Ảnh: Hội thảo công tác thể chế và kết quả phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bào DTTS
Nước ta có 53 dân tộc thiểu số (DTTS) với khoảng hơn 14 triệu người (chiếm 14,7% dân số cả nước), cư trú thành cộng đồng ở 51 tỉnh, thành phố, 548 huyện, 5266 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 382 xã biên giới. Địa bàn cư trú chủ yếu ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây duyên hải Miền Trung. Trong 53 DTTS có 5 dân tộc trên 1 triệu người, 16 dân tộc dưới 10.000 người, trong đó có 5 dân tộc dưới 1.000 người (1).
Miền núi là địa bàn rộng lớn, chiếm 3/4 diện tích tự nhiên của nước ta, là nơi sinh sống lâu đời của phần lớn các DTTS, có tiềm lực kinh tế to lớn, có nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng, bao gồm đất, rừng, sinh vật, thủy năng, khoáng sản, cây công nghiệp,… với địa thế cao, dốc và thảm thực vật lớn, miền núi đóng vai trò quyết định đối với môi trường sinh thái của cả nước. Nằm dọc biên cương phía bắc và phía tây Tổ quốc, miền núi lại có nhiều cửa ngõ thông thương giữa nước ta với thế giới và các nước trong khu vực cho nên có vị trí đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo quốc phòng – an ninh, Đảng và Nhà nước ta đã xác định vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) là khu vực trọng yếu, giữ vị trí chiến lược quan trọng của đất nước.
1. Quan điểm của Đảng đối với vấn đề dân tộc
Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong cách mạng nước ta. Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta đã đề ra các chủ trương, chính sách dân tộc, với những nội dung cơ bản là: “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển”.
Đặc biệt là thời kỳ đổi mới, vấn đề dân tộc ở nước ta cùng với các vấn đề về đoàn kết các dân tộc và công tác dân tộc ngày càng được Ðảng ta xác định, bổ sung và khẳng định toàn diện, đầy đủ hơn và thể hiện trong từng văn kiện của Đảng, nhằm định hướng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc. Đại hội lần thứ VI của Đảng – Đại hội chính thức mở đầu công cuộc đổi mới – đã đặt ra nhiều vấn đề đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc và đề ra một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế – xã hội miền núi (Nghị quyết số 22/NQ-TW ngày 27/11/1989). Đại hội lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược”. Đại hội lần thứ IX của Đảng một lần nữa khẳng định lại và phát triển thêm: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng”. Đặc biệt là Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa IX) đã ra Nghị quyết riêng về Công tác dân tộc, trong đó nhấn mạnh: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam”(2). Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đại hội lần thứ X của Đảng một lần nữa khẳng định: “V ấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta”(3).
Tại Đại hội lần thứ XI, Đảng ta kế thừa các quan điểm, đường lối của các Đại hội trước đó, tiếp tục thể hiện tư tưởng kiên trì, nhất quán; “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội vùng dân tộc thiểu số. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc”(4).
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã tiếp tục bổ sung, phát triển chủ trương đường lối về dân tộc và chính sách dân tộc: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây nam Bộ và Tây duyên hải miền Trung. Nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc”(5).
Ngoài các văn kiện quan trọng trên, trong thời kỳ này công tác dân tộc và chính sách dân tộc còn có các chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế – xã hội gắn với bảo đảm an ninh quốc phòng vùng DTTS, như: (i) Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01/7/2004 của Bộ Chính trị (Khóa IX) về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2010; Kết luận số 26-KL/TW ngày 02/8/2012 của Bộ Chính trị (Khóa XI) về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01/7/2004 của Bộ Chính trị khóa IX nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2020; (ii) Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 08/01/2002 của Bộ Chính trị (Khóa IX) về phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010; Kết luận số 12-KL/TW ngày 24/11/2011 của Bộ Chính trị (Khóa XI) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 08/01/2002 của Bộ Chính trị khóa IX về phát triển vùng Tây Nguyên thời kỳ 2011-2020; (iii) Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 20/01/2003 của Bộ Chính trị (Khóa IX) về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2001-2010; Kết luận số 28-KL/TW ngày 14/8/2012 của Bộ Chính trị (Khóa XI) về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2011-2020; (iv) Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 16/8/2004 của Bộ Chính trị (Khóa IX) về phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2010; Kết luận số 25-KL/TW ngày 02/8/2012 của Bộ Chính trị khóa XI về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 16/8/2004 của Bộ Chính trị khóa IX nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2020.
Cùng với việc triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế – xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng DTTS, trong giai đoạn từ 2003 đến nay tiếp tục thực hiện 5 Chỉ thị và các Kết luận của Ban Bí thư về công tác đổi mới đối với một số dân tộc: (i) Chỉ thị số 45-CT/TW ngày 23/9/1994 của Ban Bí thư về một số công tác ở vùng dân tộc Mông; (ii) Thông tri số 03/TT-TW ngày 17/10/1991 của Ban Bí thư về công tác ở vùng đồng bào Chăm; (iii) Chỉ thị số 68/CT-TW ngày 18/4/1991 và hiện nay là Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 10/01/2018 của Ban Bí thư về tăng cường công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer trong tình hình mới; (iv) Chỉ thị số 62-CT/TW ngày 08/11/1995 của Ban Bí thư về việc “Tăng cường công tác người Hoa trong tình hình mới”.
Như vậy có thể thấy, giai đoạn từ 2003 đến 2019, chủ trương, đường lối về công tác dân tộc, chính sách dân tộc được Ban Chấp hành trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đặc biệt quan tâm và ban hành bằng những văn bản cụ thể, làm cơ sở cho Nhà nước thể chế hóa thành chính sách dân tộc. Điểm đổi mới quan trọng nhất trong giai đoạn này là sự bổ sung, phát triển đường lối, quan điểm về vấn đề dân tộc trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, trong đó, đáng chú ý là: (i) Thay đổi trật tự các từ thể hiện quan điểm, từ “bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng… “ của Đại hội XI thành “bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết… “ ; (ii) Bổ sung thêm quan điểm “giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc…”; (iii) phát triển quan điểm “giúp nhau cùng tiến bộ…” thành “giúp nhau cùng phát triển…”; (iv) Bổ sung thêm địa bàn trọng điểm vùng có đông đồng bào DTTS “Tây duyên hải miền Trung”, ngoài 3 khu vực là Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ như Đại hội XI xác định; (v) bổ sung, phát triển “Nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc”.
Hiến pháp 2013 chỉ rõ: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam; Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình; Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước (Khoản 1, 2, 3, 4 Điều 5).
Hiến pháp quy định quyền người DTTS với tư cách là công dân của Nước CHXHCN Việt Nam: “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước” (Điều 23); “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật (Khoản 1, 2, 3 Điều 24). “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội” (Điều 34); ” Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa” (Điều 41); “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp” (Điều 42).
Hiến định trách nhiệm của Nhà nước: “Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn (Khoản 1 Điều 58); “Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề” (Khoản 3 Điều 61).
Hiến định về thẩm quyền của Quốc hội trong quyết định chính sách dân tộc. Tại Hiến pháp năm 2013, lần đầu tiên có quy định Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn “Quyết định chính sách dân tộc” (khoản 5 Điều 70). Như vậy, điểm nổi bật nhất so vói Hiến pháp sửa đổi năm 2003 đó là Hiến pháp năm 2013 quy định Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn “Quyết định chính sách dân tộc”.
Đặc biệt, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIV đã chính thức thông qua Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 với 89,44% đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Nghị quyết xác định các nội dung chủ yếu của Đề án: phạm vi, đối tượng điều chỉnh; quan điểm; các chỉ tiêu cụ thể đến năm 2025 và năm 2030; những trọng tâm, trọng điểm cần ưu tiên; tiêu chí phân định vùng đồng bào DTTS&MN; các chính sách đưa vào Chương trình mục tiêu quốc gia; tín dụng ưu đãi và vai trò của Ngân hàng chính sách xã hội; đội ngũ cán bộ công chức, viên chức là DTTS; kinh phí thực hiện Đề án; thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp bách đối với phụ nữ và trẻ em DTTS. Trong đó, xác định mục tiêu tổng quát là: “Khai thác tiềm năng, lợi thế của các địa phương trong vùng, đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội; giảm nghèo nhanh, bền vững, thu hẹp dần khoảng cách về mức sống thu nhập so với bình quân chung của cả nước;…”(8).
Quốc hội thông qua Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, đây là quyết định có tính lịch sử, lần đầu tiên Quốc hội thảo luận và thông qua Đề án dành riêng cho vùng đồng bào DTTS&MN, đảm bảo thực hiện Khoản 5 Điều 70 Hiến pháp năm 2013 là “Quốc hội quyết định chính sách dân tộc”. Quốc hội phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021-2030 sẽ đảm bảo nhất quán quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc, thực sự là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cấp bách, là nhiệm vụ cho toàn bộ hệ thống chính trị, thực hiện có hiệu quả nguyên tắc các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ với các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, phát huy lợi thế, tiềm năng của vùng đồng bào DTTS&MN.
Đề án tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 có tính lý luận và thực tiễn cao, ý nghĩa chính trị to lớn, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước đối với vùng đồng bào DTTS&MN; giải quyết những khó khăn, thách thức, tạo điều kiện để vùng đồng bào DTTS&MN phát triển đi lên cùng đất nước. Việc tổ chức thực hiện hiệu quả Đề án sẽ giải quyết được những tồn tại, hạn chế, bất cập trong công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc hiện nay, đáp ứng mong đợi của đồng bào DTTS; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội vùng DTTS&MN phát triển nhanh, bền vững; giải quyết căn cơ một số bức xúc của người DTTS sinh sống ở vùng kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; Đề án thực hiện sẽ đạt được đa mục tiêu về kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh; góp phần củng cố tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố và nâng cao niềm tin của đồng bào các DTTS đối với Đảng và Nhà nước.
3. Hệ thống chính sách của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Ban hành các chính sách khung
Lần đầu tiên trong lịch sử lĩnh vực quản lý nhà nước về công tác dân tộc nói chung và chính sách dân tộc nói riêng có 2 văn bản đặc biệt quan trọng được Chính phủ ban hành đó là Nghị định về công tác dân tộc và Chiến lược về Công tác dân tộc.
Nghị định số 05/2011/NĐ-CP về công tác dân tộc là văn bản quy phạm pháp luật cao nhất, là khung pháp lý quan trọng để tổ chức thực hiện công tác dân tộc nói chung và chính sách dân tộc nói riêng. Theo Nghị định này, Chính sách dân tộc bao gồm 12 nhóm chính sách bao phủ toàn diện về kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh quốc phòng.
Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020 ban hành theo Quyết định số 449/QĐ-TTg ngày 12/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ đã cụ thể hóa các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác dân tộc qua việc xác định các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể đến năm 2020, huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị; đây là định hướng khung quan trọng về xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Sau thời điểm ban hành Chiến lược, Thủ tướng đã ban hành Chỉ thị số 28/CT-TTg ngày 10/9/2014 về nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về Công tác dân tộc (trước đó, ngày 27/10/2010 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 1971/CT-TTg về Tăng cường công tác dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước). Bên cạnh đó, ngày 10/9/2015 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1557/QĐ-TTg về Phê duyệt một số chỉ tiêu thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ đối với đồng bào dân tộc thiểu số gắn với Mục tiêu phát triển bền vững sau năm 2015, quyết định này đưa ra 19 chỉ tiêu phát triển đối với DTTS đến năm 2020 và năm 2025. Như vậy, về chính sách khung, giai đoạn này Chính phủ có nhiều đổi mới, mang tính đột phá.
Ban hành các chính sách cụ thể theo từng lĩnh vực
Hệ thống chính sách dân tộc hiện nay khá đầy đủ; so với chính sách qua từng giai đoạn từ 2001-2010, 2011-2015 và từ 2016 đến nay, các chính sách giai đoạn này có nhiều thay đổi, được đổi mới từ tư duy, định hướng cho đến cơ chế thực hiện để phù hợp với tình hình phát triển chung của đất nước cũng như của từng khu vực vùng DTTS&MN, vùng đặc biệt khó khăn. Chính sách đã bao phủ toàn diện các lĩnh vực nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững, phát triển giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa, phát triển nguồn nhân lực và xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh. Theo tổng hợp của Ủy ban Dân tộc (9), tổng số chính sách đang còn hiệu lực gồm có 118 chương trình, chính sách triển khai thực hiện ở vùng DTTS&MN, trong đó có 54 chính sách trực tiếp cho đồng bào DTTS, vùng DTTS và 64 chính sách chung có ưu tiên cho đồng bào DTTS. Ngoài những chính sách tác động trực tiếp đến vùng DTTS&MN, hiện nay còn 21 chương trình mục tiêu có nội dung gián tiếp tác động đến vùng DTTS&MN. Nội dung các chính sách giai đoạn này tập trung chủ yếu vào lĩnh vực giảm nghèo, phát triển sản xuất trong nông lâm nghiệp, thủy sản (23 văn bản); giáo dục đào tạo, phát triển nguồn nhân lực (21 văn bản), cơ sở hạ tầng (13 văn bản), bảo tồn và phát triển văn hóa thông tin (14 văn bản) và phát triển cán bộ DTTS (05 văn bản),…
Có thể phân thành các nhóm chính sách dân tộc theo từng lĩnh vực như sau:
– Nhóm chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất; tạo sinh kế, tăng thu nhập cho hộ nghèo, cận nghèo; hỗ trợ hiệu quả cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, ưu tiên cho các dịch vụ gắn với tiêu chí nghèo đa chiều như: y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh môi trường, thông tin; phát triển hạ tầng các vùng khó khăn, vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao. Các chính sách giảm nghèo đặc thù được thực hiện thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững, gồm Chương trình 30a, Chương trình 135 (Quyết định 1722/TTg ngày 02/9/2016) và một số chương trình, chính sách riêng dành cho khu vực đồng bào DTTS&MN như: hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nước sinh hoạt, chuyển đổi ngành nghề, ổn định dân di cư tự phát (Quyết định số 2085/QĐ-TTg và 162/QĐ-TTg); chính sách bảo vệ và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào DTTS giai đoạn 2015-2020 (Nghị định số 75/2015/NĐ-TTg ngày 09/9/2015);…
– Nhóm chính sách về tín dụng ưu đãi: Tín dụng đối với hộ nghèo (Quyết định 15/2013/QĐ-TTg ngày 23/2/2013); Tín dụng đối với hộ mới thoát nghèo (Quyết định 28/2015/QĐ-TTg ngày 21/7/2015); Tín dụng đối với hộ gia đình sản xuất kinh doanh tại vùng khó khăn (Quyết định 31/QĐ-TTg ngày 05/3/2007; Quyết định 306/QĐ-TTg ngày 26/02/2016); tín dụng đối với thương nhân hoạt động thương mại tại vùng khó khăn (Quyết định 92/2009/QĐ-TTg ngày 08/7/2009); Tín dụng đối với hộ nghèo (Quyết định 307/QĐ-TTg ngày 26/02/2016); điều chỉnh giảm lãi suất cho vay đối với một số chương trình tín dụng chính sách tại Ngân hàng CSXH (Quyết định 750/QĐ-TTg ngày 01/6/2015);…
Ngoài các chính sách dân tộc do Trung ương ban hành, các tỉnh, thành phố vùng DTTS&MN đã quan tâm, ban hành chính sách riêng của địa phương. Theo thống kê của Ủy ban Dân tộc (9), riêng giai đoạn 2016-2020 đã có 45 tỉnh, thành phố ban hành 282 đề án, kế hoạch, chính sách riêng của địa phương để hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội đảm bảo đời sống của đồng bào DTTS. Đặc biệt một số địa phương có chính sách khuyến khích hộ gia đình, thôn, xã thoát nghèo (Quảng Nam, Quảng Ngãi), hỗ trợ học viên, nghiên cứu sinh là người DTTS (Quảng Ngãi, Thành phố Hồ Chí Minh), xây dựng giải pháp cụ thể và bố trí nguồn lực để tổ chức thực hiện chính sách. Nhiều tỉnh, thành phố đã xây dựng và tổ chức thực hiện rất tốt chính sách do địa phương ban hành như: Quảng Ninh, TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc, Yên Bái, Thanh Hóa, Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai, Quãng Ngãi, Sóc Trăng,…
*
Quán triệt sâu sắc chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cấp, các ngành, cả hệ thống chính trị đã chú trọng thực hiện công tác dân tộc và các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội đối với đồng bào DTTS đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Các tỉnh vùng DTTS&MN có tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khá cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, bước đầu hình thành vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa, như: cà phê, chè, cao su, tiêu, cây dược liệu, cây lấy gỗ và sản phẩm ngoài gỗ,… Kết cấu hạ tầng vùng DTTS&MN từng bước hoàn thiện, đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân được cải thiện rõ rệt nhất là về phát triển kinh tế, an sinh xã hội được đảm bảo; giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa đặc sắc của các dân tộc được quan tâm; an ninh quốc phòng vùng DTTS&MN được giữ vững; niềm tin của đồng bào DTTS đối với Đảng, Nhà nước được nâng lên. Có được những kết quả trên là nhờ sự tăng cường, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân tộc, đã tạo được sự đồng thuận của xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh to lớn của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, củng cố lòng tin của đồng bào các DTTS đối với Đảng, Nhà nước./.
U Minh Nam
(1) Chính phủ: Đề án tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030 (trình Quốc hội khóa XIV).
(2). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.34.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.121.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.244-245.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.123-124.
(6) Ban chấp hành Trung ương (Khóa XII), Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới, Hà Nội, 2019.
(7), (9) Ủy ban Dân tộc – Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết 24 và Chỉ thị 45, Tài liệu Hội thảo: Công tác thể chế và kết quả phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Hà Nội, ngày 08 tháng 8 năm 2019.
(8) Quốc hội khóa XIV, Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030.