sống cô độc một mình trong cảnh nghèo khó, chỉ có 1 con chó làm bạn mà lão hay gọi là cậu Vàng. Con trai của lão do quá nghèo đến nỗi không có tiền lấy vợ mà bỏ đi làm trong đồn điền cao su. Lão cũng phải đi làm mướn làm thuê mới đủ kiếm sống. Sau 1 trận ốm nặng dai dẳng thì sức già yếu ớt cộng thêm bệnh tật làm lão không còn đủ sức để đi làm thuê như trước nữa. Lựa chọn cuối cùng, lão phải bán con chó Vàng mà lão yêu quý hết mực. Rồi sau đó, lão mang số tiền chắt chiu, dành dụm được cùng mảnh vườn sang gửi ông Giáo. Sau đó mấy hôm tiếp lão chỉ ăn sung luộc, khoai, rau má…Một hôm, lão sang nhà Binh Tư để xin ít bả chó và chỉ nói là đánh bả con chó nhà nào đó để giết thịt nhưng sự thực là lão dùng bả chó để tự kết liễu đời mình. Bởi thế mà cái chết của lão cũng rất dữ dội nhưng chẳng ai hiểu lý do tại sao lão chết chỉ trừ ông Giáo và Binh Tư.

II. Tóm tắt văn bản Lão Hạc

1. Tình cảnh Lão Hạc

– Một lão nông dân sống một mình cô đơn, gia cảnh nghèo khó ⇒ tình cảnh cùng cực, bi đát.

Hình ảnh nghèo khó của Lão Hạc

– Vì cuộc sống quá nghèo, lão dự định bán đi cậu Vàng mà mình yêu quý hết lòng – kỉ vật của anh con trai, người bạn thân thiết luôn bên ông khi một mình – rồi chọn kết liễu cho mình.

2. Diễn biến tâm trạng của lão Hạc khi quyết định bán cậu Vàng

– Cậu Vàng – con chó yêu quý của lão Hạc:

+ Cho cậu Vàng ăn trong cái bát lớn như của nhà giàu; lão ăn gì là gắp cái đó cho nó.

Hình ảnh cậu Vàng

+ Rảnh rỗi thì lão lại đem nó ra ao để tắm rồi bắt rận cho nó.

+ Mỗi khi ngồi uống rượu lão nhắm vài miếng rồi lại gắp cho nó một miếng cứ như cảnh người ta đang gắp thức ăn chăm cho cháu.

+ Thường xuyên thủ thỉ tâm sự với nó về bố nó với sự âu yếm, ân cần.

– Quyết định khó khăn nhất với lão khi phải bán đi con chó Vàng, quyết định này được ông cân nhắc kỹ lưỡng như một việc vô cùng hệ trọng. ⇒ Lão cũng do dự, đắn đo, suy tính mãi.

– Tâm trạng của lão khi bán đi cậu Vàng:

+ Lão cười mà như mếu, đôi mắt ấng ấng nước.

+ Mặt lão bỗng nhiên co rúm lại, vết nhăn trên mặt xô lại với nhau đã ép cho nước mắt chảy ra.

+ Đầu ngoẹo về một bên rồi miệng móm mém mếu máo như con nít.

+ Lão tu khóc hu hu.

⇒ Sử dụng từ tượng thanh, từ tượng hình liên tiếp dày đặc ⇒ đau khổ tột cùng, đang xót xa, hối hận, thương tiếc dâng trào.

⇒ Lão Hạc là người nông dân giàu tình nghĩa, thủy chung, trung thực.

⇒ Tấm lòng thương yêu con đáng trân trọng của một người cha nghèo khổ.

3. Cái chết của lão Hạc

– Lão nhờ ông giáo 2 việc:

+ Trông nom giùm lão mảnh vườn rồi khi nào con trai của lão về thì giao hết lại cho nó.

+ Bao nhiêu tiền chắt chiu, dành dụm bấy lâu lão nhờ ông giáo và mọi người trong chòm xóm làm ma cho lão nếu lão có chết đi.

– Nguyên nhân: Lão ý thức một cách sâu sắc hoàn cảnh thực tại của mình đang bế tắc, không có lối thoát.

– Mục đích: Dù như thế nào thì lão cũng muốn bảo toàn tài sản cho con và không muốn cái chết của lão làm  phiền hà đến con trai và hàng xóm láng giềng.

– Hình ảnh về cái chết dữ dội của lão: Vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc , quần áo xộc xệch, lão tru tréo, bọt mép sùi ra…. chốc chốc lại thấy người lão giật mạnh… vật vã sau hai giờ đồng hồ thì lão mới chết.

⇒ Sử dụng liên tiếp và dày đặc các từ tượng thanh, tượng hình ⇒ Làm nổi bật cái chết thê thảm, dữ dội và đầy bất ngờ của lão.

⇒ Lão trọng danh dự làm người, thậm chị còn coi trọng hơn cả mạng sống của mình; lão có ý thức cao về lẽ sống; một người cha đã dành cho con sự yêu thương hết lòng, một người nông dân thật thà, trung thực và giàu lòng tự trọng.

III. Tổng kết phần tóm tắt văn bản Lão Hạc

1.Giá trị nghệ thuật

– Nhà văn sử dụng bằng phương pháp đối lập trong xây dựng nhân vật

– Cách dựng truyện sinh động, chân thật

– Ngôn từ cô đọng, đầy chất trữ tình

– Kể theo ngôi thứ nhất linh hoạt, tự nhiên

– Miêu tả trình tự diễn biến tâm lí nhân vật hợp lí

2. Giá trị nội dung

– Qua tác phẩm Lão Hạc, tác giả thể hiện đầy chân thực và cảm động số phận cùng cực, đau thương của người nông dân thời phong kiến dưới chế độ cũ đầy bất công, bất hạnh và ca ngợi những phẩm chất cao quý của họ dù hoàn cảnh sống có như thế nào. Đồng thời thể hiện sự yêu thương, trân trọng của Nam Cao đối với những người nông dân như thế.