Văn Bản 10 Soạn Bài / Top 10 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Bac.edu.vn

Soạn Văn 10 Bài: Văn Bản

Soạn văn 10 bài: Văn bản

Soạn văn lớp 10 ngắn gọn

VnDoc mời bạn đọc tham khảo tài liệu , tài liệu đã được chúng tôi tổng hợp và đăng tải để phục vụ các bạn học sinh lớp 10 học tập hiệu quả hơn môn Ngữ văn. Mời thầy cô và các bạn học sinh tham khảo.

I. Khái niệm, đặc điểm

Câu 1 (trang 24 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

– Các văn bản (1), (2), (3) được người đọc (người viết) tạo ra trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ.

– Các văn bản ấy là phương tiện để tác giả trao đổi kinh nghiệm, tư tưởng tình cảm… với người đọc.

– Có văn bản gồm một câu, có văn bản gồm nhiều câu, nhiều đoạn liên kết chặt chẽ với nhau ; có văn bản bằng thơ, có văn bản bằng văn xuôi.

Câu 2 (trang 24 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

– Mỗi văn bản đã cho đề cập đến vấn đề sau:

+ Văn bản (1): một kinh nghiệm trong cuộc sống (nhất là việc giao kết bạn bè).

+ Văn bản (2): thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ.

+ Văn bản (3): vấn đề chính trị (kêu gọi mọi người chống Pháp).

– Các vấn đề này đều được triển khai nhất quán trong từng văn bản. Văn bản (2) và (3) có nhiều câu nhưng chúng có quan hệ ý nghĩa rất rõ ràng và được liên kết với nhau một cách chặt chẽ (bằng ý nghĩa hoặc bằng các liên từ).

Câu 3 (trang 24 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

Ở văn bản (2), mỗi cặp câu lục bát tạo thành một ý và các ý này được trình bày theo thứ tự “sự việc” (hai sự so sánh, ví von) được liên kết với nhau bằng ý nghĩa và phép lặp từ (thân em). Ở văn bản (3), dấu hiệu về sự mạch lạc còn được nhận ra qua hình thức kết cấu 3 phần: Mở bài, thân bài và kết bài.

– Mở bài: Gồm phần tiêu đề và câu “Hỡi đồng bào toàn quốc!”.

– Thân bài: tiếp theo đến “… thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”.

– Kết bài: Phần còn lại.

Câu 4 (trang 24 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

– Văn bản (3) là một văn bản chính luận được trình bày dưới dạng “lời kêu gọi”. Phần mở đầu của văn bản gồm tiêu đề và một lời hô gọi (Hỡi đồng bào toàn quốc!) để dẫn dắt người đọc vào phần nội dung, gây sự chú ý.

– Phần kết thúc là hai khẩu hiệu (cũng là hai lời hiệu triệu) để khích lệ ý chí và lòng yêu nước của “quốc dân đồng bào”.

Câu 5 (trang 24 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Mục đích của việc tạo lập:

– Văn bản (1) nhằm cung cấp cho người đọc một kinh nghiệm sống (ảnh hưởng của môi trường sống, của những người mà chúng ta thường xuyên giao tiếp đến việc hình thành nhân cách của mỗi cá nhân).

– Văn bản (2) nói lên sự thiệt thòi của người phụ nữ trong xã hội phong kiến

– Văn bản (3) là kêu gọi toàn dân đứng lên chống lại cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp.

Các loại văn bản

Câu 1 (trang 25 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

– Văn bản (1) nói đến một kinh nghiệm sống, văn bản (2) nói lên thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, văn bản (3) đề cập đến một vấn đề chính trị.

– Ở các văn bản (1) và (2) chúng ta thấy có nhiều các từ ngữ quen thuộc thường sử dụng hàng ngày (mực, đèn, thân em, mưa sa, ruộng cày…). Văn bản (3) lại sử dụng nhiều từ ngữ chính trị (kháng chiến, hòa bình, nô lệ, đồng bào, Tổ quốc…)

– Nội dung của văn bản (1) và (2) được thể hiện bằng những hình ảnh giàu tính hình tượng, văn bản (3) chủ yếu dùng lí lẽ và lập luận

Câu 2 (trang 25 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

a. Phạm vi sử dụng của các loại văn bản:

– Văn bản (2) dùng trong lĩnh vực giao tiếp nghệ thuật.

– Văn bản (3) dùng trong lĩnh vực giao tiếp về chính trị.

– Các bài học môn Toán, Vật lí, Hoá học, Sinh học, Lịch sử, Địa lí,… trong SGK dùng trong lĩnh vực giao tiếp khoa học.

– Đơn xin nghỉ học, giấy khai sinh dùng trong giao tiếp hành chính.

b. Mục đích giao tiếp cơ bản của mỗi loại văn bản

– Văn bản (2) nhằm bộc lộ tình cảm, cảm xúc.

– Văn bản (3) nhằm kêu gọi, hiệu triệu toàn dân đứng lên kháng chiến.

– Các văn bản trong SGK nhằm truyền thụ các kiến thức khoa học ở nhiều lĩnh vực.

c. – Văn bản (2) dùng các từ ngữ thông thường, giàu hình ảnh và liên tưởng nghệ thuật.

– Văn bản (3) dùng nhiều từ ngữ chính trị xã hội.

– Các văn bản trong SGK dùng nhiều từ ngữ, thuật ngữ thuộc các chuyên ngành khoa học.

– Văn bản đơn từ hoặc giấy khai sinh dùng nhiều từ ngữ hành chính.

d. Cách kết cấu và trình bày ở mỗi loại văn bản:

– Văn bản (2) có kết cấu của ca dao, sử dụng thể thơ lục bát.

– Văn bản (3) có kết cấu ba phần rõ ràng mạch lạc.

– Mỗi văn bản trong SGK cũng có kết cấu rõ ràng, chặt chẽ với các phần, các mục…

– Đơn và giấy khai sinh, kết cấu và cách trình bày đều theo mẫu thường được in sẵn chỉ cần điền vào đó các nội dung.

Luyện tập

Câu 1 (trang 37 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Đọc đoạn văn sau và thực hiện những yêu cầu nêu ở dưới

a. Có thể coi đoạn văn như một văn bản nhỏ bởi:

– Câu 2: Câu phát triển ý cho câu 1

– Câu 3: Câu chuyển tiếp, vừa giải thích cho câu 2 và tạo tiền đề cho sự xuất hiện của các câu (4), (5)

– Câu 4: Nêu dẫn chứng 1 (cây đậu Hà Lan và cây mây)

– Câu 5: Nêu dẫn chứng 2 (Cây xương rồng và cây lá bỏng)

c. Có thể đặt tiêu đề cho văn bản là: Mối quan hệ giữa cơ thể và môi trường hoặc Sự ảnh hưởng của môi trường đến cơ thể sống,…

Câu 2 (trang 38 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Sắp xếp các câu thành văn bản:

– Có thể sắp xếp theo hai cách, thứ tự của các câu là:

+ Cách 1: Câu (1), (3), (5), (2), (4)

+ Cách 2: Câu (1), (3), (4), (5), (2)

– Có thể đặt cho văn bản trên tiêu đề là: Hoàn cảnh ra đời bài thơ “Việt Bắc”, Giới thiệu bài thơ “Việt Bắc”

Câu 3 (trang 38 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Viết tiếp câu để hoàn tạo thành văn bản

Môi trường sống của loài người hiện nay đang bị huỷ hoại ngày càng nghiêm trọng. Hàng năm có hàng triệu tấn rác thải không phân hủy bị vứt bừa bãi khắp nơi làm ô nhiễm môi trường đất và nước. Việc làm này khiến đất đai không còn trồng trọt được, đầu độc và giết chết các sinh vật đang sống trong lòng đất và ở các nguồn nước, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của con người. Những cánh rừng ở đầu nguồn bị chặt phá bừa bãi khiến lũ lụt, lở đất ngày càng trở nên dữ dội hơn. Không chỉ vậy, bầu không khí của chúng ta cũng bị ô nhiễm nặng nề. Khí thải từ các nhà máy, các khu công nghiệp xả ra quá mức cho phép làm cho tầng ôzôn bị thủng, tăng hiệu ứng nhà kính, gia tăng thêm các bệnh về da và hô hấp cho con người.

– Có thể đặt tên cho văn bản là: “Ô nhiễm môi trường sống”

Câu 4 (trang 38 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Xác định những nội dung của một đơn xin phép nghỉ học:

– Đơn thường gửi cho giáo viên chủ nhiệm lớp (hoặc có thể cho Ban Giám hiệu nhà trường nếu thời gian nghỉ học quá dài). Người viết đơn thường là học sinh hoặc sinh viên.

– Mục đích của việc viết đơn là: báo cáo việc nghỉ học và xin phép được nghỉ học.

– Nội dung cơ bản của đơn thường có:

+ Tên họ của người viết đơn.

+ Nêu lí do nghỉ học.

+ Thời gian xin nghỉ học (bao lâu?)

+ Lời hứa thực hiện đầy đủ các công việc học tập trong thời gian nghỉ học.

– Kết cấu của đơn:

(1) Quốc hiệu

(2) Ngày, tháng, năm viết đơn

(3) Tên đơn

(4) Họ tên, địa chỉ người nhận.

(5) Họ tên, địa chỉ lớp của người viết

(6) Nội dung đơn (lí do nghỉ học, thời gian xin nghỉ, lời hứa.

(7) Kí và ghi rõ họ tên

– Viết một lá đơn đáp ứng yêu cầu của văn bản hành chính:

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ĐƠN XIN NGHỈ HỌC

Kính gửi: Cô giáo chủ nhiệm lớp …, Trường THPT ….

Tên em là: Nguyễn Quang Vinh, học sinh lớp ….

Em viết đơn này xin trình bày với cô việc như sau: Hôm nay, thứ … ngày … tháng … năm …, em bị cảm không thể đi học được. Em làm đơn này kính xin cô cho em nghỉ buổi học hôm nay.

Em xin hứa sẽ thực hiện việc chép bài và học bài nghiêm túc và đầy đủ.

Em xin chân thành cảm ơn!

…, ngày…tháng…năm…

Người làm đơn

Nguyễn Quang Vinh

Bài Soạn Lớp 10: Văn Bản

(1) Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng

(Tục ngữ)

(2) Thân em như hạt mưa rào

Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa. Thân em như hạt mưa sa Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.

(3) LỜI KÊU GỌI TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN

Hỡi đồng bào toàn quốc!

Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước. Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh, thắng lợi nhất định sẽ về dân tộc ta! Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm! Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 1946

a) Văn bản trên được người nói (người viết) tạo ra trong loại hoạt động nào? Để đáp ứng nhu cầu gì? Dung lượng (số câu) trong mỗi văn bản như thế nào?

b) Mỗi văn bản trên đề cập đến vấn đề gì? Vấn đề đó được triển khai nhất quán trong toàn bộ văn bản như thế nào?

c) Ở những văn bản có nhiều câu (các văn bản 2 và 3), nội dung của văn bản được triển khai mạch lạc qua từng câu, từng đoạn như thế nào? Đặc biệt ở văn bản (3), văn bản còn được tổ chức theo kết cấu ba phần như thế nào?

d) Về hình thức, văn bản (3) có dấu hiệu mở đầu và kết thúc như thế nào?

e) Mỗi văn bản trên được tạo ra nhằm mục đích gì?

Trả lời:

a)

Các văn bản trên được người nói (người viết) tạo ra trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ.

Các văn bản trên được tạo ra để đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin, bày tỏ cảm xúc của cá nhân, truyền đạt các kinh nghiệm được đúc rút từ thực tiễn đời sống từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Số câu trong mỗi văn bản không giống nhau: văn bản (1) chỉ có 1 câu, văn bản (2) có 4 câu, văn bản (3) có nhiều câu, nhiều đoạn.

b)

Các văn bản trên đề cập tới các vấn đề:

Văn bản (1) truyền đạt kinh nghiệm của người xưa về việc lựa chọn và kết bạn vì sự tác động của bạn đến mình có thể tiếp diễn theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực.

Văn bản (2) lời giãi bày, tâm sự của người phụ nữ trong xã hội phong kiến về thân phận hẩm hiu, khốn cùng của mình.

Các vấn đề ấy được triển khai một cách thống nhất trong văn bản. Các câu trong văn bản có dung lượng dài (văn bản 2 và 3) có sự liên kết với nhau về mặt nghĩa hoặc về mặt hình thức.

c)

Ở văn bản (2), mỗi cặp câu lục bát tạo thành một ý và các ý này được trình bày theo thứ tự “sự việc” (hai sự so sánh, ví von). Hai cặp câu này vừa liên kết với nhau bằng ý nghĩa, vừa liên kết với nhau bằng phép lặp từ (thân em).

Ở văn bản (3), dấu hiệu về sự mạch lạc còn được nhận ra qua hình thức kết cấu 3 phần: Mở bài, thân bài và kết bài.

Mở bài: Gồm phần tiêu đề và câu “Hỡi đồng bào toàn quốc!”.

Thân bài: tiếp theo đến “… thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”.

Kết bài: Phần còn lại.

d)

Văn bản (3) là một văn bản chính luận được trình bày dưới dạng “lời kêu gọi”. Thế nên, nó có dấu hiệu hình thức riêng. Phần mở đầu của văn bản gồm tiêu đề và một lời hô gọi (Hỡi đồng bào toàn quốc !) để dẫn dắt người đọc vào phần nội dung, để gây sự chú ý và tạo ra sự “đồng cảm” cho cuộc giao tiếp.

Phần kết thúc là hai khẩu hiệu (cũng là hai lời hiệu triệu) để khích lệ ý chí và lòng yêu nước của “quốc dân đồng bào”.

e)

Mục đích của việc tạo lập:

Văn bản (1) là nhằm cung cấp cho người đọc một kinh nghiệm sống (ảnh hưởng của môi trường sống, của những người mà chúng ta thường xuyên giao tiếp đến việc hình thành nhân cách của mỗi cá nhân).

Văn bản (2) nói lên sự thiệt thòi của người phụ nữ trong xã hội phong kiến (họ không tự quyết định được thân phận và cuộc sống tương lai của mình mà phải chờ đợi vào sự rủi may)

Văn bản (3) là kêu gọi toàn dân đứng lên chống lại cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp.

– Từ ngữ được sử dụng trong mỗi văn bản thuộc loại nào (từ ngữ thông thường trong cuộc sống hay từ ngữ thuộc lĩnh vực chính trị)?

– Cách thức thể nội dung như thế nào (thông qua hình ảnh hay thể hiện trực tiếp bằng lí lẽ, lập luận)?

2. So sánh các văn bản 2,3 (ở mục I) với:

– Một bài học trong sách giáo khoa thuộc môn học khác (Toán, Vật lí, Hóa học, Sinh học, Lịch sử, Địa lí,…)

– Một đơn xin nghỉ học hoặc một tờ giấy khai sinh

Từ sự so sánh các văn bản trên, hãy rút ra nhận xét về những phương diện sau:

a) Phạm vi sử dụng của mỗi loại văn bản trong hoạt động giao tiếp xã hội.

b) Mục đích giao tiếp cơ bản của mỗi loại văn bản.

c) Lớp từ ngữ tiêng được sử dụng trong mỗi loại văn bản.

d) Cách kết câu và trình bày ở mỗi loại văn bản.

Trả lời:

1.

Vấn đề được đề cập tới trong ba văn bản: Văn bản 1 là truyền đạt một kinh nghiệm sống; văn bản 2 nói về số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa; văn bản 3 bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực chính trị

Ở văn bản 1, 2 từ ngữ được sử dụng trong văn bản là những từ ngữ quen thuộc trong đời sống hàng ngày cùng những hình ảnh mang tính ẩn dụ như mực – đèn, đen – sáng; hạt mưa sa – giếng – vườn hoa – đài các – ruộng cày

Ở văn bản 3 từ ngữ được sử dụng trong văn bản là những từ ngữ thuộc lĩnh vực chính trị được thể hiện một cách trực tiếp bằng những lí lẽ, lập luận như kháng chiến, hòa bình, độc lập, nô lệ. Tổ quốc,…

2.

a) Phạm vi sử dụng của các văn bản:

Văn bản 2 sử dụng trong lĩnh vực giao tiếp nghệ thuật

Văn bản 3 sử dụng trong lĩnh vực giao tiếp chính trị

Các bài học trong sách giáo khoa Toán, Vật lí, Hóa học, Sinh học, Lịch sử, Địa lí,…được sử dụng trong lĩnh vực giao tiếp khoa học

Đơn xin nghỉ học hoặc giấy khai sinh được sử dụng trong giao tiếp hành chính.

b) Mục đích giao tiếp

Văn bản (2) nhằm bộc lộ tình cảm, cảm xúc.

Văn bản (3) nhằm kêu gọi, hiệu triệu toàn dân đứng lên kháng chiến.

Các văn bản trong SGK nhằm truyền thụ các kiến thức khoa học ở nhiều lĩnh vực.

c.

Văn bản (2) dùng các từ ngữ thông thường, giàu hình ảnh và liên tưởng nghệ thuật.

Văn bản (3) dùng nhiều từ ngữ chính trị xã hội.

Các văn bản trong SGK dùng nhiều từ ngữ, thuật ngữ thuộc các chuyên ngành khoa học.

Văn bản đơn từ hoặc giấy khai sinh dùng nhiều từ ngữ hành chính.

d. Cách kết cấu và trình bày ở mỗi loại văn bản:

Văn bản (2) có kết cấu của ca dao, sử dụng thể thơ lục bát.

Văn bản (3) có kết cấu ba phần rõ ràng mạch lạc.

Mỗi văn bản trong SGK cũng có kết cấu rõ ràng, chặt chẽ với các phần, các mục…

Đơn và giấy khai sinh, kết cấu và cách trình bày đều theo mẫu thường được in sẵn chỉ cần điền vào đó các nội dung.

Soạn Bài Văn Bản Lớp 10

1. Khái niệm văn bản

Văn bản là sản phẩm được tạo ra trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Nó thường gồm nhiều câu và là một chỉnh thể về mặt nội dung và hình thức.

– Các câu trong văn bản có sự liên kết với nhau chặt chẽ bằng các liên từ và liên kết về mặt nội dung. Đồng thời, cả văn bản còn phải đư­ợc xây dung theo một kết cấu mạch lạc, rõ ràng.

– Mỗi văn bản th­ường hư­ớng vào thực hiện một mục đích giao tiếp nhất định.

– Mỗi văn bản có những dấu hiệu hình thức riêng biểu hiện tính hoàn chỉnh về mặt nội dung: thư­ờng mở đầu bằng một tiêu đề và có dấu hiệu kết thúc phù hợp với từng loại văn bản.

3. Các loại văn bản thường gặp

Dựa theo lĩnh vực và chức năng giao tiếp, người ta phân biệt các loại văn bản sau:

– Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ sinh hoạt (thư, nhật kí…).

– Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ nghệ thuật (thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, tuỳ bút,…).

– Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ khoa học (sách giáo khoa, tài liệu học tập, bài báo khoa học, luận văn, luận án, công trình khoa học,…).

– Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ hành chính công vụ (đơn, giấy khai sinh, giấy uỷ quyền,…). Các loại văn bản này thường có mẫu biểu quy định sẵn về hình thức.

II. RÈN KĨ NĂNG

1. Các văn bản (1), (2), (3) được người đọc (người viết) tạo ra trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Các văn bản ấy là phương tiện để tác giả trao đổi kinh nghiệm, tư tưởng tình cảm với người đọc. Có văn bản gồm một câu, có văn bản gồm nhiều câu, nhiều đoạn liên kết chặt chẽ với nhau ; có văn bản bằng thơ, có văn bản bằng văn xuôi.

2. Văn bản (1) đề cập đến một kinh nghiệm trong cuộc sống (nhất là việc giao kết bạn bè), văn bản (2) nói đến thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ, văn bản (3) đề cập tới một vấn đề chính trị (kêu gọi mọi người đứng lên chống Pháp). Các vấn đề này đều được triển khai nhất quán trong từng văn bản. Văn bản (2) và (3) có nhiều câu nhưng chúng có quan hệ ý nghĩa rất rõ ràng và được liên kết với nhau một cách chặt chẽ (bằng ý nghĩa hoặc bằng các liên từ).

3. Ở văn bản (2), mỗi cặp câu lục bát tạo thành một ý và các ý này được trình bày theo thứ tự “sự việc” (hai sự so sánh, ví von). Hai cặp câu này vừa liên kết với nhau bằng ý nghĩa, vừa liên kết với nhau bằng phép lặp từ (“thân em”). Ở văn bản (3), dấu hiệu về sự mạch lạc còn được nhận ra qua hình thức kết cấu 3 phần : Mở bài, thân bài và kết bài.

– Mở bài: Gồm phần tiêu đề và câu “Hỡi đồng bào toàn quốc!”.

– Thân bài: tiếp theo đến “… thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”.

– Kết bài: Phần còn lại.

4. Mục đích của việc tạo lập văn bản (1) là nhằm cung cấp cho người đọc một kinh nghiệm sống (ảnh hưởng của môi trường sống, của những người mà chúng ta thường xuyên giao tiếp đến việc hình thành nhân cách của mỗi cá nhân); văn bản (2) nói lên sự thiệt thòi của người phụ nữ trong xã hội phong kiến (họ không tự quyết định được thân phận và cuộc sống tương lai của mình mà phải chờ đợi vào sự rủi may) ; mục đích của văn bản (3) là kêu gọi toàn dân đứng lên chống lại cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp.

5. Văn bản (3) là một văn bản chính luận được trình bày dưới dạng “lời kêu gọi”. Thế nên, nó có dấu hiệu hình thức riêng. Phần mở đầu của văn bản gồm tiêu đề và một lời hô gọi ( Hỡi đồng bào toàn quốc!) để dẫn dắt người đọc vào phần nội dung, để gây sự chú ý và tạo ra sự “đồng cảm” cho cuộc giao tiếp.

Phần kết thúc là hai khẩu hiệu (cũng là hai lời hiệu triệu) để khích lệ ý chí và lòng yêu nước của “quốc dân đồng bào”.

6

– Văn bản (1) nói đến một kinh nghiệm sống, văn bản (2) nói lên thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, văn bản (3) đề cập đến một vấn đề chính trị.

– Ở các văn bản (1) và (2) chúng ta thấy có nhiều các từ ngữ quen thuộc thường sử dụng hàng ngày ( mực, đèn, thân em, mưa sa, ruộng cày…). Văn bản (3) lại sử dụng nhiều từ ngữ chính trị ( kháng chiến, hòa bình, nô lệ, đồng bào, Tổ quốc…).

– Nội dung của văn bản (1) và (2) được thể hiện bằng những hình ảnh giàu tính hình tượng. Trong khi đó, văn bản (3) lại chủ yếu dùng lí lẽ và lập luận để triển khai các khía cạnh nội dung.

7. a) Phạm vi sử dụng của các loại văn bản:

– Văn bản (2) dùng trong lĩnh vực giao tiếp nghệ thuật.

– Văn bản (3) dùng trong lĩnh vực giao tiếp về chính trị.

– Các bài học môn Toán, Vật lí, Hoá học, Sinh học, Lịch sử, Địa lí,… trong SGK dùng trong lĩnh vực giao tiếp khoa học.

– Đơn xin nghỉ học, giấy khai sinh dùng trong giao tiếp hành chính.

b) Mục đích giao tiếp cơ bản của mỗi loại văn bản

c) Về từ ngữ

– Văn bản (2) dùng các từ ngữ thông thường, giàu hình ảnh và liên tưởng nghệ thuật.

– Văn bản (3) dùng nhiều từ ngữ chính trị xã hội.

– Các văn bản trong SGK dùng nhiều từ ngữ, thuật ngữ thuộc các chuyên ngành khoa học.

– Văn bản đơn từ hoặc giấy khai sinh dùng nhiều từ ngữ hành chính.

d) Cách kết cấu và trình bày ở mỗi loại văn bản:

– Văn bản (2) có kết cấu của ca dao, sử dụng thể thơ lục bát.

– Văn bản (3) có kết cấu ba phần rõ ràng mạch lạc.

– Mỗi văn bản trong SGK cũng có kết cấu rõ ràng, chặt chẽ với các phần, các mục…

– Đơn và giấy khai sinh, kết cấu và cách trình bày đều theo mẫu thường được in sẵn chỉ cần điền vào đó các nội dung.

chúng tôi

Soạn Bài : Văn Bản (Ngữ Văn 10)

Văn bản là sản phẩm được tạo ra trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Nó thường gồm nhiều câu và là một chỉnh thể về mặt nội dung và hình thức.

– Các câu trong văn bản có sự liên kết với nhau chặt chẽ bằng các liên từ và liên kết về mặt nội dung. Đồng thời, cả văn bản còn phải đư­ợc xây dung theo một kết cấu mạch lạc, rõ ràng.

– Mỗi văn bản th­ường hư­ớng vào thực hiện một mục đích giao tiếp nhất định.

– Mỗi văn bản có những dấu hiệu hình thức riêng biểu hiện tính hoàn chỉnh về mặt nội dung: thư­ờng mở đầu bằng một tiêu đề và có dấu hiệu kết thúc phù hợp với từng loại văn bản.

Dựa theo lĩnh vực và chức năng giao tiếp, người ta phân biệt các loại văn bản sau :

– Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ sinh hoạt (thư, nhật kí…).

– Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ nghệ thuật (thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, tuỳ bút,…).

– Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ khoa học (sách giáo khoa, tài liệu học tập, bài báo khoa học, luận văn, luận án, công trình khoa học,…).

– Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ hành chính công vụ (đơn, giấy khai sinh, giấy uỷ quyền,…). Các loại văn bản này thường có mẫu biểu quy định sẵn về hình thức.

1. Các văn bản (1), (2), (3) được người đọc (người viết) tạo ra trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Các văn bản ấy là phương tiện để tác giả trao đổi kinh nghiệm, tư tưởng tình cảm… với người đọc. Có văn bản gồm một câu, có văn bản gồm nhiều câu, nhiều đoạn liên kết chặt chẽ với nhau ; có văn bản bằng thơ, có văn bản bằng văn xuôi.

2. Văn bản (1) đề cập đến một kinh nghiệm trong cuộc sống (nhất là việc giao kết bạn bè), văn bản (2) nói đến thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ, văn bản (3) đề cập tới một vấn đề chính trị (kêu gọi mọi người đứng lên chống Pháp). Các vấn đề này đều được triển khai nhất quán trong từng văn bản. Văn bản (2) và (3) có nhiều câu nhưng chúng có quan hệ ý nghĩa rất rõ ràng và được liên kết với nhau một cách chặt chẽ (bằng ý nghĩa hoặc bằng các liên từ).

3. Ở văn bản (2), mỗi cặp câu lục bát tạo thành một ý và các ý này được trình bày theo thứ tự “sự việc” (hai sự so sánh,ví von). Hai cặp câu này vừa liên kết với nhau bằng ý nghĩa, vừa liên kết với nhau bằng phép lặp từ (“thân em”). Ở văn bản (3), dấu hiệu về sự mạch lạc còn được nhận ra qua hình thức kết cấu 3 phần : Mở bài, thân bài và kết bài.

– Mở bài : Gồm phần tiêu đề và câu “Hỡi đồng bào toàn quốc!”.

– Thân bài : tiếp theo đến “… thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”.

4. Mục đích của việc tạo lập văn bản (1) là nhằm cung cấp cho người đọc một kinh nghiệm sống (ảnh hưởng của môi trường sống, của những người mà chúng ta thường xuyên giao tiếp đến việc hình thành nhân cách của mỗi cá nhân) ; văn bản (2) nói lên sự thiệt thòi của người phụ nữ trong xã hội phong kiến (họ không tự quyết định được thân phận và cuộc sống tương lai của mình mà phải chờ đợi vào sự rủi may) ; mục đích của văn bản (3) là kêu gọi toàn dân đứng lên chống lại cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp.

5. Văn bản (3) là một văn bản chính luận được trình bày dưới dạng “lời kêu gọi”. Thế nên, nó có dấu hiệu hình thức riêng. Phần mở đầu của văn bản gồm tiêu đề và một lời hô gọi ( Hỡi đồng bào toàn quốc !) để dẫn dắt người đọc vào phần nội dung, để gây sự chú ý và tạo ra sự “đồng cảm” cho cuộc giao tiếp.

Phần kết thúc là hai khẩu hiệu (cũng là hai lời hiệu triệu) để khích lệ ý chí và lòng yêu nước của “quốc dân đồng bào”.

6 – Văn bản (1) nói đến một kinh nghiệm sống, văn bản (2) nói lên thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, văn bản (3) đề cập đến một vấn đề chính trị.

– Ở các văn bản (1) và (2) chúng ta thấy có nhiều các từ ngữ quen thuộc thường sử dụng hàng ngày ( mực, đèn, thân em, mưa sa, ruộng cày…). Văn bản (3) lại sử dụng nhiều từ ngữ chính trị ( kháng chiến, hòa bình, nô lệ, đồng bào, Tổ quốc…).

– Nội dung của văn bản (1) và (2) được thể hiện bằng những hình ảnh giàu tính hình tượng. Trong khi đó, văn bản (3) lại chủ yếu dùng lí lẽ và lập luận để triển khai các khía cạnh nội dung.

7. a) Phạm vi sử dụng của các loại văn bản:

– Văn bản (2) dùng trong lĩnh vực giao tiếp nghệ thuật.

– Văn bản (3) dùng trong lĩnh vực giao tiếp về chính trị.

– Các bài học môn Toán, Vật lí, Hoá học, Sinh học, Lịch sử, Địa lí,… trong SGK dùng trong lĩnh vực giao tiếp khoa học.

– Đơn xin nghỉ học, giấy khai sinh dùng trong giao tiếp hành chính.

b) Mục đích giao tiếp cơ bản của mỗi loại văn bản

– Văn bản (2) dùng các từ ngữ thông thường, giàu hình ảnh và liên tưởng nghệ thuật.

– Văn bản (3) dùng nhiều từ ngữ chính trị xã hội.

– Các văn bản trong SGK dùng nhiều từ ngữ, thuật ngữ thuộc các chuyên ngành khoa học.

– Văn bản đơn từ hoặc giấy khai sinh dùng nhiều từ ngữ hành chính.

d) Cách kết cấu và trình bày ở mỗi loại văn bản :

– Văn bản (2) có kết cấu của ca dao, sử dụng thể thơ lục bát.

– Văn bản (3) có kết cấu ba phần rõ ràng mạch lạc.

– Mỗi văn bản trong SGK cũng có kết cấu rõ ràng, chặt chẽ với các phần, các mục…

– Đơn và giấy khai sinh, kết cấu và cách trình bày đều theo mẫu thường được in sẵn chỉ cần điền vào đó các nội dung.

Soạn Bài Lớp 10: Văn Bản

Soạn bài lớp 10: Văn bản

Soạn bài môn Ngữ văn lớp 10 học kì I

Soạn bài: Văn bản

được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo về khái niệm, đặc điểm và các loại văn bản thường gặp giúp học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 10 chuẩn bị cho bài giảng của học kỳ mới sắp tới đây của mình.

Soạn bài lớp 10: Tổng quan văn học Việt NamSoạn bài lớp 10: Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ

VĂN BẢN

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Khái niệm văn bản

Văn bản là sản phẩm được tạo ra trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Nó thường gồm nhiều câu và là một chỉnh thể về mặt nội dung và hình thức.

2. Các đặc điểm của văn bản 3. Các loại văn bản thường gặp

Dựa theo lĩnh vực và chức năng giao tiếp, người ta phân biệt các loại văn bản sau:

II. RÈN KĨ NĂNG

1. Các văn bản (1), (2), (3) được người đọc (người viết) tạo ra trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Các văn bản ấy là phương tiện để tác giả trao đổi kinh nghiệm, tư tưởng tình cảm… với người đọc. Có văn bản gồm một câu, có văn bản gồm nhiều câu, nhiều đoạn liên kết chặt chẽ với nhau; có văn bản bằng thơ, có văn bản bằng văn xuôi.

2. Văn bản (1) đề cập đến một kinh nghiệm trong cuộc sống (nhất là việc giao kết bạn bè), văn bản (2) nói đến thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ, văn bản (3) đề cập tới một vấn đề chính trị (kêu gọi mọi người đứng lên chống Pháp). Các vấn đề này đều được triển khai nhất quán trong từng văn bản. Văn bản (2) và (3) có nhiều câu nhưng chúng có quan hệ ý nghĩa rất rõ ràng và được liên kết với nhau một cách chặt chẽ (bằng ý nghĩa hoặc bằng các liên từ).

3. Ở văn bản (2), mỗi cặp câu lục bát tạo thành một ý và các ý này được trình bày theo thứ tự “sự việc” (hai sự so sánh, ví von). Hai cặp câu này vừa liên kết với nhau bằng ý nghĩa, vừa liên kết với nhau bằng phép lặp từ (“thân em”). Ở văn bản (3), dấu hiệu về sự mạch lạc còn được nhận ra qua hình thức kết cấu 3 phần: Mở bài, thân bài và kết bài.

Mở bài: Gồm phần tiêu đề và câu “Hỡi đồng bào toàn quốc!”.

Thân bài: tiếp theo đến “… thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”.

Kết bài: Phần còn lại.

4. Mục đích của việc tạo lập văn bản (1) là nhằm cung cấp cho người đọc một kinh nghiệm sống (ảnh hưởng của môi trường sống, của những người mà chúng ta thường xuyên giao tiếp đến việc hình thành nhân cách của mỗi cá nhân); văn bản (2) nói lên sự thiệt thòi của người phụ nữ trong xã hội phong kiến (họ không tự quyết định được thân phận và cuộc sống tương lai của mình mà phải chờ đợi vào sự rủi may); mục đích của văn bản (3) là kêu gọi toàn dân đứng lên chống lại cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp.

5. Văn bản (3) là một văn bản chính luận được trình bày dưới dạng “lời kêu gọi”. Thế nên, nó có dấu hiệu hình thức riêng. Phần mở đầu của văn bản gồm tiêu đề và một lời hô gọi (Hỡi đồng bào toàn quốc!) để dẫn dắt người đọc vào phần nội dung, để gây sự chú ý và tạo ra sự “đồng cảm” cho cuộc giao tiếp.

Phần kết thúc là hai khẩu hiệu (cũng là hai lời hiệu triệu) để khích lệ ý chí và lòng yêu nước của “quốc dân đồng bào”.

6. Văn bản (1) nói đến một kinh nghiệm sống, văn bản (2) nói lên thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, văn bản (3) đề cập đến một vấn đề chính trị.

Ở các văn bản (1) và (2) chúng ta thấy có nhiều các từ ngữ quen thuộc thường sử dụng hàng ngày (mực, đèn, thân em, mưa sa, ruộng cày…). Văn bản (3) lại sử dụng nhiều từ ngữ chính trị (kháng chiến, hòa bình, nô lệ, đồng bào, Tổ quốc…).

Nội dung của văn bản (1) và (2) được thể hiện bằng những hình ảnh giàu tính hình tượng. Trong khi đó, văn bản (3) lại chủ yếu dùng lí lẽ và lập luận để triển khai các khía cạnh nội dung.

7. a) Phạm vi sử dụng của các loại văn bản:

b) Mục đích giao tiếp cơ bản của mỗi loại văn bản

c) Về từ ngữ

d) Cách kết cấu và trình bày ở mỗi loại văn bản :