Vai Trò Của Quyết Định Quản Trị / Top 7 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Vai Trò Quyết Định Của Nhà Quản Trị

Nhóm vai trò cuối cùng của nhà quản trị gồm 4 vai trò: vai trò doanh nhân, vai trò người giải quyết xáo trộn, vai trò người phân phối tài nguyên và vai trò nhà thương thuyết.

0 Vai trò doanh nhân: Xuất hiện khi nhà quản trị tìm cách cải tiến hoạt động của tổ chức. Việc này có thể được thực hiện bằng cách áp dụng một kỹ thuật mới vào một tình huống cụ thể, hoặc nâng cấp điều chỉnh một kỹ thuật đang áp dụng.

® Vai trò người giải quyết xáo trộn: Nhà quản trị là người phải kịp thời đối phó với những biến cố bất ngờ nảy sinh làm xáo trộn hoạt động bình thường của tổ chức như mâu thuẩn về quyền lợi, khách hàng thay đổi… nhằm đưa tổ chức sớm trở lại sự ổn định.

◉ Vai trò người phân phối tài nguyên: Khi tài nguyên khan hiếm mà lại có nhiều yêu cầu, nhà quản trị phải dùng đúng tài nguyên, phân phối các tài nguyên cho các bộ phận đảm bảo sự hợp lý và tính hiệu quả cao. Tài nguyên đó có thể là tiền bạc, thời gian, quyền hành, trang bị, hay con người. Thông thường, khi tài nguyên dồi dào, mọi nhà quản trị đều có thể thực hiện vai trò này một cách dễ dàng. Nhưng khi tài nguyên khan hiếm, quyết định của nhà quản trị trong vấn đề này sẽ khó khăn hơn, vì nó có thể ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động của một đơn vị hay thậm chí của toàn thể tổ chức.

® Vai trò đàm phán: Thay mặt cho tổ chức thương thuyết trong quá trình hoạt

động, trong các quan hệ với những đơn vị khác, với xã hội.

Mười vai trò này liên hệ mật thiết với nhau và bất cứ lúc nào trong hoạt động của mình, nhà quản trị có thể phải thực hiện nhiều vai trò cùng một lúc, song tầm quan trọng của các vai trò thay đổi tuỳ theo cấp bậc của nhà quản trị trong tổ chức.

Với chức năng và vai trò của mình, nhà quản trị giữ phần quan trọng trong sự thành công hay thất bại của một tổ chức. Và đó cũng là lý do chính của nhu cầu cấp bách phải đào tạo các nhà quản trị, vì sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của cả nước.

Phân Tích Chức Năng Và Vai Trò Của Nhà Quản Trị

Nhà quản trị là những người làm việc trong các tổ chức, công việc của họ là phối hợp, định hướng, lựa chọn, quyết định và kết dính các công việc không phải là quản trị trong một tổ chức lại với nhau để đạt mục tiêu chung của chính tổ chức đó. Vậy các chức năng của nhà quản trị là gì, có mấy chức năng quản trị và vai trò của nhà quản trị là như thế nào? Cùng Tri Thức Cộng Đồng tìm hiểu nội dung này qua bài viết sau đây.

Nhà quản trị là những người làm việc trong các tổ chức, công việc của họ là phối hợp, định hướng, lựa chọn, quyết định và kết dính các công việc không phải là quản trị trong một tổ chức lại với nhau để đạt mục tiêu chung của chính tổ chức đó.

Các nhà quản trị làm việc trong các tổ chức nhưng không phải ai trong tổ chức cũng là nhà quản trị. Các thành viên trong tổ chức có thể chia làm hai loại: người thừa hành và nhà quản trị.

2.1 Vai trò quan hệ với con người

+ Vai trò đại diện cho tổ chức của nhà quản trị:

+ Vai trò người lãnh đạo của nhà quản trị:

Nhà quản trị là người chịu trách nhiệm động viên và dẫn dắt cấp dưới, bao gồm việc thuê, dùng, huấn luyện, đánh giá, đãi ngộ, đề bạt, biểu dương, can thiệp và cho thôi việc. Sự thành công của tổ chức là do tâm sức và khả năng nhìn xa trông rộng của các nhà quản trị quyết định. Nếu nhà quản trị bất tài thì tổ chức sẽ rơi vào tình trạng đình đốn. Vai trò lãnh đạo của các nhà quản trị là ở chỗ kết hợp các nhu cầu cá nhân của các thành viên trong tổ chức với mục tiêu của tổ chức đó, do đó mà thúc đẩy quá trình tác nghiệp một cách hữu hiệu.

Thời đại ngày nay là thời đại bùng nổ thông tin, thông tin được xem là nguồn lực thứ tư ở mọi tổ chức, mọi doanh nghiệp. Các hoạt động về quản trị chỉ thực sự có cơ sở khoa học và có hiệu quả khi nó được xử lý, được thực thi trên cơ sở các thông tin chính xác đầy đủ và kịp thời. Thông tin không chỉ cần cho các nhà quản trị mà chính bản thân họ cũng giữ những vai trò cực kỳ quan trọng trong lĩnh vực này. Nghiên cứu về vai trò thông tin của các nhà quản trị chúng ta thấy:

Nhà quản trị đảm nhận vai trò thu thập thông tin bằng cách thường xuyên xem xét, phân tích bối cảnh xung quanh tổ chức để nhận ra những tin tức, những hoạt động, những sự kiện có thể đem lại cơ hội tốt hay sự đe doạ đối với hoạt động của tổ chức. Công việc này được thực hiện qua việc đọc báo chí, văn bản và qua trao đổi tiếp xúc với mọi người…

2.3 Vai trò thông tin thứ ba của nhà quản trị là vai trò người phát ngôn.

Loại vai trò cuối cùng của nhà quản trị bao gồm 4 vai trò: Vai trò nhà doanh nghiệp, vai trò người khắc phục khó khăn, vai trò người phân phối nguồn lực và vai trò người đàm phán (hay nhà thương thuyết).

+ Vai trò nhà doanh nghiệp được thể hiện ở chỗ nhà quản trị là người khởi xướng và thiết kế nhiều cải cách của tổ chức trong phạm vi quyền hạn của mình. Mục đích của vai trò này là tạo ra những chuyển biến tốt hơn trong đơn vị.

Việc này có thể được thực hiện bằng cách áp dụng một kỹ thuật mới vào một tình huống cụ thể, hoặc nâng cấp điều chỉnh một kỹ thuật đang áp dụng.

+ Trong vai trò người khắc phục khó khăn, nhà quản trị phải xử lý những tình huống ngoài ý muốn và những biến đổi hàm chứa những nhân tố không thể điều khiển được. Chẳng hạn như khi một cỗ máy chủ yếu bị hỏng, khi nguồn điện bị cúp, khi khách hàng chủ yếu đột ngột không mua hàng nữa, khi mặt hàng kinh doanh đột nhiên bán khá chạy… Khi đó vai trò của nhà quản trị trong các tình huống này là phải nhanh chóng, kịp thời và quyết đoán để đưa tổ chức trở lại hoạt động bình thường và hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại có thể có hoặc là tận dụng tối đa các cơ hội mới, những yếu tố mới để phát triển.

+ Khi nhà quản trị ở trong tình huống phải quyết định nên phân phối nguồn lực cho ai và với số lượng như thế nào, thì đó là lúc nhà quản trị đóng vai trò là người phân phối nguồn lực. Vai trò này gồm có 3 phần:

* Sắp xếp thời gian của bản thân: Thời gian của nhà quản trị là một trong những nguồn lực quý báu nhất của tổ chức. Điều quan trọng hơn nữa là việc sắp xếp thời gian của nhà quản trị có ý nghĩa quyết định đối với lợi ích của tổ chức và được thực hiện theo thứ tự ưu tiên của tổ chức.

* Những quyết định quan trọng phải được nhà quản trị phê chuẩn trước khi thực hiện: Điều này sẽ giúp nhà quản trị có thể duy trì sự điều khiển liên tục đối với việc phân phối nguồn lực. Nhà quản trị phải là người giữ quyền phê chuẩn mọi quyết định quan trọng để đảm bảo cho việc phối hợp các quyết định đó, khiến cho các quyết định đó bổ sung cho nhau, không trái ngược nhau và lựa chọn được phương án tốt nhất trong tình hình nguồn lực có hạn. Nếu quyền lực này bị phân tán thì có thể dẫn đến những quyết định quản lý không ăn khớp và sự không nhất trí trong chiến lược.

* Cuối cùng nhà quản trị còn đóng vai trò là nhà thương thuyết, đàm phán, thay mặt cho tổ chức trong quá trình hoạt động. Sở dĩ nhà quản trị phải thay mặt cho tổ chức tham gia những cuộc đàm phán quan trọng vì họ là người tượng trưng cho tổ chức. Sự tham gia của họ có thể làm tăng thêm sự tin cậy cho đối phương. Với tư cách là người phát ngôn của tổ chức, ông ta là người đại diện về mặt đối ngoại của những thông tin và tiêu chuẩn giá trị của tổ chức. Điều quan trọng hơn nữa là, với tư cách là người phân phối nguồn lực, ông ta có quyền chi phối nguồn lực của tổ chức. Đàm phán là trao đổi nguồn lực, nó đòi hỏi người tham gia đàm phán phải có đủ nguồn lực chi phối và nhanh chóng quyết định vấn đề.

Tóm lại với chức năng và vai trò của mình, nhà quản trị giữ vai trò quan trọng trong sự thành công hay thất bại của tổ chức và đó cũng là lý do chính của nhu cầu cấp bách phải đào tạo các nhà quản trị, vì sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của cả nước.

4 chức năng của nhà quản trị:

+ Xác định mục tiêu và phương hướng phát triển của tổ chức

+ Dự thảo chương trình hành động

+ Lập lịch trình hoạt động

+ Đề ra các biện pháp kiểm soát

+ Cải tiến tổ chức

+ Xác lập sơ đồ tổ chức

+ Mô tả nhiệm vụ của từng bộ phận

+ Xây dựng các tiêu chuẩn tuyển dụng nhân viên

+ Chính sách sử dụng nhân viên

+ Ủy quyền cho cấp dưới

+ Giải thích đường lối chính sách

+ Huấn luyện và động viên

+ Giám sát và chỉ huy

+ Thiết lập hệ thống thông tin có hiệu quả

+ Thiết lập các quan hệ mật thiết bên trong và bên ngoài tổ chức

+ Xây dựng các tiêu chuẩn kiểm toán

+ Lịch trình kiểm toán

+ Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch

+ Các biện pháp sửa sai

Trong bất kỳ tổ chức nào, vai trò của nhà quản trị vô cùng quan trọng, quyết định đến sự phát triển và tồn tại của công ty. Và để ra quyết định hợp lý, nhà quản trị cần phải thực hiện các chức năng quản trị của mình.

+ Khái niệm, vai trò và chức năng của quản trị nguồn nhân lực

+ Tổng quan về quản trị chiến lược trong kinh doanh

Cải Cách Hành Chính Và Vai Trò Của Đảng Chính Trị

Thứ tư, 02 Tháng 3 2016 15:30

(LLCT) – Trong tiến trình thực hiện đường lối đổi mới, cải cách hành chính được đặt ra như một đòi hỏi khách quan để tạo tiền đề và thúc đẩy cải cách kinh tế. Cải cách thể chế, thủ tục hành chính được xác định là trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trở thành một bộ phận quan trọng trong chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

1. Chủ trương và phương thức lãnh đạo trong tiến trình cải cách hành chính

Ngay từ Đại hội VI (1986), Đảng đã đề ra chủ trương thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tổ chức bộ máy nhà nước đã được sắp xếp lại một bước theo hướng gọn nhẹ, bớt đầu mối.

Tại Đại hội VII (1991), Đảng xác định tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước và đề ra những nhiệm vụ về sửa đổi Hiến pháp, cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội, sửa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương. Thực hiện Nghị quyết Đại hội, trong nhiệm kỳ, hệ thống chính trị gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân được sắp xếp, kiện toàn.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000 do Đại hội VII thông qua đã khẳng định bước tiến về lý luận, nhận thức về nền hành chính nhà nước. Cương lĩnh nêu rõ: về Nhà nước “phải có đủ quyền lực và có đủ khả năng định ra luật pháp về tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Sửa đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện toàn các cơ quan lập pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý của Nhà nước”. Chiến lược cũng nêu trọng tâm cải cách “nhằm vào hệ thống hành chính với nội dung chính là xây dựng một hệ thống hành chính và quản lý hành chính nhà nước thông suốt, có đủ quyền lực, năng lực, hiệu quả”.

Hội nghị Trung ương 8 khoá VII (1-1995) đánh dấu bước phát triển mới về xây dựng và phát triển nền hành chính nhà nước. Cải cách một bước nền hành chính nhà nước được xác định là trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, với mục tiêu là xây dựng một nền hành chính trong sạch có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hoá để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của Nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã hội. Lần đầu tiên 3 nội dung chủ yếu của cải cách hành chính (CCHC) nhà nước được trình bày một cách hệ thống trong Nghị quyết Trung ương 8, đó là cải cách thể chế của nền hành chính, chấn chỉnh tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.

Đại hội VIII của Đảng (1996) đề cập tới yêu cầu tiến hành CCHC đồng bộ, dựa trên cơ sở pháp luật, coi đó là một giải pháp cơ bản để thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm (1996-2000). Nghị quyết Đại hội VIII nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với cơ chế mới; cải tiến quy trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật của Chính phủ, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và sắp xếp lại bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương, hợp nhất một số cơ quan quản lý chuyên ngành về kinh tế trên cơ sở xác định rõ và thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành.

Một trong những chủ trương và giải pháp lớn về CCHC được nhấn mạnh trong Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII là bảo đảm thực hiện dân chủ hóa đời sống chính trị của xã hội, giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Nhà nước, trong giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước và hoạt động của cán bộ, công chức.

Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII đã biểu thị một quyết tâm chính trị rất lớn về việc tiếp tục tiến hành CCHC, đặt CCHC trong tổng thể của đổi mới hệ thống chính trị. Đảng ta khẳng định: Không thể tiến hành cải cách riêng nền hành chính tách rời sự đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các đoàn thể nhân dân. Cũng không thể CCHC một cách biệt lập mà không đồng thời đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các cơ quan lập pháp, cơ quan tư pháp.

Từ nhận thức đó, Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII đề ra chủ trương tiến hành sắp xếp lại tổ chức bộ máy đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị gắn liền với CCHC theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Đồng thời, với việc kiên quyết sắp xếp một bước bộ máy các tổ chức trong hệ thống chính trị, thực hiện tinh giản biên chế, cải cách chính sách tiền lương.

Đại hội IX của Đảng (2001) bên cạnh việc khẳng định mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá đã đưa ra một loạt chủ trương, giải pháp có ý nghĩa quan trọng trong CCHC như điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ, nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; phân công, phân cấp; tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước, tách rõ chức năng quản lý nhà nước với sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực; thiết lập trật tự kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng…

Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về đẩy mạnh CCHC, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, nhấn mạnh thực hiện CCHC phải đồng bộ với cải cách lập pháp và cải cách t­ư pháp, trong đó đặc biệt chú ý đến chất lượng xây dựng luật. Về cải cách thủ tục hành chính, Nghị quyết xác định “…đây là khâu đột phá để tạo môi trường thuận lợi, minh bạch cho hoạt động của nhân dân và doanh nghiệp”. Nghị quyết cũng đặc biệt đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác CCHC đó là: Đảng quyết định các mục tiêu, quan điểm, chủ trương và giải pháp lớn về CCHC và tăng cường lãnh đạo, kiểm tra, đôn đốc, uốn nắn kịp thời việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng về công tác CCHC.

Như vậy có thể thấy, xuyên suốt tiến trình CCHC nhà nước, Đảng luôn giữ vai trò “tiên phong” trong việc chỉ đạo, lãnh đạo, đề ra đường lối, chủ trương cải cách. Các quyết sách chính trị đó của Đảng có ý nghĩa quyết định trong việc định hướng, chỉ đạo và tác động trực tiếp đến hoạt động quản lý nhà nước nói chung và thực hiện thủ tục hành chính nói riêng.

Để thực hiện đường lối đổi mới đất nước, Đảng, Nhà nước đã đề ra và thực hiện phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Điều 4 Hiến pháp năm 1992 ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

Trong những năm qua, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ngày càng đổi mới theo hướng vừa tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy trách nhiệm, tính chủ động sáng tạo, tự chủ của các cơ quan, các cấp chính quyền nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, từ đó góp phần tạo ra những chuyển biến tích cực, cải thiện và giải quyết ngày càng tốt hơn mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội.

Như vậy, xét trên mọi phương diện, nguyên tắc Đảng lãnh đạo không bao trùm lên việc Đảng làm thay các hoạt động của chính quyền, song mọi hoạt động của chính quyền lại chịu sự chi phối lớn bởi các quyết sách của Đảng, vì thế, nếu hoạt động của chính quyền có những sai sót, tất yếu phải xét tới vai trò của Đảng.

2. Một số kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo cải cách hành chính

Một số địa phương khi tiến hành sơ kết, tổng kết triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa X đã rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích về vai trò của Đảng trong tiến trình CCHC như sau:

Hai là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cơ quan hành chính các cấp có phẩm chất đạo đức, vững về chính trị, giỏi về chuyên môn, có tính chuyên nghiệp, tận tụy phục vụ nhân dân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị là nhân tố quyết định đến sự thành công của công tác CCHC. Thực tế cho thấy, nơi nào cấp uỷ quan tâm, người đứng đầu thể hiện rõ quyết tâm và sự quyết liệt trong chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ CCHC thì nơi đó sẽ có chuyển biến rõ rệt và ngược lại, bên cạnh đó cần phải có đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác CCHC nhiệt tình, tâm huyết và năng lực nhất định để tham mưu, đề xuất giúp người đứng đầu chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính đạt kết quả.

Năm là, đề cao vai trò giám sát của nhân dân và tạo điều kiện để nhân dân tham gia nhiều hơn vào giải quyết các công việc của địa phương, xây dựng cộng đồng dân cư đoàn kết, thống nhất.

Phải quán triệt tư tưởng dân là chủ, lấy dân làm gốc, phải hướng vào mục tiêu phục vụ nhân dân, khắc phục mọi phiền hà, sách nhiễu đối với dân. Mở rộng về phạm vi và tính thực chất trong các quy định về quyền của công dân tham gia các công việc của Nhà nước và xã hội, xây dựng các quyết định chính trị quan trọng của Đảng, Nhà nước. Từ đó từng bước nâng cao trình độ, năng lực làm chủ của người dân.

Sáu là, cần cải cách thủ tục hành chính trong Đảng theo hướng xây dựng các quy chế, quy định,quy trình thực hiện các mối quan hệ của cấp ủy với các tổ chức, cơ quan, đơn vị và người đứng đầu các tổ chức nhà nước, các đoàn thể chính trị – xã hội.

Xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức thực sự có đủ tâm, đủ tầm, trung thực, tận tuỵ với công việc và am hiểu pháp luật. Các cơ quan, đơn vị có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng thường xuyên, định kỳ đối với cán bộ, công chức, đặc biệt là với đội ngũ cán bộ làm công tác lãnh đạo để kịp thời nắm bắt thông tin, kiến thức mới, phục vụ cho công tác lãnh đạo, điều hành; kịp thời loại bỏ những cán bộ, công chức không hoàn thành nhiệm vụ, tham nhũng, biến chất, cơ hội, gây cản trở công cuộc cải cách hành chính hiện nay.

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 6 – 2015

TS Nguyễn Văn Hậu

Học viện Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh

Quyết Định Của Nhà Quản Trị

Cơ sở cây quyết định

Cây quyết định là mô hình đồ họa về quá trình ra quyết định. Với mô hình này, sử dụng lý thuyết xác suất vào việc phân tích những quyết định phức tạp bao gồm:

Nhiều đơn vị cần lựa chọn.

Nhiều yếu tố chưa biết nhưng có thể biểu hiện thông qua một loạt xác suất riêng rẽ hoặc phân phối xác suất liên tục.

Thí dụ về cây quyết đinh: Mở dịch vụ khu bãi tắm thiên nhiên ở vùng núi có cơ sở du lịch và nghỉ ngơi.

Ta sử dụng cây quyết định để giúp giám đốc khu dịch vụ này quyết định xem dơn vị của ông sẽ hoạt động như thế nào trong mùa hè tới.

Phân phối lượng mưa và lợi nhuận của khu bãi tắm

Gần đây ông giám đốc đã nhận được đề nghị của công ty khách sạn trong vùng xem thuê khu bãi tắm trong mùa hè và trả 45.000 ngàn đồng lợi nhuận. Ông ta cũng đang xem xét việc thuê các thiét bị bơm nước từ giếng lên. Nếu thuê các thiết bị này thì khu bãi tắm có khả năng đầy đủ, bất kể lượng nước mưa ít. Nếu quyết định sử dụng nước nhân tạo bổ sung nước mưa tự nhiên, lợi nhuận của ông ta trong cả mùa hè 120 triệu đồng, chưa trừ chi phí thuê và vận hành thiết bị bơm nước. Chi phí thuê khoảng 12 triệu đồng một mùa không kể sử dụng nhiều hay ít. Chi phí sử dụng cho máy bơm là 10 triệu đồng nếu mưa lớn hơn 40cm, 50 triệu đồng nếu mưa trong khoảng từ 20-4-cm; 90 triệu đồng nếu mưa ít hơn 20cm.

Hình dưới 11.3 trình bày vấn đề của ông giám đốc khu bãi tắm dưới dạng một cây quyết định.

Hình 11.3: Cây quyết định của ông giám đốc khu bãi tắm

Nguyên tắc phân tích cây quyết định

Có hai nguyên tắc thực hiện:

Thứ nhất, nếu phân tích điểm nút khả năng có thể xảy ra (vòng tròn) ta tính các giá trị dự đoán tại điểm nút bằng cáh nhân xác suất trên mỗi nhánh bắt đầu từ điểm nút ấy với mức lợi nhuận ghi cở tận cùng của nhánh. Sau đó cộng tất cả các kết quả tính được của nhánh bắt nguồn từ nút này.

Thứ hai, nếu phân tích nút quyết định (hình vuông) thì ta đặt vào hình vuông con số giá trị dự đoán lớn nhất trong tất cả các giá trị cra các cành bắt nguồn từ nút này. Bằng cách ấy, ta chọn được cành có kết quả dự đoán tốt nhất và loại bỏ các cành có giá trị dự đoán nhỏ hơn. Ta đánh dấu vào những cành này bằng hai gạch nhỏ để tỏ ý rằng chúng bị loại bỏ.

Vấn đề quyết định của ông Giám đốc khu bãi tắm được minh họa ở hình 11.4

Hình 11.4. Phân tích cây quyết định của Giám đốc khu bãi tắm.

Như vậy, quyết định tối ưu của ông ta là độc lập mở khi dịch vụ bãi tắm và có thuê thiết bị bơm nước.

thực hiện đầu tư giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ sở hạ tầng thường kéo dài, có khi đến 5-10 năm. Do vậy, thời gian thực hiện kinh doanh giảm. Hơn nữa, các nhà đầu tư nước ngoài cũng chưa được chuyển nhượng, cho thuê lại, thế chấp hoặc dùng đất thuê để góp vốn đầu tư. Hạn chế này cũng góp phần làm cho môi trường đầu tư ở Việt Nam kém hấp dẫn.

Vì vậy, vấn đề đặt ra cho Đảng và Chính phủ Nhà nước ta là phải sớm đưa ra quyết định: rà soát và thay đổi các quy định, luật lệ đang cản trở việc thu hút đầu tư nước ngoài. Nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan thực thi pháp luật; xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, chế độ tư pháp.