Văn Bản Đoạn Trích Tức Nước Vỡ Bờ / Top 7 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Phân Tích Đoạn Trích Tức Nước Vỡ Bờ

Phân tích đoạn trích Tức nước vỡ bờ trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố để làm sáng tỏ tình cảnh khốn cùng của người nông dân và vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam cũng như bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân phong kiến đương thời.

Phân tích đoạn trích Tức nước vỡ bờ của Ngô Tất Tố

Dàn ý phân tích đoạn trích Tức nước vỡ bờ

I. Mở bài

Giới thiệu một vài nét chủ yếu nhất về tác giả Ngô Tất Tố: một nhà văn hiện thực xuất sắc chuyên viết về nông thôn, nông dân

Giới thiệu về tác phẩm Tức nước vỡ bờ: Một tác phẩm tiêu biểu vạch trần bộ mặt tàn ác, vô nhân đạo của xã hội thực dân phong kiến đương thời đẩy người nông dân vào tình cảnh khó khăn

II. Thân bài 1. Tình thế gia đình chị Dậu

– Nguy ngập, khốn cùng:

Thiếu sưu, nhà không còn của cải đáng giá.

Đã bán 1 đứa con gái, 1 ổ chó, 2 gánh khoai để nộp suất sưu cho em chồng. Nhà không còn gì, con đói

Anh Dậu bị bệnh, bị đánh trói đến ngất ⇒ khi chúng trả về, anh mới tỉnh

Bọn tay sai đến đốc thúc nộp sưu

⇒ Sự thấu hiểu, cảm thông sâu sắc của nhà văn với tình cảnh cơ cực, bế tắc của người nông dân

– Thái độ: hống hách.

– Ngôn ngữ: hách dịch, kém văn hoá

– Hành động: đi thúc sưu nhưng luôn đem theo “roi song, tay thước, dây thừng”, đánh trói người vô tội vạ. Đánh cả phụ nữ.

⇒ Nghệ thuật khắc họa nhân vật thông qua ngôn ngữ, hành động: Tên cai lệ nổi bật là tên côn đồ, vũ phu

⇒ Qua việc miêu tả lối hành xử của cai lệ, nhà văn tố cáo bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời

– Là người vợ luôn yêu thương chăm sóc chồng chu đáo: chăm sóc anh Dậu khi anh Dậu bị đánh ngất

– Vì sự an toàn của chồng, chị đã nhẫn nhục van xin tên cai lệ và người nhà lý trưởng

– Khi chúng đánh chị và sấn tới để trói anh Dậu, chị đã vùng lên đấu tranh, đánh ngã bọn này.

– Chị Dậu là một phụ nữ lao động giàu lòng yêu thương, nhường nhịn mà cũng tiềm tàng tinh thần phản kháng mạnh mẽ.

⇒ Qua đây, ta thấy sự phát hiện của tác giả về tâm hồn yêu thương, tinh thần phản kháng mãnh liệt của người nông dân vốn hiền lành, chất phác

III. Kết bài

Khái quát những nét nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm: Nghệ thuật tạo tình huống truyện có tính kịch, xây dựng nhân vật thông qua miêu tả chân thật, sinh động về ngoại hình, ngôn ngữ, hành động, tâm lí…

Đây là một đoạn trích mang giá trị hiện thực sâu sắc

Bài văn mẫu 1

Ngô Tất Tố là nhà văn bậc thầy trong trào lưu văn học hiện thực những năm mà đất nước còn gian khó, nhân dân bị đọa đầy. Trong hoàn cảnh ấy, tác giả lấy bối cảnh từ một vụ thu sưu thuế ở làng quê để qua đó phản ảnh số phận khổ đau của những người nông dân trong xã hội đương thời đồng thời tố cáo giai cấp thống trị. Đặc biệt qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ, mâu thuẫn của giai cấp khác nhau đã tạo ra sự thu hút với người đọc, khiến họ thương cảm cho chị Dậu và dấy lên sự tức tối, lòng thù hận với giai cấp thống trị.

Trong đoạn trích, ông thành công trong việc xây dựng hình tượng người phụ nữ trong xã hội đương thời thông qua nhân vật chị Dậu. Và ông rất sắc xảo khi gây dựng những tình tiết trong truyện xoay quanh nhân vật chị Dậu, đã làm sáng lên phẩm chất của người nông dân dù bị đọa đầy.

Việc thu sưu thuế vẫn diễn ra gay gắt, bọn tay sai của các quan trên, lí trưởng cứ thế lộng hành, nhà chị Dậu thì ngày càng khó khăn. Chị phải bán khoai, bán chó, bán cả đứa con gái lớn cho nhà lí trưởng để nộp nốt sưu cho chồng của mình. Anh Dậu ngày càng đau ốm, sau trận đánh trói ấy, anh càng yếu dần, nếu bị chúng đánh trói nữa tưởng rằng sẽ chết mất. Và chị Dậu đang tìm mọi cách để bảo vệ chồng của mình. Đoạn trích nổi bật với cảnh cai lệ và chị Dậu đối đầu khi tên tay sai đến thúc sưu nhà chị rất gay cấn và đúng như nhan đề “tức nước vỡ bờ”.

Chị Dậu là một người phụ nữ yêu thương chồng hết mực, chị chăm sóc chồng đang ốm vì vừa bị bọn cường hào lí trưởng đánh đập. Chị cũng thương con mình sâu sắc. Chị tất tả chạy ngược xuôi vay được vài nắm gạo và nấu bát cháo loãng cho chồng ăn lại sức. Từ cách chị chăm chồng, đỡ chồng dậy và cách xưng hô: “Thầy em cố dậy húp tí cháo cho đỡ xót ruột” đã thể hiện sự dịu dàng vốn có trong mỗi người phụ nữ Việt Nam ngày trước.

Chị trở thành trụ cột trong gia đình, gánh chịu mọi đau khổ, sự túng quẫn vì sưu thuế. Chị đổ mồ hôi sôi nước mắt để cứu anh Dậu. Chăm sóc anh nhưng lúc ấy bất ngờ tên tay sai của lí trưởng và cai lệ xông vào, trên tay là roi, thước và dây thừng, hò hét bắt anh chị phải nộp sưu thuế, Anh Dậu quá khiếp đảm đến nỗi suýt ngất, chỉ còn mình chị Dậu chạy vạy, đối phó với giai cấp thống trị. Thoạt đầu, chúng định lôi anh Dậu đi nhưng không hành hung mà chúng lại chửi bới mỉa mai đến nỗi chị Dậu vẫn van xin “cháu xin ông” để khất hạn nộp sưu nhưng rồi chúng sấn đến đánh chị thì đã chạm đến giới hạn cuối cùng, tính cách của “người đàn bà lực điền” ấy mới bộc lộ một cách mạnh mẽ và cứng cỏi hơn. Vậy nên người ta mới nói có áp bức bất công thì ắt hẳn có sự đấu tranh. Chị Dậu đang đứng lên để bảo vệ gia đình và cuộc sống của mình. Chị liều mạng chống cự lại những cú đấm thô bạo bằng những lí lẽ sắc bén: “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!”. Không còn xưng hô tôn trọng với những kẻ độc ác và bạo tàn, chị quên đi vị thế của mình chỉ là những người nông dân thấp hèn, chị đứng lên ngang hàng với những kẻ bạo tàn để đấu tranh. Với tình yêu thương của một người vợ, chị đã chống trả lại bọn chúng. Hai hàm răng nghiến chặt: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!” đầy thách thức và đe dọa. Điều đó thể hiện thái độ căm giận lũ chó đểu, khinh bỉ đến cao độ, đồng thời khẳng định tư thế sẵn sàng chiến đấu của chị, không thèm đấu lí nữa mà thẳng tay trừng trị chúng. Một hành động phản kháng rất mạnh mẽ, chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi đầu ra cửa “Sức lẻo khẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất… Còn tên người nhà lí trưởng hung hăng kết cục cũng bị chị Dậu túm tóc; lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm”. Cách miêu tả rất độc đáo của Ngô Tất Tố đã khiến cuộc đối đầu của chị và tên cai lệ trở nên sinh động, trong xã hội bất công ấy, một cuộc chiến công lí diễn ra để trừng trị kẻ ác đáng làm người ta khâm phục. Có lẽ vì người nông dân đặc biệt là người phụ nữ họ đã phải chịu nhiều bất công nên khi bị dồn đến đường cùng, họ phản kháng với mục đích tự vệ chính đáng. Tuy vậy, hành động của chị Dậu chỉ là một cá nhân chứ chưa phải là cả xã hội cùng đấu tranh để giải phóng giai cấp. Có lẽ theo quy luật, càng nhiều áp bức thì sẽ càng xuất hiện đấu tranh.

Nhân vật cai lệ là nhân vật tiêu biểu cho lũ tay sai, công cụ đàn áp đắc lực của giai cấp thống trị. Hắn là một tên nghiện ngập, để xác định vai trò của mình trong việc đi thúc sưu thuế, hắn đánh người, trói người vô tội vạ. Trong xã hội ấy, cai lệ chỉ là tay sai, là tên đứng ra hành hạ người dân nghèo thay lũ quan lại tham lam và độc ác.

Đoạn trích Tức nước vỡ bờ là một đoạn văn giàu ý nghĩa hiện thực. Ngô Tất Tố xây dựng nhân vật chị Dậu là một người phụ nữ dịu dàng những cũng quyết đoán, thương yêu chồng con nhưng cũng đầy đủ sức mạnh để chiến đấu. Qua đoạn trích, ta thấy nhà văn đã dành tình yêu thương và sự đồng cảm sâu sắc cho chị Dậu cùng với đó lên án xã hội bất công và tàn ác.

Bài văn mẫu 2

Ngô Tất Tố (1893 – 1954), quê ở làng Lộc Hà, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc Đông Anh, Hà Nội; là một nhà Nho sống ở nông thôn, có vốn hiểu biết Hán học khá sâu rộng, ông nổi tiếng trên lĩnh vực báo chí và văn chương trong giai đoạn đầu thế kỉ XX. Tắt đèn là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Ngô Tất Tố và trong trào lưu văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám 1945.

Tác giả lấy đề tài từ một vụ thu thuế hàng năm ở một làng quê Bắc Bộ, qua đó phản ánh số phận bi thảm của nông dân và bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị trong xã hội đương thời. Có thể nói tác phẩm Tắt đèn là bức tranh thu nhỏ của nông thôn Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.

Trong tác phẩm Tắt đèn, bằng ngòi bút tả thực sắc sảo, nhà văn đã vẽ lên chân dung sinh động của một loạt nhận vật. Từ vợ chồng lão Nghị Quế keo kiệt bất nhân đến bọn cường hào tham lam hống hách. Từ một quan “phụ mẫu” oai vệ mà bỉ ổi đến bọn tay sai đầu trâu mặt ngựa. Mỗi đứa một vẻ nhưng đều giống nhau ở bản chất tàn ác và tư cách đê tiện. Những nhân vật phản diện này tiêu biểu cho tầng lớp phong kiến thống trị ở nông thôn lúc bấy giờ.

Đặc biệt, Ngô Tất Tố đã thành công xuất sắc trong việc xây dựng hình tượng điển hình về người phụ nữ nông dân qua nhân vật chị Dậu. Nhà văn miêu tả chân thực và cảm động về số phận tủi cực của người nông dân bị áp bức, bóc lột, bị dồn đến bước đường cùng. Nhà văn chân thành ca ngợi phẩm chất đáng quý của họ trong hoàn cảnh sống tối tăm, ngột ngạt.

Thái độ yêu ghét của Ngô Tất Tố thể hiện rất rõ ràng qua từng trang viết. Tình cảm yêu mến, trân trọng mà ông dành cho người nông dân khiến ông thật sự là tri âm, tri kỉ của họ. ông cũng không giấu diếm sự khinh bỉ và căm ghét đối với bọn thống trị sâu mọt ở nông thôn. Về nghệ thuật, Tắt đèn được coi là tiểu thuyết hiện thực xuất sắc mà thành công lớn nhất là tác giả đã dựng nên một thế giới nhân vật sinh động, trong đó có những điển hình độc đáo.

Đoạn Tức nước vỡ bờ trích từ chương XVIII của tác phẩm, nội dung xoay quanh những biến động ghê gớm xảy ra với gia đình chị Dậu trong mùa sưu thuế.

Vụ thuế đang trong thời điểm gay gắt nhất. Quan trên sắp về tận làng để đốc thuế. Bọn tay sai hung hãn xông vào nhà những người chưa nộp thuế để đánh trói, bắt bớ và giải ra đình tiếp tục cùm kẹp, tra khảo. Chị Dậu đã phải bán khoai, bán chó, bán cả đứa con gái lớn để nộp sưu cho chồng, nhưng bọn hào lí ngang ngược lại bắt anh Dậu phải nộp cả suất của người em đã chết từ năm ngoái. Thành thử, anh Dậu vẫn cứ là người thiếu thuế, bọn chúng chắc chắn sẽ không buông tha. Đã thế anh Dậu lại đang ốm rề rề sau trận đòn, tưởng chết đêm qua. Nếu bị chúng đánh trói lần nữa thì mạng sống của anh khó mà giữ được. Vấn đề quan trọng nhất đối với chị Dậu giờ đây là làm sao bảo vệ được chồng trong tình thế nguy ngập này. Đoạn trích tiếp nối câu chuyện trên.

Qua đoạn trích, tác giả phơi bày và lên án bản chất tàn ác bất nhân của chế độ thực dân phong kiến lúc bấy giờ và phản ánh tình cảnh đau thương của nông dân cùng quy luật có áp bức có đấu tranh. Nhà văn giúp chúng ta thấy được vẻ đẹp tâm hổn và sức sống tiềm tàng của người phụ nữ nông dân nghèo khổ. Trong đoạn trích có hai nhân vật chính là chị Dậu và tên cai lệ.

Mở đầu là cảnh chị Dậu chăm sóc người chồng ốm yếu vừa bị bọn hào lí trong làng đánh đập dã man chỉ vì thiếu tiền nộp sưu. Chị Dậu đã cô gắng hết sức để cứu chồng nhưng cuối cùng anh Dậu vẫn không tránh được sự bắt bớ, hành hạ. Có thấy được tình thương yêu chổng con sâu sắc của chị Dậu, ta mới hình dung được sự dũng cảm quên mình của chị. Chị tất tả chạy ngược chạy xuôi, vay được nắm gạo nấu nồi cháo loãng. Cảm động thay là cảnh chị Dậu múc cháo ra mấy cái bát cũ kĩ, sứt mẻ và quạt tia lịa cho cháo mau nguội rồi ân cần mời mọc: Thầy em cố dậy húp tí cháo cho đỡ xót ruột. Trong ánh mắt và giọng nói của người vợ nghèo khổ ấy toát lên một tình cảm tha thiết đến nao lòng.

Chị Dậu đã trở thành trụ cột của cái gia đình đang quẫn bách khốn khổ vì sưu, vì thuế. Chồng bị đánh đập, gông cùm. Một tay chị chèo chống, chạy vạy, phải bán tất cả những gì có thể bán được, kể cả đứa con gái đầu lòng ngoan ngoãn, hiếu thảo mà chị thương đứt ruột để lấy tiền nộp sưu, cứu chồng khỏi vòng tù tội. Chị đã phải đổ bao mồ hôi nước mắt để anh Dậu được trả tự do trong tình trạng tưởng như chỉ còn là một cái xác không hồn. Giữa lúc anh Dậu vừa bưng bát cháo kề vào miệng thì cai lệ và người nhà lí trưởng đã sầm sập sấn vào với những roi song, tay thước và dây thừng, hò hét bắt anh phải nộp tiền sưu. Quá khiếp đảm, anh Dậu đã lăn đùng ra không nói được câu gì, chỉ còn chị Dậu một mình đối phó với lũ ác nhân.

Chị Dậu đã đương đầu với bọn nha dịch tay sai để bảo vệ chồng như thế nào?

Ban đầu, khi bọn chúng ập vào định lôi anh Dậu đi nhưng chưa hành hung mà chỉ chửi bới, mỉa mai, đe doạ thì chị Dậu vẫn nhũn nhặn van xin tên cai lệ độc ác. Bọn đầu trâu mặt ngựa hung hãn nhân danh phép nước, người nhà nước để ra tay, còn chồng chị là hạng cùng đinh đang có tội (!) cho nên chị phải van xin. Vả lại, kinh nghiệm lâu đời đã thành bản năng của người nông dân thấp cổ bé họng là phải biết rõ thân phận mình. Thói quen nhẫn nhục khiến chị chỉ dám năn nỉ, khơi gợi lòng nhân từ của tên cai lệ: Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tĩnh được một lúc, ông tha cho! Cách xưng hô ông, cháu của chị Dậu là cách xưng hô của kẻ dưới với người trên, biểu hiện sự hạ mình. Bọn chúng chẳng thèm nghe mà sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu, định bắt trói anh một lần nữa thì chị Dậu đã giận xám mặt nhưng vẫn cố chịu đựng, níu tay tên cai lệ van nài: Cháu xin ông! Mọi lời nói, hành động của chị Dậu đều không ngoài mục đích để bảo vệ chồng.

Đến khi giới hạn của sự chịu đựng bị phá vỡ thì tính cách cứng cỏi của chị Dậu mới thật sự bộc lộ. Lúc tên cai lệ đáp lại lời van xin của chị bằng những cú đấm thô bạo rồi sấn đến trói anh Dậu thì chị tức quá không thể chịu được nên đã liều mạng chống cự lại. Sự bùng nổ tính cách này là kết quả tất yếu của quá trình chịu đựng lâu dài sự tàn ác, bất công. Điều đó đúng với quy luật có áp bức, có đấu tranh. Người đọc xót thương một chị Dậu phải hạ mình van xin bao nhiêu thì càng đồng tình, nể phục một chị Dậu đáo để, quyết liệt bấy nhiêu.

Lúc đầu, chị cự lại tên cai lệ bằng lí lẽ: Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ! Thực ra, chị chỉ nói đốn lòng nhân đạo tối thiểu của con người. Chị không còn xưng cháu và gọi tên cai lệ bằng ông nữa mà xưng là tôi – ông, ngẩng cao đầu nhìn thẳng vào mặt đối thủ.

Từ vị thế thấp hèn của kẻ dưới, chị Dậu vụt trở thành ngang hàng với những kẻ xưa nay vẫn đè đầu cưỡi cổ mình. Câu nói của chị là lời cảnh cáo cứng rắn mà vẫn có đủ tình, đủ lí. Nhưng cái ác thường không biết chùn tay. Tên cai lệ cứ sấn tới đánh chị và nhảy vào định lôi anh Dậu đi. Lòng yêu thương chồng tha thiết đã thúc đẩy chị phải hành động chống trả quyết liệt lũ tay sai tàn ác đang cố tình phá nát gia đình chị.

Chị không chấp nhận để chồng mình bị hành hạ thêm một lần nữa. Hành động chống trả bọn tay sai diễn ra thật bất ngờ nhưng thực ra mầm mống phản kháng đã ẩn chứa tử lâu dưới vẻ ngoài cam chịu nhẫn nhục thường ngày của chị. Sự chịu đựng kéo dài và sự áp bức lên đến tột đỉnh khiến cho thái độ phản kháng bùng lên dữ dội.

Khi tên cai lệ dã thú ấy tát vào mặt chị một cái đánh bốp rồi cứ hung hăng sấn tới chỗ anh Dậu, thì chị đã nghiến hai hàm răng thách thức: Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem! Không còn ông – cháu, tôi – ông gì nữa, chị chuyển phắt sang xưng bà và gọi tên cai lệ là mày. Điều đó thể hiện thái độ căm giận, khinh bỉ đến cao độ, đồng thời khẳng định tư thế của chị là sẵn sàng đè bẹp đối phương. Chị Dậu là một lò lửa đang bùng cháy dữ dội. Chị không thèm đấu lí với tên cai lệ bất lương mà thẳng tay trừng trị hắn.

Tiếp sau lời cảnh cáo đanh thép là hành động phản kháng mạnh mẽ. Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất… Còn tên người nhà lí trưởng hung hăng kết cục cũng bị chị Dậu túm tóc; lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.

Đoạn văn miêu tả cuộc đối đầu giữa chị Dậu và lũ người độc ác được tác giả miêu tả thật sinh động và thu vị. Trong xã hội mà tội ác hoành hành, còn gì hả hê hơn khỉ mọi người được chứng kiến cái ác bị trừng trị đích đáng?! Do đâu mà chị Dậu có sức mạnh lạ lùng một lúc quật ngã hai tên tay sai hung hãn như vậy ? Đó là sức mạnh của lòng căm hờn mà cái gốc của lòng căm hờn ấy lại chính là tình yêu thượng và ý thức bảo vệ chồng con của người đàn bà nghèo khổ. Khi rón rén bưng cháo cho chồng và theo dõi xem chồng ăn có ngon miệng không, khi hạ mình van xin kẻ ác và khi nghiến răng quật ngã chúng, trước sau, lúc nào chị Dậu cũng vì người chồng đang đau ốm. Tình yêu chồng, thương con cộng với tinh thần phản kháng âm ỉ bấy lâu đã thổi bùng ngọn lửa phản kháng trong lòng chị. Nỗi sợ cố hữu của kẻ bị áp bức phút chốc tiêu tan, chỉ còn lại nhân cách cứng cỏi của một con người chân chính. Hành động chống đối bộc phát đó chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương mãnh liệt trong trái tim người phụ nữ dường như sinh ra để suốt đời nhường nhịn, hi sinh.

Tuy vậy, sự phản kháng của chị Dậu mới chỉ là hành động tức nước vỡ bờ của một cá nhân chứ chưa phải là hành động vùng lên phá vỡ áp bức bất công để tự giải phóng của một giai cấp, một dân tộc. Thế nhưng nó cũng chứng minh cho quy luật có áp bức, có đấu tranh. Áp bức càng nhiều thì đấu tranh càng quyết liệt.

Chứng kiến cảnh xô xát giữa vợ mình với tên cai lệ và người nhà lí trưởng, anh Dậu sợ quá muốn dậy can vợ, nhưng mệt lắm, ngồi lên lại nằm xuống, vừa run lại vừa kêu: – u nó không được thế! Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta là phải tù, phải tội. Anh Dậu cố nhắc cho vợ nhớ cái sự thật phổ biến trong xã hội lúc bấy giờ, nhưng chị Dậu không chấp nhận điều vô lí đó. Chị phẫn uất hét lên : Thà ngồi tù, để chúng nó làm tình làm tội mãi thế tôi chịu không được… Câu nói này khẳng định chị Dậu không muốn cúi đầu cam chịu mãi cảnh áp bức, bất công.

Ý nghĩa của câu tục ngữ tức nước vỡ bờ qua ngòi bút hiện thực của Ngô Tất Tố đã được thể hiện thật sống động và đầy thuyết phục. Tuy tác giả khỉ đó chưa giác ngộ cách mạng và tác phẩm kết thúc bằng cảnh ngộ bế tắc của chị Dậu nhưng nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận xét rằng Ngô Tất Tố, với Tắt đèn đã “xui người nông dân đấu tranh cách mạng…”.

Bằng cảm quan hiện thực mạnh mẽ, Ngô Tất Tố đã cảm nhận được xu thế “tức nước vỡ bờ” và sức mạnh to lớn khôn lường của nó. Có thể nói đoạn trích này đã dự báo cơn bão táp của quần chúng nông dân nổi dậy dưới sự tập hợp, lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ sẽ hất phăng chế độ thực dân phong kiến tham tàn, mục nát.

Nhân vật cai lệ trong đoạn trích tiêu biểu cho lũ tay sai chuyên nghiệp, là công cụ đàn áp đắc lực của giai cấp thống trị. Để khẳng định vai trò của mình trong vụ thuế, hắn đánh người, trói người vô tội vạ. Trong bộ máy thống trị ở nông thôn, tên cai lệ này chỉ là một gã tay sai mạt hạng. Hắn hung dữ, sẵn sàng gây tội ác mà không chùn tay vì không hề bị ai ngăn chặn. Hắn vênh váo tự cho mình là đại diện cho nhà nước. Hắn nhân danh phép nước để làm những điều tàn ác đối với người nghèo. Vì vậy, có thể nói, tên cai lệ vô danh đó là hiện thân đầy đủ nhất của cái guồng máy “nhà nước” bất nhân lúc bấy giờ. Tuy chỉ xuất hiện trong một đoạn văn ngắn nhưng nhân vật cai lệ được ngòi bút tả thực của tác giả khắc họa nổi bật, có giá trị khái quát cao.

Đoạn trích Tức nước vỡ bờ là một đoạn văn hay, tiêu biểu cho bút pháp tả thực tài tình của Ngô Tất Tố. Ngôn ngữ kể chuyện, miêu tả và đối thoại của nhân vật rất đặc sắc. Đó là lời ăn tiếng nói bình dị, tự nhiên của đời sống hằng ngày. Mỗi nhân vật đều có ngôn ngữ riêng. Ngôn từ của tên cai lệ thì thô lỗ, đểu cáng. Lời lẽ của chị Dậu khi thì thiết tha mềm mỏng, khi đanh thép quyết liệt. Lời lẽ của bà cụ hàng xóm thì thật thà, hiền hậu… Lời ăn tiếng nói của nông dân được tác giả sử dụng nhuần nhuyễn, rất hợp cảnh, hợp tình.

Nhà văn Ngô Tất Tố đã dành cho nhân vật chính là chị Dậu tình cảm yêu thương, thông cảm và trân trọng. Những tình tiết sinh động và đầy kịch tính trong đoạn trích đã góp phần hoàn thiện tính cách của người phụ nữ nông dân đẹp người, đẹp nết.

Chị Dậu mộc mạc, hiền dịu, vị tha, sống khiêm nhường, biết nhẫn nhục chịu đựng… nhưng hoàn toàn không yếu đuối, trái lại vẫn có một sức sống mạnh mẽ, một tỉnh thần phản kháng tiềm tàng. Khi bị đẩy tới bước đường cùng, chị đã vùng dậy chống trả quyết liệt. Đó là thái độ cứng còi, bất khuất, dám đối đầu với cái ác trong xã hội.

Bài văn mẫu 3

Ngô Tất Tố là một trong những nhà văn hiện thực phê phán nổi tiếng nhất thời kì cách mạng. Các tác phẩm của ông luôn đi liền với hình ảnh những người nông dân khốn khổ, luôn bị bóc lột, bị áp bức mà không thể tìm ra được lối thoát. Và nhắc tới ông, có lẽ chúng ta sẽ được nghe đầu tiên là tác phẩm “Tắt đèn“. Và trong tác phẩm, phân đoạn ” Tức nước vỡ bờ ” là một trong những đoạn văn gây nhiều xúc động và có ý nghĩa nhất trong lòng người đọc.

Tác giả lấy đề tài từ vụ thuế hàng năm ở những làng quê Bắc Bộ, với những hình ảnh như in đậm vào tâm trí của người đọc, hiện lên số phận bi thảm của những người phụ nữ nói chung và những người nông dân nói riêng cùng bản chất của giai cấp thống trị trong xã hội đương thời. Đó là tình cảnh của người nông dân “một cổ hai tròng” khi vừa chịu ách bóc lột của những kẻ tàn dư phong kiến còn sót lại, vừa của những kẻ đi theo thực dân pháp, bán đứng tổ quốc. Trong tác phẩm, tác giả đã sử dụng ngòi bút hiện thực để vẽ nên chân dung của hàng loạt những nhân vật ở trong tác phẩm. Điển hình cho những kẻ áp bức con người là vợ chồng Nghị Quế, luôn lợi dụng tình cảnh của những con người đang gặp khó khăn nhằm trục lợi hay những bọn tay sai cường hào tuy chỉ là những kẻ làm thuê nhưng chúng lại không biết thương yêu những người đồng loại vất vả mà lại chỉ biết áp bức những người nông dân tay không tấc sắt. đó chính là những con người đại diện tầng lớp tiêu biểu phong kiến tàn dư của xã hội.

Ngoài ra, tác giả còn rất khéo léo xây dựng hình tượng vô cùng kiên cường mà cũng đầy cảm động về hình ảnh của chị Dậu – một người phụ nữ luôn hết lòng chăm lo cho chồng cho con mà không nghĩ cho mình bao giờ. Tốt đẹp là thế nhưng họ luôn phải chịu sự áp bức từ kẻ khác. Họ cũng không có cách nào để phản kháng hoàn toàn bởi chính họ còn không biết làm cách nào thoát ra khỏi vũng lầy. Mở đầu là cảnh chị Dậu chăm sóc người chồng ốm yếu vừa bị bọn hào lí trong làng đánh đập dã man chỉ vì thiếu tiền nộp sưu. Chị Dậu đã cô gắng hết sức để cứu chồng nhưng cuối cùng anh Dậu vẫn không tránh được sự bắt bớ, hành hạ. Có thấy được tình thương yêu chổng con sâu sắc của chị Dậu, ta mới hình dung được sự dũng cảm quên mình của chị. Chị tất tả chạy ngược chạy xuôi, vay được nắm gạo nấu nồi cháo loãng. Cảm động thay là cảnh chị Dậu múc cháo ra mấy cái bát cũ kĩ, sứt mẻ và quạt cho cháo mau nguội rồi ân cần mời mọc: Thầy em cố dậy húp tí cháo cho đỡ xót ruột. Trong ánh mắt và giọng nói của người vợ nghèo khổ ấy toát lên một tình cảm tha thiết đến nao lòng.

Chị Dậu đã trở thành trụ cột của cái gia đình đang quẫn bách khốn khổ vì sưu, vì thuế. Chồng bị đánh đập, gông cùm. Một tay chị chèo chống, chạy vạy, phải bán tất cả những gì có thể bán được, kể cả đứa con gái đầu lòng ngoan ngoãn, hiếu thảo mà chị thương đứt ruột để lấy tiền nộp sưu, cứu chồng khỏi vòng tù tội. Chị đã phải đổ bao mồ hôi nước mắt để anh Dậu được trả tự do trong tình trạng tưởng như chỉ còn là một cái xác không hồn. Giữa lúc anh Dậu vừa bưng bát cháo kề vào miệng thì cai lệ và người nhà lí trưởng đã sầm sập sấn vào với những roi song, tay thước và dây thừng, hò hét bắt anh phải nộp tiền sưu. Quá khiếp đảm, anh Dậu đã lăn đùng ra không nói được câu gì, chỉ còn chị Dậu một mình phải đối phó với những kẻ độc ác, luôn đòi ra tay với vợ chồng chị.

Ban đầu, khi bọn chúng ập vào định lôi anh Dậu đi nhưng chưa hành hung mà chỉ chửi bới, mỉa mai, đe dọa thì chị Dậu vẫn nhũn nhặn van xin tên cai lệ độc ác. Vả lại, kinh nghiệm lâu đời đã thành bản năng của người nông dân thấp cổ bé họng là phải biết rõ thân phận mình. Thói quen nhẫn nhục khiến chị chỉ dám năn nỉ, khơi gợi lòng nhân từ của tên cai lệ: Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tĩnh được một lúc, ông tha cho! Cách xưng hô ông, cháu của chị Dậu là cách xưng hô của kẻ dưới với người trên, biểu hiện sự hạ mình. Bọn chúng chẳng thèm nghe mà sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu, định bắt trói anh một lần nữa thì chị Dậu đã giận xám mặt nhưng vẫn cố chịu đựng, níu tay tên cai lệ van nài: Cháu xin ông! Mọi lời nói, hành động của chị Dậu đều không ngoài mục đích để bảo vệ chồng.

Đến khi giới hạn của sự chịu đựng bị phá vỡ thì tính cách cứng cỏi của chị Dậu mới thật sự bộc lộ. Lúc tên cai lệ đáp lại lời van xin của chị bằng những cú đấm thô bạo rồi sấn đến trói anh Dậu thì chị tức quá không thể chịu được nên đã liều mạng chống cự lại. Sự bùng nổ tính cách này là kết quả tất yếu của quá trình chịu đựng lâu dài sự tàn ác, bất công. Điều đó đúng với quy luật có áp bức, có đấu tranh. Người đọc xót thương một chị Dậu phải hạ mình van xin bao nhiêu thì càng đồng tình, nể phục một chị Dậu đáo để, quyết liệt bấy nhiêu.

Lúc đầu, chị cự lại tên cai lệ bằng lí lẽ: Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ! Thực ra, chị chỉ nói đốn lòng nhân đạo tối thiểu của con người. Chị không còn xưng cháu và gọi tên cai lệ bằng ông nữa mà xưng là tôi – ông, ngẩng cao đầu nhìn thẳng vào mặt đối thủ.

Từ vị thế thấp hèn của kẻ dưới, chị Dậu vụt trở thành ngang hàng với những kẻ xưa nay vẫn đè đầu cưỡi cổ mình. Câu nói của chị là lời cảnh cáo cứng rắn mà vẫn có đủ tình, đủ lí. Nhưng cái ác thường không biết chùn tay. Tên cai lệ cứ sấn tới đánh chị và nhảy vào định lôi anh Dậu đi. Lòng yêu thương chồng tha thiết đã thúc đẩy chúng phải hành động chống trả quyết liệt lũ tay sai tàn ác đang cố tình phá nát gia đình chị.

Chị không chấp nhận để chồng mình bị hành hạ thêm một lần nữa. Hành động chống trả bọn tay sai diễn ra thật bất ngờ nhưng thực ra mầm mống phản kháng đã ẩn chứa từ lâu dưới vẻ ngoài cam chịu nhẫn nhục thường ngày của chị. Sự chịu đựng kéo dài và sự áp bức lên đến tột đỉnh khiến cho thái độ phản kháng bùng lên dữ dội. Tiếp sau lời cảnh cáo đanh thép là hành động phản kháng mạnh mẽ. Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất… Còn tên người nhà lí trưởng hung hăng kết cục cũng bị chị Dậu túm tóc; lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm Do đâu mà chị Dậu có sức mạnh lạ lùng một lúc quật ngã hai tên tay sai hung hãn như vậy ? Đó là sức mạnh của lòng căm hờn mà cái gốc của lòng căm hờn ấy lại chính là tình yêu thượng và ý thức bảo vệ chồng con của người đàn bà nghèo khổ.

Tuy vậy, sự phản kháng của chị Dậu mới chỉ là hành động tức nước vỡ bờ của một cá nhân chứ chưa phải là hành động vùng lên phá vỡ áp bức bất công để tự giải phóng của một giai cấp, một dân tộc. Thế nhưng nó cũng chứng minh cho quy luật có áp bức, có đấu tranh. Áp bức càng nhiều thì đấu tranh càng quyết liệt.

Ý nghĩa của câu tục ngữ “tức nước vỡ bờ” qua ngòi bút hiện thực của Ngô Tất Tố đã được thể hiện thật sống động và đầy thuyết phục. Tuy tác giả khỉ đó chưa giác ngộ cách mạng và tác phẩm kết thúc bằng cảnh ngộ bế tắc của chị Dậu nhưng nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận xét rằng Ngô Tất Tố, với Tắt đèn đã “xui người nông dân đấu tranh cách mạng…”.

Giangdh (Tổng hợp)

Tức Nước Vỡ Bờ (Trích Tắt Đèn)

Tức nước vỡ bờ (trích Tắt đèn)

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẴM VỮNG

1. Nhà văn Ngô Tất Tố (1893 – 1954) quê gốc ở làng Lộc Hà, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Đông Anh, ngoại thành Hà Nội).

– Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Ngô Tất Tố làm nhiều nghề: dạy học, bốc thuốc, làm báo, viết văn ; từng cộng tác với nhiều tờ báo: An Nam tạp chí, Đông Pháp thời báo, Thần chung, Phổ thông, Đông Phương, Công dân, Hải Phòng tuần báo, Hà Nội Tân văn, Thực nghiệp, Tương lai, Thời vụ, Con ong, Việt nữ, Tiểu thuyết thứ ba, …

– Trong Cách mạng tháng Tám, ông tham gia Ủy ban Giải phóng xã (Lộc Hà). Năm 1946 gia nhập Hội Văn hoá Cứu quốc và lên chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp, ông từng là Chi hội trưởng Chi hội Văn nghệ Việt Bắc, hoạt động ở Sở Thông tin khu XII, tham gia viết các báo Cứu quốc khu XII, Thông tin khu XII, tạp chí Văn nghệ và báo Cứu quốc Trung ương,… và viết văn. Ông đã là uỷ viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam (trong Đại hội Văn nghệ Toàn quốc lần thứ nhất – 1948).

– Tác phẩm đã xuất bản: Ngô Việt Xuân Thu (dịch, 1929) ; Hoàng Hoa Cương (dịch, 1929) ; Vua Hàm Nghi với việc Kinh thành thất thủ (truyện kí lịch sử, 1935) ; Đề Thám (truyện kí lịch sử, viết chung, 1935) ; Tắt đèn (tiểu thuyết, đăng báo Việt nữ 1937, Mai Lĩnh xuất bản 1939) ; Lều chõng (phóng sự tiểu thuyết, 1939, đăng báo Thời vụ 1941, Mai Lĩnh xuất bản 1952) ; Thơ và tình (dịch thơ Trung Quốc, 1940) ; Đường Thi (sưu tầm, chọn và dịch, 1940) ; Việc làng (phóng sự, đăng báo Hà Nội Tân văn 1940, Mai Lĩnh xuất bản 1941) ; Thi văn bình chú (tuyển chọn, giới thiệu, 1941) ; Văn học đời Lý (tập I) và Văn học đời Trần (tập II), trong bộ Việt Nam văn học (nghiên cứu, giới thiệu, 1942) ; Lão Tử (soạn chung, 1942) ; Mặc Tử (biên soạn, 1942) ; Hoàng Lê nhất thống chí (dịch, tiểu thuyết lịch sử, 1942, đăng báo Đông Pháp 1956) ; Kinh dịch (chú giải, 1953) ; Suối thép (dịch, tiểu thuyết, 1946) ; Trước lửa chiến đấu (dịch, truyện vừa, 1946) ; Trời hửng (dịch, truyện ngắn, 1946) ; Duyên máu (dịch, truyện ngắn, 1946) ; Doãn Thanh Xuân (dịch, truyện ngắn, 1946, 1954) ; Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác (chèo, 1951).

Tác phẩm của Ngô Tất Tố sau này được tập hợp trong tuyển tập: Ngô Tất Tố và tác phẩm, gồm hai tập, do Nhà xuất bản Văn học ấn hành từ 1971 – 1976.

– Nhà văn đã được nhận hai giải thưởng trong giải thưởng văn nghệ 1949 – 1952 của Hội Văn nghệ Việt Nam: giải ba (dịch: T rời hửng, Trước lửa chiến đấu) và giải khuyến khích (vở chèo Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác) ; được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.

2. Tiểu thuyết Tắt đèn phản ánh không khí căng thẳng ngột ngạt của một làng quê trong những ngày sưu thuế. Gia đình chị Dậu thuộc loại “cùng đinh” nhất nhì trong làng trong cơn nguy khốn: không có tiền nộp sưu nên anh Dậu bị ốm cũng bị bọn tay sai đánh đập. Chị Dậu đành rứt ruột đem bán đứa con gái đầu lòng bảy tuổi cho nhà Nghị Quế với hi vọng cứu được chồng khỏi cùm kẹp. Nhưng bọn lí dịch chưa tha, bởi chúng bắt chị đóng cả thuế cho người em chồng đã chết từ năm ngoái. Anh Dậu lại bị lính đánh đến bất tỉnh và được làng xóm đem về, khi anh vừa tỉnh dậy thì lính lại xộc vào định trói mang đi. Van xin không được, chị Dậu liều mình chống trả bọn tay sai. Chị bị bắt lên huyện, tên tri phủ Tư Ân dùng tiền để lợi dụng nhưng bị chị cương quyết chống lại. Để có tiền nộp thuế cho chồng, chị phải đi ở vú, bị tên quan phủ già dâm đãng định giở trò bỉ ổi, chị đã vùng chạy ra ngoài sân, giữa lúc trời tối đen như mực.

3. Đoạn Tức nước vỡ bờ (nhan đề do người biên soạn đặt) trích từ chương XVIII của tiểu thuyết Tắt đền, thể hiện phẩm chất cao đẹp của chị Dậu – người phụ nữ có lòng thương chồng yêu con hết mực, đồng thời có tinh thần phản kháng thế lực áp bức.

II. HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

1. Tình thế nguy ngập của chị Dậu khi bọn tay sai xông vào:

– Đang trong lúc cùng đường: bán con, bán chó, bán cả gánh khoai mới đủ nộp suất sưu cho chồng nhưng bọn hào lí lại bắt nộp cả suất sưu cho người em chồng đã chết.

– Chồng đau ốm, tưởng chết đêm qua, nếu bị đánh đập nữa thì khó mà giữ được mạng sống…

– Bọn tay sai hung hãn xông vào để đánh trói, thúc thuế,…

2. Nhân vật cai lệ:

– Một tên tay sai chuyên nghiệp: đánh trói người là “nghề” của hắn.

– Đại diện trực tiếp cho quyền lực bất nhân của “nhà nước”, của chế độ thực dân phong kiến đương thời, mặc dù chỉ là tên vô danh tiểu tốt mạt hạng.

– Bản chất hung bạo: sầm sập tiến vào, trợn ngược hai mắt, đùng đùng giật phắt cái thừng, bịch luôn vào ngực chị Dậu, tát vào mặt chị một cái đánh bốp, …

– Không chút tình người: bỏ ngoài tai những lời van xin tha thiết của chị Dậu.

3. Ngô Tất Tố đã khắc hoạ sinh động những diễn biến tâm lí của chị Dậu trong đoạn trích. Qua đó giúp ta thấy rõ tính cách của chị Dậu: mộc mạc, vị tha, nhẫn nhục nhưng không hề yếu đuối, trong chị ẩn chứa một sức mạnh phản kháng mãnh liệt.

a) Có thể chia diễn biến tâm lí của chị Dậu thành hai giai đoạn: nhẫn nhục chịu đựng và phản kháng.

– Chị van xin tha thiết, lễ phép xưng nhà cháu gọi chúng là ông,…

– Chỉ đến khi cai lệ bịch luôn vào ngực chị… mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu thì chị Dậu không thể chịu được nữa nên mới liều mạng cự lại.

+ Ban đầu, chị cự lại bằng lí lẽ: Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ! Đến đây, không còn xưng cháu, gọi ông nữa, mà là tôi – ông ngang hàng.

+ Sau khi cai lệ tát vào mặt chị một cái đánh bốp thì từ đấu lí, chị Dậu chuyển sang đấu lực: Chị nghiến hai hàm răng: – ; từ tôi – ông chuyển sang bà – mày, thể hiện sự phẫn nộ, khinh bỉ.

Tâm lí nhân vật diễn biến hết sức tự nhiên, sống động.

b) Sức mạnh phản kháng của chị Dậu thể hiện rõ trong cảnh chị quật ngã hai tên tay sai. Lưu ý các từ ngữ: túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa, túm tóc lẳng cho một cái,… và những từ ngữ gợi tả tư thế thảm hại của hai tên tay sai: chỏng quèo, ngã nhào,…

4. Đoạn trích cho thấy một quy luật: có áp bức thì có đấu tranh. Nhan đề Tức nước vỡ bờ phản ánh đúng quy luật ấy. Hơn nữa, như chính nội dung của đoạn trích, Tức nước vỡ bờ gợi mở một ý nghĩa: không có con đường nào khác là phải đấu tranh để thoát khỏi tăm tối, giải phóng khỏi áp bức. Dù là tự phát (tức quá) nhưng cảnh chị Dậu đánh lại hai tên tay sai là hợp quy luật: tức nước vỡ bờ.

5. Vũ Ngọc Phan nhận xét: ” Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo “.

– Khéo ở nghệ thuật khắc hoạ tính cách nhân vật:

+ Chị Dậu: nhẫn nhục nhưng mạnh mẽ (qua lối nói van xin, cự lại, hành động,…)

+ Cai lệ: hung hăng, bất nhân, thú tính,… (lời nói, hành động,…)

– Khéo ở ngòi bút miêu tả linh hoạt, sống động: cảnh chị Dậu đánh lại hai tên tay sai,…

– Ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ đối thoại đặc sắc, bộc lộ sắc nét tính cách nhân vật, phản ánh được những diễn biến tâm lí,…

6. Phản ánh đúng quy luật tức nước vỡ bờ, Ngô Tất Tố đã nhìn thấy được sức mạnh phản kháng tiềm tàng mãnh liệt của người nông dân. Nhìn chung cả tác phẩm Tắt đèn là bế tắc (như cái nhan đề của nó), chị Dậu đánh lại cai lệ cũng chỉ là tự phát, nhưng nó dự báo một cơn dông bão sẽ đến, phá tan mọi áp bức, gông xiềng. Ngô Tất Tố đang khơi ra nguồn sức mạnh ấy, đặt ra một nhu cầu bức bách: nổi dậy, giải phóng khỏi cuộc sống cùng cực. Đúng như Nguyễn Tuân nói: Ngô Tất Tố đã ” xui người nông dân nổi loạn “.

II. HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

Muốn thực hiện được yêu cầu luyện tập trong SGK, cần xác định giọng điệu và tính cách thể hiện của bốn vai nhân vật trước khi diễn.

Mai Thu

Phân Tích Ý Nghĩa Nhan Đề Đoạn Trích Tức Nước Vỡ Bờ

Phân tích ý nghĩa nhan đề đoạn trích Tức nước vỡ bờ của Ngô Tất Tố để hiểu rõ hơn ý nghĩa sâu xa của nhan đề, qua đó hiểu được dụng của tác giả muốn gửi gắm vào tác phẩm. “Tức nước vỡ bờ” – câu thành ngữ ám chỉ sự đấu tranh của con người khi bị dồn đến đường cùng. Đồng thời khẳng định qui luật đấu tranh trong cuộc sống: ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh. Đối với những người nông dân bị áp bức trong xã hội phong kiến, họ không còn con đường nào khác ngoài việc đấu tranh để tự giải thoát mình.

Những bài văn phân tích ý nghĩa nhan đề đoạn trích Tức nước vỡ bờ hay nhất

Bài văn mẫu 1

“Tức nước vỡ bờ” là một đoạn trích trong cuốn tiểu thuyết “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố – một cây bút ký tiêu biểu của nền văn học Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.

Đoạn trích này khiến người đọc cảm thấy xót xa cho số phận người nông dân khi đang phải “tồn tại” trong một chế độ tranh xã hội phong kiến đương thời vô cùng thối nát, tàn bạo. Nơi mà người nông dân chỉ thấy một màu đen, họ bị áp bức không tìm thấy lối thoát. Bước đường cùng… Họ sẽ làm gì? Ngô Tất Tố đã trả lời câu hỏi này bằng ngòi bút của mình. Và ông dường như muốn mở đầu một trang mới cho giai cấp người nông dân, dự đoán cho cuộc khởi nghĩa 1945 sắp tới nên đã lựa chọn nhan đề là ” Tức nước vỡ bờ” – một câu thành ngữ tục ngữ theo đúng nghĩa đen của nó.

” Tức nước vỡ bờ ” ám chỉ rằng dù sức chịu đựng có lớn đến đâu nó cũng sẽ có giới hạn của nó, khi mà giới hạn đó bị vượt quá ngưỡng cho phép thì sức ép đó sẽ không còn kìm nén lại được và kết quả cuối cùng là bờ sẽ phải vỡ ra. Đây là điều khẳng định cho một quy luật tự nhiên là “ở nơi đâu có áp bức bóc lột tàn khốc thì ở đó có đấu tranh, có phản kháng mạnh mẽ”. Trong đoạn trích này, chúng ta thấy hình ảnh của chị Dậu – một người phụ nữ nông thôn hiền lành, tháo vát, luôn sống nhẫn nhục, nhẫn nhịn. Đứng trước thói hống hách, xách lược, dẫm đạp lên người chồng ốm yếu bệnh tật của bọn quan lại, tay sai, chị quỳ lạy, van xin chúng nhưng lẽ thường khi bị đẩy đến đường cùng thì bản năng trong chị trỗi dậy buộc chị phải vùng lên, chống cự, đánh trả lại để đòi lại chân lý lẽ phải cho mình, cho chồng, cho gia đình mình.

Tuy rằng sự chống cự như nước vỡ tràn đê của chị Dậu không giúp cuộc đời tăm tối của chị thoát khỏi màn đen nhưng đây chính là con đường duy nhất mà quần chúng nhân dân lúc bấy giờ phải đi theo vì chỉ có đấu tranh giải phóng mình, lấy được sự tự do thì họ mới không còn bị áp bức, không còn bị bóc lột nữa. Và họ mới được “SỐNG”. Tác phẩm “Tắt đèn” cũng như đoạn trích ” Tức nước vỡ bờ” đã mang đến sự thành công trong sự nghiệp văn học cho nhà văn Ngô Tất Tố và nó cũng ảnh hưởng rõ rệt đến tình hình xã hội đương thời. Đồng thời cũng gợi cho người đọc cảm nhận sâu sắc, sự đồng cảm xót thương cho thân phận người nông dân đang sống dưới ách thống trị của chế độ nửa thực dân nửa phong kiến.

Bài văn mẫu 2

Nhan đề là yếu tố đầu tiên, yếu tố thứ nhất khi người đọc tiếp cận với tác phẩm. Việc xây dựng một nhan đề vừa súc tích vừa độc đáo sẽ tóm gọn được nội dung tác phẩm, đồng thời khơi gợi trí tò mò của người đọc. Vậy, với ” Tức nước vỡ bờ “, điều gì ẩn sau nhan đề ấy?

Nhan đề không chỉ đúc kết nội dung của tác phẩm mà còn được tác giả gửi gắm một bài học, một quan niệm, một tư tưởng nào đó, ý nghĩa nó truyền tải rộng hơn những gì câu chữ thể hiện. “Tức nước vỡ bờ” xuất phát là một thành ngữ của nhân dân ta, chỉ một hiện tượng tự nhiên trong cuộc sống: nếu nước quá đầy, quá lớn thì tất yếu bờ sẽ tràn, sẽ vỡ. Thế nhưng, đó mới chỉ là nghĩa đen của câu nói ấy. Trí tuệ của ông cha ta vốn thâm thúy, từ việc nói bờ tràn mà ta có thể liên hệ đến sự phản ứng của con người trước hoàn cảnh: nếu một người đến quá giới hạn chịu đựng của họ thì họ sẽ đứng lên đấu tranh, phản kháng, không chịu nhẫn nhục nữa.

Trở lại với đoạn trích “Tức nước vỡ bờ“, thông qua nhân vật chị Dậu, ta càng hiểu sâu sắc hơn về câu thành ngữ. Ở đầu đoạn trích, ta thấy chị Dậu hết lời van xin cai lệ và lí trưởng, giọng điệu khẩn khoản, cách xưng hô của một kẻ bề dưới: “Cháu van ông”, “xin ông tha cho”, “nhà ông làm phúc”. Tính dịu dàng, mộc mạc, quen chịu đựng, nhẫn nhục vốn là bản chất của người phụ nữ nông dân thời xưa, đối với chị Dậu, đặc điểm này cũng không là ngoại lệ. Thế nhưng, càng được nước, bọn chúng lại càng lấn tới. Mặc cho lời van xin của chị, tên cai lệ không thèm nghe, tiếp tục xông vào đánh anh Dậu và còn đánh cả chị, hỏi chị liệu có thể tiếp tục nhẫn nhịn, kìm nén được nữa không? Đọc đến đây, chắc không ít mọi người sẽ phải lên tiếng phẫn nộ. Và, quả là không phụ lòng mong đợi, phản ứng của chị Dậu đột ngột thay đổi, tức quá không thể chịu được nữa, chị đã liều mạng cự lại. Cách xưng hô “ông – cháu” đã được thay bằng “ông – tôi” ngang hàng với nhau, đi kèm là lí lẽ: “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ”. Đỉnh điểm hơn, khi tên kia tát vào mặt chị và cứ nhảy vào cạnh anh Dậu thì chị nghiến hai hàm răng: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem”.

Với lòng căm giận và khinh bỉ cao độ, chị Dậu vụt đứng dậy, chuyển hẳn cách xưng hô đanh đá “mày – bà” và tỏ ra không hề sợ hãi, quật ngã hai tên tay sai bằng sức mạnh ghê gớm và tư thế ngang tàng. Hai tên tay sai hung hãn bỗng trở thành những kẻ thảm bại, xấu xí và hài hước. Chị Dậu vốn cam chịu lại vùng dậy mạnh mẽ với tinh thần phản kháng quyết liệt. Điều này đã thể hiện một quy luật, một chân lí muôn đời: con giun xéo lắm cũng quằn và ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh. Hành động của chị Dậu không chỉ là tự vệ đơn thuần mà còn làm sáng ngời phẩm chất của chị và cũng là của những người phụ nữ thời xưa: dịu dàng, nhẫn nhục, giàu tinh thần yêu thương và ẩn chứa một tinh thần phản kháng tiềm tàng mạnh mẽ. Với nhan đề ” Tức nước vỡ bờ “, Ngô Tất Tố còn như “xui người nông dân nổi loạn”, kêu gọi tinh thần đấu tranh của họ chống lại áp bức bóc lột vì một cuộc sống công bằng, một tương lai tươi sáng hơn.

” Tức nước vỡ bờ” thực sự đã để lại một ấn tượng khó phai trong lòng người đọc. Qua nhan đề này, Ngô Tất Tố đã gửi gắm được phần nào những suy nghĩ cùng tình cảm của mình đối với người nông dân trong xã hội xưa. Ngọc

Bài văn mẫu 3

Mỗi tác phẩm đều chứa đựng một thông điệp ý nghĩa về nhân sinh, đều gửi gắm một thông điệp trong cuộc sống và về con người mà người nghệ sĩ muốn gửi gắm. Văn chương thực hiện chức năng ấy qua việc xây dựng những hình tượng. Nhưng nếu hình tượng là sự khám phá xuyên suốt toàn tác phẩm nghệ thuật thì ngay từ nhan đề đã gây ấn tượng với bạn đọc. Với nhan đề ” Tức nước vỡ bờ “, bạn có suy nghĩ gì chăng?

Có câu: cái để làm quen là nhan sắc, cái để sống lâu dài là đức hạnh. Chính bởi lẽ ấy, cái nhan sắc – hình thức nghệ thuật của một tác phẩm cũng rất quan trọng chăng. Đó là yếu tố đầu tiên, yếu tố thứ nhất để cái tâm có thể được tỏa sáng. Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức, một khám phá về nội dung. Và có ai đó đã từng nói, một tác phẩm nghệ thuật thì cách mở đầu và kết thúc cũng rất đáng để công phu, sáng tạo. Làm thế nào để ngay từ đầu có thể lôi cuốn, hớp hồn người đọc đó không phải là điều dễ dàng. Vả chăng, nếu coi khâu mở đầu là quan trọng thì cái đầu tiên, trước nhất của mở đầu là nhan đề cũng chứa đựng rất nhiều công phu, dụng ý của người nghệ sĩ đó ư.

Nhan đề là nơi chứa đựng những thông điệp và giá trị nhận thức về đời sống, nhân sinh, về các vấn đề xã hội mà nhà văn muốn gửi gắm đến độc giả một cách trực tiếp và ấn tượng nhất. Nhan đề không phải luôn dùng những từ ngữ mĩ miều để phỉnh nịnh, đánh lừa các giác quan của người đọc, mà làm sao nó khách quan, khoa học và mang ý nghĩa, giá trị nhất. Như vậy nhan đề là một trong những phương tiện đặc biệt để người nghệ sĩ đối thoại với người đọc. Chẳng hạn, với nhan đề “giông tố” của Vũ Trọng Phụng, người đọc dường như đã thấy cả một cơn giông tố ngay từ khi tiếp xúc với nhan đề, giông tố từ đầu trải dài và cuồn cuộn trong tác phẩm.

Trở lại với nhan đề trong tác phẩm ” Tức nước vỡ bờ ” của Ngô Tất Tố. Ở đây, trước nhất xét về nghĩa đen, thì trong cuộc sống tức nước có nghĩa là hiện tượng nước tràn bờ và chắc chắn sẽ dẫn đến vỡ bờ, đó là điều hiển nhiên của khách quan. Song mượn hiện tượng thực tế này, mà Ngô Tất Tố muốn nói đến hiện tượng người nông dân trong xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám bị dồn đến bước đường cùng, bị đè nén, áp bức đến cùng cực. Họ phải chịu cảnh sưu cao thuế nặng, nặn hầu bóp cổ chính vì vậy mà sức chịu đựng và giới hạn đã lên tới đỉnh điểm, con đường duy nhất để họ vượt lên trên nỗi thống trị ấy, vượt ra khỏi bóng đêm bao trùm cuộc đời họ là đứng lên đấu tranh chống áp bức, chống bóc lột hà hiếp. Một chị Dậu, đã bán chó, bán con mà vẫn không cứu được người chồng xấu số vì thiếu tiền nộp suất sưu cho người em chồng đã chết mà bị tra tấn dã man. Quả là vô lí, nhưng người nông dân xưa đã phải chịu đựng sự có lí ấy để tiếp tục sống và chịu đựng. chính vì thế mà có ý kiến cho rằng, với “tức nước vỡ bờ”, Ngô Tất Tố như đã xui người nông dân nổi loạn. Nhan đề đoạn trích cho thấy tính đấu tranh gay gắt và đồng thời cũng là sự phản ánh một quy luật trong xã hội: có áp bức, có đấu tranh. Với nhan đề này, dường như tác giả muốn nổ phát súng đầu tiên để kêu gọi người nông dân cùng lên, đồng thời là sự thách thức và một thái độ bản lĩnh, hiên ngang trước bọn quỷ dữ hút máu người kia.

Ngô Tất Tố với “Tức nước vỡ bờ” quả thực sẽ mãi là một nhan đề ấn tượng trong tâm trí độc giả.

Giangdh (Tổng hợp)

Đọc Hiểu Văn Bản: Tức Nước Vỡ Bờ

Tuyển tập bằng BA CÁCH tuyệt hay. Cách soạn bài độc đáo với 3 nội dung NGẮN NHẤT, SIÊU NGẮN, CHI TIẾT hứa hẹn sẽ giúp bạn soạn văn 8 xuất sắc nhất

Khái quát tác phẩm: Tức nước vỡ bờ

Chị Dậu thương con đứt ruột vì vừa bán nó, chồng vừa mới trả về sau trận đánh tàn ác của kẻ đòi sưu. Vừa được người hàng xóm cho bát gạo chị Dậu bén nấu cho chồng ăn. Bát cháo chưa kịp ăn xong thì bè lũ cái lệ và người nhà lý trưởng kéo đến đòi sưu. Mặc cho những lời van xin thống thiết của chị Dậu, chúng vẫn hoành hành, hống hách chị. ” Tức nước vỡ bờ”, chị Dậu xong vào đánh khiến cai lệ ngã chổng khoèo.

– Phần 1 (từ đầu … ngon miệng hay khôn g): Cảnh chị Dậu lo lắng chăm sóc cho chồng

– Phần 2 (còn lại): Cảnh chị Dậu đương đầu với cai lệ và tay sai

Soạn bài Tức nước vỡ bờ 3 cách

Câu 1 (trang 32 Ngữ Văn 8 Tập 1)

– Anh Dậu- chồng chị tối hôm quá bị bắt và đánh đập đến ngất rồi mới được trả về, sáng nay tỉn lại nhưng người thì ” lề bề lệt bệt”. Anh đang đợi cháo nguội một chút để ăn.

– Cháo vừa nấu chín từ bát gạo mà bà con hàng xóm thương tình cho, đang còn nóng hổi.

Tình thế của chị Dậu:

+ Gia đình đang lâm vào cảnh cùng đường, khốn khổ, tiền nộp sưu không có

+ Anh Dậu vừa được thả về sau khi bị đánh bầm dập, không còn chút sức lực vì thiếu tiền sưu.

+ Chị đang đút cháo cho chồng, mong chồng có gì lót dạ

+ Chưa kịp đưa chồng đi trốn thì cai lệ đến

Khi bọn tay sai vào nhà chị Dậu, tình thế của chị lúc bấy giờ:

– Nhà nghèo chị đã phải bán cả con, cả chó, bán cả gánh khoai…

– Anh Dậu đang ốm nặng, vậy mà vẫn bị tên cai lệ trói gô lại, điệu ra đình, anh đã chết ngất ở đấu, người ta vừa khiêng anh về cho chị Dậu, nhờ bà con hàng xóm cứu giúp anh đã tỉnh lại. Sáng sớm hôm sau, cháo vừa chín, cả nhà đang chuẩn bị ăn, anh Dậu nhịn suông từ hôm qua tới giờ đang run rẩy cầm bát cháo, anh vừa kề vào miệng thì lũ tay sai tiến vào

Câu 2 (trang 32 Ngữ Văn 8 Tập 1)

Phân tích nhân vật cai lệ. Em có nhận xét gì về tính cách của nhân vật này và sự miêu tả của tác giả?

– Là một tên nghiện thuốc nặng, giọng nói khàn khàn nhưng cố thét ra những lời dạo nạt.

– Đứng đầu bè lũ đám người đi đòi sưu thuế. Là những tên lính quèn có chút chức tước trong làng, làm tay sai cho lũ tham quan nhưng chúng hống hách, vô lí.

– Những hành động như: tay roi song, tay thước và dây thừng, thét, cưới mỉa mai, chỉ, trợn mắt quát…cho thấy sự độc ác, xấc xược thẳng tay bóc lột một cách ngang ngược tầng lớp nhân dân lao động.

Cách miêu tả chi tiết, chân thực về hình dáng, hành động của tên cai lệ đã khắc họa nên sự thối nát và xấu xa của tầng lớp thống trị trong xã hội bấy giờ. Những điều đó cũng cho thấy thái độ căm ghét, khinh bỉ của tác giả.

Nhân vật cai lệ:

– Cử chỉ: Gõ đầu roi xuống đất thét, trợn ngược hai mắt quát, giọng hầm hè, đùng đùng giật phắt cái thừng, chạy sầm sập, bình bịch, tát,…

– Tiếng hắn như tiếng chó sủa, rít gầm của thú dữ. Hắn không biết nói tiếng của người và cùng không có khả năng nghe tiếng nói của đồng loại. Hắn cậy có quyền nên chửi bới, xưng hô rất thô lỗ. Bỏ ngoài tai lời van xin của chị Dậu.

Nhân vật cai lệ:

+ Cai lệ là một tên lính hầu hạ, phục vụ bọn quan nha, thực chất là những kẻ không có một chức trách gì quan trọng mà chỉ là một tay sai chuyên hành dân, đánh người

+ Hắn cùng người nhà lý trưởng xông thẳng vào nhà anh Dậu để bắt ép đòi bằng được tiền nộp sưu

+ Vào nhà chị Dậu một cách hống hách, lộng hành:

– Đập mạnh rồi xuống đất, hét to

– Trói người tàn bạo, hùng dữ, hắn sầm sập chạy đến bên anh Dậu mà trói mặc chị Dậu can ngăn

– Tát vào mặt người phụ nữ khốn khổ không do dự

– Bị ngã chỏng khoèo vẫn hét trói vợ chồng anh Dậu- trói người thành nghề của hắn

Ngôn ngữ, lời nói:

– Quát mắng, hầm hè, xưng hô “mày”-“tao” , giọng điệu hống hách, tỏ vẻ quyền uy

– Dù chị Dậu có hết lời van xin hắn vẫn ngang ngược, cố chấp, cắt ngang lời chị, không chút động lòng thương xót.

Tác giả đã khắc hoạ nhân vật cai lệ thông qua miêu tả về cả ngoại hình và hành động, đặc biệt là ngôn từ phát ra từ lời nói để thể hiện bản chất đê tiện và xấu xa của nhân vật cai lệ.

Câu 3 (trang 33 Ngữ Văn 8 Tập 1)

– Khi gặp bọn lính đến bắt người: lo lắng, nhẫn nhục, chịu đựng và van xin. Chị chỉ biết dùng lí lẽ phân tích cho đám người đó mong chúng thấu hiểu cho.

– Khi bọn lính quyết không tha cho anh Dậu: phẫn hận, căm tức tột cùng. Đám lính lệ không buông tha anh Dậu thậm chí còn đánh anh. Sự kìm nén quá sức chịu đựng bị bộc phát. Đổi xưng hô thành ông-tôi rồi mày-bà, dùng sực khỏe mạnh của người dân lao động để chống trả.

Như bao người phụ nữ Việt Nam tảo tần khác, chị yêu thương chồng con, có thể nhẫn nhịn để bảo vệ gia đình mình. Ai đó àm tổn thương đến họ, chị sẵn sàng đứng lên chống đối lại tất cả. Chị lmang nét đặc truwngc ủa người Việt Nam, yêu gia đình nhưng cũng can đảm và mạnh mẽ..

Diễn biến tâm lý của chị Dậu:

+ Khi cai lệ xông vào nhà, để bảo vệ chồng mình, chị van xin, nhún nhường, cố gắng trình bày những chật vật của mình để xin lòng thương từ chúng,mong chúng cho khất sưu. Giọng vừa run rẩy lo sợ, vừa chân thành, thống thiết. Khi tên cai lệ vẫn một mực hành động, hắn không hề thương cảm mà trái lại còn cố bắt trói anh Dậu thì chị Dậu liều mạng để chống cự lại hắn. Đưa ra lý lẽ để chống lại hành động tàn ác của chúng, đỉnh điểm là sự phản kháng mãnh liệt của chị Dậu khi đẩy ngã tên cai lệ chỏng quèo.

+ Miêu tả diễn biến tâm lý của chị Dậu là rất chân thực, rất hợp lý, cho thấy được đằng sau vẻ tiều tụy, yếu đuối là một bản lĩnh đặc biệt của người đàn bà đã chịu nhiều nỗi phẫn uất và ấm ức, sự phản kháng ấy là điều tất yếu.

Nhân vật chị Dậu:

– Chúng đặt chị vào tình huống khó xử, chúng để vận mệnh của anh Dậu trong tay chị, nhưng cũng chính lẽ đó, sức sống tiềm tàng của chị được bộc lộ sâu sắc.

– Chị tha thiết van xin bọn chúng. Chị là người phụ nữ thôn quê quen dịu dàng, nhẫn nhục

+ Cháu van ông .. ông tha cho

– Trước những lời van xin của chị, chúng vẫn xông vào, vẫn tỏ thái độ

+ Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ.

+ Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem.

+ Túm lấy cổ hắn ấn dúi ra cửa, ngã chỏng quèo.

+ Túm tóc lẩng cho một cái, ngã nhào ra thềm.

Câu 4 (trang 33 Ngữ Văn 8 Tập 1)

Em hiểu thế nào về nhan đề Tức nước vỡ bờ được đặt cho đoạn trích? Theo em, đặt tên như vậy có thỏa đáng không? Vì sao?

-Nghĩa đen: việc làm quen thuộc của nhà nông là đắp đập ve bờ để giữ nước hoặc ngắn nước bên ngoài vào ruộng. Nước càng lên cao sức nước càng mạnh, xô vào thành bờ làm nó rạn nứt rồi vỡ ra.

-Nghĩa bóng: sự áp bức càng lớn, nhưng chỉ có một giới hạn, vượt qua nó người ta sẽ không chịu đựng nữa mà chống trả lại. Nhan đề này rất phù hợp với bài viết vì thể hiện rõ qua diễn biến tâm lí của chị Dậu.

Nhan đề “Tức nước vỡ bờ”:

Thể hiện ý nghĩa: khi những người nông dân bị đẩy đến đường cùng, áp bức đến cùng cực, họ sẽ không chấp nhận cam chịu, phản kháng quyết liệt và mạnh mẽ để bảo vệ chính những người mà mình thương yêu.

Nhan đề “Tức nước vỡ bờ”

– Nêu lên quy luật tự nhiên: mạch nước càng đầy lên, khi nước bị tức thfi nó phải nổi sóng, tràn ra phá vỡ bờ.

– Sự tức nước chính là sự tàn nhẫn của tên cai.

– Vỡ bờ chính là sự vùng lên của chị Dậu.

Câu 5 (trang 33 Ngữ Văn 8 Tập 1)

Tình huống được xây dựng một cách khéo léo, tự nhiên, miêu tả một cách chân thực và sinh động. Những hành động được miêu tả một cách logic: Đầu tiên khi chị Dậu phản kháng bị mấy tên linh đánh mấy bịch vào ngực, tát bốp cái vào má. Nhưng rồi sức của những tên lính quanh năm quanh bàn thuốc, chỉ biết quát tháo dọa nát người khác không bằng đục người đàn bà lực điền lao động quanh năm. Tên lính nhỏ con bị chị xô ngã. Ngôn ngữ và lời thoại họp lí với dòng cảm xúc của nhân vật.

– Từ ngữ trong đoạn văn miêu tả cảnh chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ đều được lấy nguyên vẹn từ lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân miền Bắc

– Giọng văn pha chút hài hước của tác giả làm nổi bật sức mạnh ghê gớm của chị Dậu và sự thảm bại của những tên cai

+ Tình huống: sau khi đã van xin, nhún nhường mà cai lệ nhất quyết không chịu tha, chị Dậu đứng ra chống lại bằng hành động cương quyết: đánh lại tên cai lệ

+ Miêu tả ngoại hình, hành động, ngôn ngữ:

– Tên cai lệ: hống hách, thô bạo, đánh chị Dậu , xấn đến trói chồng chị, lời nói thô lỗ, tàn nhẫn, sức loẻ khoẻo, ngã lăn quay ra đất miệng vẫn lảm nhảm

– Chị Dậu: mặt xám lại, nghiến hai hàm răng mà nói trong sự phẫn uất, túm lấy cổ rồi đùi ra cửa , sức xô đẩy mạnh mẽ, nhanh nhẹn

Ngôn ngữ đối thoại thể hiện rõ sự căm tức của chị Dậu và sự hung tàn của kẻ quyền cao, qua đó tính cách nhân vật được bộc lộ

+ Đây là một đoạn tuyệt khéo bởi khắc hoạ được hình ảnh chị Dậu nghị lực, đầy bản lĩnh, dám đương đầu với những kẻ chuyên quyền, những kẻ tay sai của thực dân.

Câu 6 (trang 33 Ngữ Văn 8 Tập 1)

Nhận xét của Nguyễn Tuân hoàn toàn đúng. Trong cái xã hội phong kiến thối nát khi mà mọi bất công đều đè lên đầu lên cổ người dân thì kết quả của sự chịu đựng luôn là bóc lột thậm tệ hơn. Nếu như đều sẽ bị hà hiếp tại sao không thử đứng lên đấu tranh đòi lại chút công bằng cho chính mình. Nhiều người cùng vùng lên sẽ tạo sức mạnh to lớn.

Đó là một nhận xét hợp lý,bởi:

Trong bất kì xã hội bào, nếu có áp bức thì chắc chắn sẽ phải có đấu tranh, đấu tranh là điều cần thiết nếu muốn phát triển. Những người nông dân, họ chịu sự bóc lột nặng nề nhất, tàn nhẫn nhất, họ có lòng căm thù nhất bởi những khổ đau mà xã hội thực dân gây ra, giai cấp nông dân cần tiên phong trong việc phản kháng, đấu tranh.

– Tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến, tác phẩm đã có tác dụng làm thức dậy hiện thực cuộc sống trong lòng người đọc. Nguyễn Tuân nhận định như vậy là không sai, mặc dù lúc đó Ngô Tất Tố chưa được giác ngộ cách mạng, song ông đã phát hiện ra được lực lượng cách mạng tiêu biểu trong quần chúng nhân dân, từ đó thúc đẩy, nêu cao tinh thần diệt trừ bọn thực dân và bè cánh của chúng. Ngòi bút của ông sắc mạnh nhữ gươm giáo. Xứng đáng được xem là người đồng hành cùng cách mạng của nhân dân ta.

Nội dung chính bài Tức nước vỡ bờ