Văn Bản Hoàng Lê Nhất Thống Chí Vietjack / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Văn Bản: Hoàng Lê Nhất Thống Chí

+ Ngô Thì Chí (1753 – 1788) làm quan dưới thời Lê Chiêu Thống.

+ Ngô Thì Du (1772 – 1840) làm quan dưới triều Nguyễn.

Tin quân Thanh kéo vào Thăng Long, tướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở lui quân về núi Tam Điệp. Ngày 25 tháng Chạp năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi vua (hiệu là Quang Trung) ở Phú Xuân, tự mình đốc suất lại binh để chuẩn bị tiến quân ra Bắc diệt Thanh.

Dọc đường vua Quang Trung cho tuyển thêm lính, mở cuộc duyệt binh lớn và chia quân thành các ngả để tiến ra Bắc. Ra chỉ dụ tướng lĩnh, mở tiệc khao quân vào ngày 30 tháng Chạp, hẹn đến ngày mồng 7 Tết thắng lợi sẽ mở tiệc ăn mừng ở Thăng Long.

Đội quân của Quang Trung đánh đến đâu thắng đến đó khiến quân Thanh đại bại. Rạng sáng ngày mồng 3 Tết, nghĩa quân đã tiến vào Thăng Long, bí mật bao vây đồn Hạ Hồi, dùng mưu để quân giặc đầu hàng và hạ đồn một cách dễ dàng.

Ngày mồng 5 Tết, nghĩa quân tiến vào công đồn Ngọc Hồi. Quân giặc chống trả quyết liệt, cuối cùng phải chịu đầu hàng, Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử, Tôn Sĩ Nghị vội vã tháo chạy về nước, vua Lê Chiêu Thống cùng gia quyến trốn chạy theo.

– Phần một: Từ đầu đến ” năm Mậu thân 1788″: Tin quân Thanh đã chiếm thành Thăng Long, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, thân chinh cầm quân dẹp giặc.

– Phần hai: Tiế theo đến ” kéo vào thành”: Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của nghĩa quân Tây Sơn.

– Phần ba: Còn lại: Sự đại bại của quân Thanh và số phận thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống.

II. Trọng tâm kiến thức

+ Vua Quang Trung đã khẳng định chủ quyền dân tộc: ” Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng… Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta “.

+ Trong dịp hội quân ở Tam Điệp, qua lời nói của Quang Trung với Lân và Sở, ta thấy: ông rất hiểu tình thế buộc phải rút quân để bảo toàn lực lượng của hai vị tướng này. Đúng ra thì ” quân thua chém tướng “. Nhưng ông hiểu lòng họ, sức ít không thể địch nổi quân hùng tướng hổ nhà Thanh.

+ Đối với Ngô Thì Nhậm, ông hiểu tường tận năng lực, khả năng ” đa mưu túc trí ” của vị quân sĩ này. Việc Lân và Sở rút chạy, Quang Trung cũng đoán là do Nhậm chủ mưu, vừa là để bảo toàn lực lượng, vừa gây cho địch sự chủ quan. Ông đã tính đến việc dùng Nhậm là người biết dùng lời khéo léo để dẹp việc binh đao sau này.

– Đang lo việc đánh giặc, Quang Trung đã tính sẵn cả kế hoạch sau chiến thắng (kế hoạch cho mười năm sau), tìm cách ngoại giao với giặc để có thể dẹp ” việc binh đao“, ” cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng “,…

+ Ngày 25 tháng Chạp bắt đầu xuất quân từ Phú Xuân (Huế).

+ Vượt khoảng 350 km đường đèo, núi, đến ngày 29 đã tới Nghệ An.

+ Tổ chức tuyển quân, duyệt binh chỉ trong một ngày.

+ Ngay hôm sau, vượt khoảng 150 km, tiến ra Tam Điệp.

+ Đêm 30 tháng Chạp ” lập tức lên đường ” tiến thẳng Thăng Long. Vừa hành quân vừa đánh giặc và giữ bí mật đến bất ngờ.

+ Ở trận Hạ Hồi, bằng chiến thuật nghi binh đã giúp nghĩa quân chiến thắng vẻ vang mà không tốn một hòm tên, mũi đạn.

+ Ở trận Ngọc Hồi, cho quân làm những tấm ván ghép, bên ngoài phủ rơm dấp nước nên binh lính tiến sát đồn mà không bị đạn hỏa công.

– Đối lập với hình ảnh của nghĩa quân Tây Sơn:

+ Tướng Tôn Sĩ Nghị: ” sợ mất mật, ngựa không còn kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dẫn bọn lính kị mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhằm hướng Bắc mà chạy “; Sầm Nghi Đống thì thắt cổ tự tử.

+ Quân ” đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều… đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa “.

– Cả một đội binh hùng tướng mạnh mấy chục vạn người diễu võ dương oai giờ đây chỉ còn biết tháo chạy ” đêm ngày đi gấp, không dám nghỉ ngơi “.

– Nguyên nhân của sự thất bại:

– Họ không còn tư cách của bậc quân vương mà phải chịu số phận nhục nhã của kẻ cầu cạnh, van xin và kết cục chịu chung số phận thảm hại của kẻ vong quốc: Lê Chiêu Thống cũng vội vã cùng kẻ thân tín chạy bán sống, bán chết, ” luôn mấy ngày không ăn, ai nấy đều mệt lử“, chỉ biết ” nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt “.

– Hoàng Lê nhất thống chí lựa chọn trình tự kể theo diễn biến của các sự kiện lịch sử.

– Khắc họa nhân vật lịch sử với ngôn ngữ kể, tả chân thực, sinh động.

– Giọng điệu trần thuật thể hiện thái độ của tác giả với vương triều Lê, với chiến thắng của nhân dân, dân tộc với bọn cướp nước.

Hoàng Lê Nhất Thống Chí

1.1. Tìm hiểu chung

Ngô gia văn phái, thuộc dòng họ Ngô Thì, trong đó có hai tác giả chính là Ngô Thì Chí (1753 – 1788) và Ngô Thì Du (1772 – 1840).

Quê quán: làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây.

Họ sống và làm quan dưới triều Nguyễn.

Hoàng Lê nhất thống chí được viết bằng chữ Hán.

Là cuốn tiểu thuyết viết theo lối chương hồi.

Tất cả có 17 hồi, đoạn trích trên phần lớn là hồi 14.

c. Bố cục: 3 phần

Văn bản được bố cục thành ba phần.

Phần 1: Từ đầu đến “năm Mậu Thân“: Được tin báo quân Thanh đã chiếm Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế, thân chinh cầm quân dẹp giặc.

Phần 2: Tiếp đến “rồii kéo vào thành“: Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung.

Phần 3: Còn lại: Sự đại bại của quân Thanh và tình cảnh thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống.

1.2. Đọc hiểu văn bản

a. Hình ảnh người anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ

Con người hành động mạnh mẽ, quyết đoán, xông xáo, nhanh gọn, có chủ đích và rất quả quyết.

Chỉ trong vòng 1 tháng từ khi quân Thanh vào Thăng Long, Nguyễn Huệ đã hành động nhanh chóng, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc tiến quân ra Bắc.

Tế cáo lên ngôi hoàng đế.

Xuất binh ra Bắc.

Tuyển mộ quân lính.

Mở cuộc tập duyệt binh ở Nghệ An.

Kêu gọi tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc.

Là người có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, là nhà lãnh đạo chính trị, quân sự, ngoại giao có tầm nhìn xa trông rộng.

Nhận định tình hình và đưa ra những quyết định quan trọng đúng lúc.

Sáng suốt nhạy bén xét đoán và dùng người. Ông biết khen chê đúng người đúng việc.

“Khi được tin quân Thanh đã vào thành Thăng Long, ông vẫn không hề lo lắng. Ở Tam Điệp, Quang Trung phỏng đoán chính xác tình hình và đánh giá đúng kế sách của Ngô Thì Nhậm, hiểu sở trường sở đoản của từng tướng, dùng người vào đúng việc”.

Ý chí quyết thắng và tài dụng binh như thần.

Trước khi xuất quân, Quang Trung đã tính kĩ mọi chiến lược tiến đánh, tin chắc vào thắng lợi chỉ trong vòng 10 ngày, hẹn với chiến sĩ ngày 7/1 cùng có mặt ở thành Thăng Long ăn mừng chiến thắng.

Quang Trung là một hình ảnh lẫm liệt trong trận chiến.

Nhiều chiến lược, mưu kế trong chiến trận.

Lãnh đạo tài tình.

“Bắt sống quân do thám, giữ bí mật để tạo thế bất ngờ, vây kín đồn Hà Hồi, công phá đồn Ngọc Hồi thật oai phong lẫm liệt“.

→ Quang Trung là người anh hùng quả cảm, mạnh mẽ, trí tuệ, sáng suốt, nhạy bén, tài dụng binh như thần, là người tổ chức và là linh hồn của chiến công vĩ đại.

b. Hình ảnh bọn cướp nước và bán nước

Nhân vật Tôn Sĩ Nghị

Kiêu căng, chủ quan, tự mãn.

Kinh địch, cầm quân mà không nắm được tình hình.

Bất tài, không lo đến việc bất trắc chỉ lo vui chơi.

“Khi quân Tây Sơn đến, Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kíp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, vất cả ấn tín, bàn bèn bỏ chạy thục mạng qua cầu phao sông Hồng“.

Quân lính rụng rời sợ hĩãi xin hàng, bỏ chạy.

Số phận của triều đình bán nước Lê Chiêu Thống

Chịu chung số phận thảm hại với bọn xâm lược, thậm chí còn ê chề, nhục nhã hơn.

Lê Chiêu Thống, Thái hậu chạy bán sống bán chết, cướp cả thuyền của dân để qua sông, luôn mấy ngày không được ăn.

May gặp người thổ hào cứu giúp chỉ đường cho chạy trốn- gặp được Tôn Sĩ Nghị vua tôi chỉ còn biết ”nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”

⇒ Tất cả cho thấy tình cảnh khốn quẫn của vua Lê Chiêu Thống.

Đoạn văn miêu tả chân thực, khách quan hàm chứa vẻ hả hê, sung sướng của người thắng trận trước kẻ xâm lược.

Kể chuyện xen kẽ miêu tả một cách sinh động, cụ thể, gây ấn tượng mạnh.

Đọc Hoàng Lê Nhất Thống Chí

“Hoàng Lê nhất thống chí” là tiểu thuyết lịch sử chương hồi nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam thời kỳ trung đại mà có lẽ là ai yêu văn chương và có quan tâm đến lịch sử đều biết. “Hoàng Lê nhất thống chí” đã được dạy trong nhà trường phổ thông từ xưa đến nay. Qua mấy lần cải cách sách giáo khoa, bây giờ “Hoàng Lê nhất thống chí” được dạy trong chương trình Ngữ văn lớp 9.

“Hoàng Lê nhất thống chí” có nghĩa là cuốn sách ghi chép về sự nhất thống của nhà Lê. Từ “chí” trong tiếng Hán có nghĩa là ghi chép, miêu tả. Tác phẩm được viết vào nửa cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, gồm 17 hồi. “Hoàng Lê nhất thống chí” còn có những tên gọi khác là “Nhất thống chí” và “An Nam nhất thống chí” nhưng hai tên sau không mấy phổ biến.

Như vậy, ở buổi khởi đầu, “chí” được dùng để chỉ những tác phẩm lịch sử hay địa lý. Về sau, nó còn được dùng để chỉ những cuốn tiểu thuyết mang tính chất lịch sử. Ở Trung Quốc như đã nói có bộ sử “Tam quốc chí”, nhưng cũng có tác phẩm văn học như “Tống chí truyện” hay “Tam quốc chí” của La Quán Trung. Ở Việt Nam, ngoài “Hoàng Lê nhất thống chí”, còn có thể kể đến cuốn sách miêu tả lịch sử Việt Nam là “Việt Nam thế chí” của tác giả Hồ Tông Thốc, hay cuốn sách miêu tả địa lý miền Đại Nam là “Đại Nam nhất thống chí”.

Nếu so sánh với Trung Quốc thì quả thật Việt Nam không có những “danh tác” hay “kỳ thư” kiểu như “Đông Chu liệt quốc” hay “Tam quốc diễn nghĩa”. Nhưng “Hoàng Lê nhất thống chí” là cuốn tiểu thuyết chương hồi mang tính chất lịch sử được đánh giá rất cao và rất nổi tiếng.

Tác giả của “Hoàng Lê nhất thống chí” là nhiều danh gia nhà họ Ngô Thì, nên được gọi là “Ngô gia văn phái”. Ngày nay nhiều nhà văn bản học xác định 4 tác giả chính của bộ tiểu thuyết này là những tên tuổi: Ngô Thì Chí, Ngô Thì Du, Ngô Thì Nhậm, Ngô Thì Thiến. Trong đó tên tuổi của Ngô Thì Chí và Ngô Thì Nhậm vốn rất quen thuộc với các bạn nào hay đọc sách sử.

Ngoài ra, thời kỳ phong kiến ở Việt Nam cũng xuất hiện nhiều cuốn tiểu thuyết lịch sử có giá trị, tuy nhiên không được biết đến nhiều như “Hoàng Lê nhất thống chí”. Có thể kể đến những cuốn như “Thiên Nam liệt truyện Nguyễn Cảnh thị Hoan Châu ký”, “Nam triều công nghiệp diễn chí”, Hoàng Việt long hưng chí”…

“Hoàng Lê nhất thống chí” thật ra là một bộ tiểu thuyết rất hấp dẫn đối với những ai quen với lối viết kiểu tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc. Nhà Đông phương học người Nga nổi tiếng thế giới là B.L.Riftin đã có hẳn một bài viết đánh giá cao tác phẩm này. Đó là bài viết “Hoàng Lê nhất thống chí và tiểu thuyết chương hồi Viễn Đông”. Ông cho rằng cái hay, cái độc đáo, cái vượt trội của “Hoàng Lê nhất thống chí” so với những tiểu thuyết cùng kiểu ở Trung Quốc hay Triều Tiên chính là ở chỗ các tác giả của họ Ngô Thì đã xây dựng được một cuốn tiểu thuyết về những sự kiện chính trị, lịch sử của ngay thời đại mà họ đang sống, tức là những năm cuối thế kỷ XVIII đầy biến động và đến khi Gia Long lên ngôi. Đây là điều rất hiếm thấy. Điều này cho thấy cảm quan lịch sử cũng như ngòi bút sáng tạo nghệ thuật tinh nhạy của các văn gia họ Ngô Thì.

So sánh với những tác phẩm khác, chúng ta thấy: La Quán Trung viết “Tam quốc chí” khoảng 1000 năm sau thời Tam quốc. “Tống chí truyện” có nội dung nói về nhà Tống thì được viết vào thời Minh. “Chiến tranh và hòa bình” của Lev Tolstoy với rất nhiều trường đoạn miêu tả chiến tranh chỉ ra đời sau khi những sự kiện đó qua đi hơn nửa thế kỷ. Còn “Hoàng Lê nhất thống chí” ra đời ngay trong thời đại mà tác phẩm miêu tả.

“Hoàng Lê nhất thống chí” đáng được ca ngợi trên những phương diện sau:

“Hoàng Lê nhất thống chí” vừa là sử học, vừa là văn học. Tác phẩm vừa trình bày những sự kiện lịch sử có thật, vừa có sự sáng tạo nghệ thuật trong đấy. Tác phẩm ghi lại chân thực, chính xác về những con người thật, những việc thật, thời gian, thời điểm, nơi chốn xảy ra sự kiện, nhưng đồng thời tác phẩm cũng dã làm tròn nghĩa vụ trong việc khám phá các mối quan hệ giữa con người với con người (đặc biệt là những con người có thật), chọn lọc các chi tiết, tình tiết đắt giá, tập trung xây dựng những tính cách nhân vật nổi bật.

Về nội dung, tác phẩm tập trung khắc họa những ngày cuối của chế độ phong kiến Lê – Trịnh cũng như cuộc khởi nghĩa của phong trào Tây Sơn mà đỉnh cao là chiến thắng Đống Đa của vua Quang Trung. Tác phẩm cũng nói về sự nhất thống của nhà Nguyễn với sự lên ngôi của Gia Long. Đây là một giai đoạn lịch sử đầy bão giông của đất nước. Nhiều cơ hội đã bị bỏ qua, nhiều trận chiến đã xảy đến, nhiều gương mặt độc đáo xuất hiện trong lịch sử, từ vua cho đến quan, cho đến dân…

Bút pháp tác phẩm cực kỳ đa dạng, học được nhiều từ truyền thống “bao biếm” của các sử gia phương Đông, lúc hài hước sâu cay, lúc nhẹ nhàng, phóng khoáng, thậm chí có lúc mang tính chất anh hùng ca.

Hình tượng nhân vật được xây dựng cực kỳ thành công, độc đáo, dù chỉ qua một, hai chi tiết miêu tả. Trịnh Sâm cuối đời thành kẻ lụy tình; Tuyên phi Đặng Thị Huệ lẳng lơ xảo trá, khéo dùng sắc đẹp che mắt chúa; Thế tử Tông thèm khát cơ nghiệp tổ tiên nhưng trí óc và hành động không hơn một con rối; Nguyễn Hữu Chỉnh có nét gian hùng như Tào Tháo; Dương Trọng Tế nhát chết nhưng to miệng; Ngô Thì Nhậm cương quyết dám nghĩ dám làm; Nguyễn Huệ thông minh, oai vệ, vũ dũng, nhưng vẫn phảng phất nét thô lỗ kiểu nông dân áo vải; Nguyễn Nhạc mộc mạc; Lê Chiêu Thống đớn hèn…

Một câu hỏi do các nhà nghiên cứu văn học đặt ra nhiều thập kỷ qua là Ngô Thì Nhậm có viết “Hoàng Lê nhất thống chí” hay không? Công lao của Ngô Thì Nhậm đối với nhà Tây Sơn thì đã quá rõ ràng, còn công lao của ông với văn học thì sao?

Chuyện những ai là tác giả của “Hoàng Lê nhất thống chí” là một chuyện tranh luận nhiều năm qua, thu hút nhiều nhà nghiên cứu sử học và văn học, trong đó chủ yếu dựa vào những cứ liệu văn bản học để đoán định và kết quả cuối cùng là chưa đi đến được kết luận nào. Thế nên, người ta chỉ nhắc đến các tác giả của “Hoàng Lê nhất thống chí” dưới một cái tên gọi chung là “Ngô gia văn phái”. Văn bản học ở đây là một ngành khoa học trong văn học, ngôn ngữ học, nghiên cứu các tác phẩm, tác giả nhằm tái tạo lại bản gốc của tác phẩm, hoặc tìm ra tác giả đích thực của tác phẩm.

Hiện nay đã thống kê được 14 dị bản “Hoàng Lê nhất thống chí”, trong đó có 7 bản còn đủ 17 hồi; 3 bản cũng còn đủ 17 hồi nhưng đã thất lạc văn bản; 4 dị bản không còn đủ 17 hồi. Trong đó nhiều dị bản ghi tác giả là “Ngô gia văn phái”. Cũng có dị bản ghi tác giả là Ngô Thì Chí, có dị bản ghi tác giả là Ngô Thì Thiến và nhiều dị bản không ghi tác giả. “Dị bản” là một thuật ngữ quen thuộc trong ngành văn bản học, dùng để chỉ các bản in, bản thảo… khác nhau của cùng một tác phẩm, có thể có nội dung không trùng khớp với nhau ở một vài hay nhiều chi tiết. So sánh, đối chiếu các dị bản với nhau có thể giúp tìm ra một văn bản gần với bản gốc nhất của tác phẩm. Nói tác giả là Ngô Thì Chí, thì có bản “Ngô gia thế phả” (tức là gia phả của dòng họ Ngô Thì); Phạm Đình Hổ trong “Vũ trung tùy bút”, Phan Huy Chú trong “Lịch triều hiến chương loại chí”. Nhiều nhà nghiên cứu có chung quan điểm cho rằng người viết phần đầu “Hoàng Lê nhất thống chí” là Ngô Thì Chí như Ngô Tất Tố, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Đức Vân, Kiều Thu Hoạch, Vũ Đức Phúc, Nguyễn Văn Hoàn, Emile Gaspardonne, B.L. Riftin. Nói tác giả là Ngô Thì Du, người viết tiếp Ngô Thì Chí thì có bản “Ngô gia thế phả”. Nguyễn Đức Vân và Kiều Thu Hoạch cho rằng người viết “Hoàng Lê nhất thống chí” là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du. Nói tác giả là Ngô Thì Nhậm, có sách “Đăng khoa lục sưu giảng” (không rõ tác giả) và những tên tuổi như Nguyễn Đăng Tấn, Văn Tân, Tạ Ngọc Liễn. Nói tác giả là Ngô Thì Thiến, có Nguyễn Hữu Thường.

Sau rất nhiều tranh cãi, hiện nay quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu văn học Việt Nam thời kỳ trung đại cho rằng việc Ngô Thì Nhậm có tham gia viết “Hoàng Lê nhất thống chí” hay không vẫn còn là điều đáng bàn. Cuốn sách “Hoàng Lê nhất thống chí – văn bản, tác giả, nhân vật” của GS. Phạm Tú Châu ở Viện Văn học, xuất bản năm 1997 viết rất kỹ về vấn đề này.

Không có bằng cớ khoa học khẳng định chắc chắn Ngô Thì Nhậm có tham gia viết “Hoàng Lê nhất thống chí”. Ngược lại, cũng không có bằng cớ nào bác bỏ chuyện này cả. Nhưng chắc chắn một điều là khi xem xét văn bản nội dung của “Hoàng Lê nhất thống chí”, các nhà nghiên cứu đều cho rằng ít nhất nếu Ngô Thì Nhậm không tham gia viết một số chương hồi nào đó, thì những người viết khác của dòng họ Ngô Thì cũng đã sử dụng rất nhiều tài liệu, ghi chép của ông để lại. Đó chính là công lao lớn của Ngô Thì Nhậm đối với bộ “Hoàng Lê nhất thống chí”. Văn học cũng như sử học, có nhiều vấn đề chỉ có thể đoán định mà chưa tìm ra câu trả lời cuối cùng. Trường hợp các tác giả của “Hoàng Lê nhất thống chí” là như vậy.

Bài 5. Hoàng Lê Nhất Thống Chí

Văn bản Hoàng Lê Nhất Thống ChíHồiThứ14NGÔ GIA VĂN PHÁI1. Tác giả.– Dòng họ Ngô Thì ở làng tả Thanh Oai – Hà Tây viết.– Ngô Thì Chí ( 1753 -1788 ) viết 7 hồi đầu.– Ngô Thì Du ( 1772 – 1840 ) viết 7 hồi tiếp.– 3 hồi khác do một ngưuời khác viết.-Tác phẩm viết bằng chữ Hán, có quy mô lớn gồm 17 hồi.– Nội dung: Ghi chép về sự thống nhất của vuong triều nhà Lê và tái hiện lại một giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.2. Tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí. 3. Th? lo?i: Ti?u thuy?t chuong h?i vi?t theo th? Chí ( là thể văn ghi chép lại sự vật, sự việc. Đây là thể văn vừa có tính chất văn học vừa có tính chất lịch sử.)Tên tác phẩm có nghĩa là: Cuốn sách gi chép về sự thống nhất của vuương triều nhà Lê viết theo thể chí.Tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí đưuợc coi là Tiểu thuyết lịch sử chưuơng hồi Nội dung: Viết về những sự kiện lịch sử, chịu ảnh hưuởng lối viết của tiểu thuyết chưuơng hồi Trung Quốc.Hình thức: Có kết cấu, nghệ thuật khắc họa nhân vật, cách miêu tả, tự sự lại rất đậm chất tiểu thuyết.Hồi thứ 14Ghi lại sự kiện vua Quang Trung đại phá quân Thanh vào mùa xuân năm 1789, lập nên triều đại Tây Sơn. Phản ánh bộ mặt thảm hại của bọn cuướp nưuớc và bán nuớc.Tóm tắt. Quân Thanh kéo vào Thăng Long, tuướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở lui quân về vùng núi Tam Điệp. Đuược tin Quang Trung rất giận, bèn họp tuướng sĩ định thân chinh cầm quân đi ngay. Nhưng nghe mọi nguười đến họp khuyên Ông đã lên ngôi vua ở Phú Xuân, tự đốc xuất đại binh nhằm ngày 25 tháng Chạp năm 1788 tiến quân ra Bắc diệt Thanh. Dọc đưuờng vua Quang Trung cho kén thêm quân lính, mở cuộc duyệt binh lớn, chia quân thành các đạo, chỉ dụ tưuớng lĩnh, mở tiệc khao quân vào ngày 30 tháng Chạp. Hẹn đến ngày mùng 7 Tết thắng giặc mở tiệc ăn mừng ở Thăng Long. Đội quân của Quang Trung đánh đến đâu thắng đến đấy, khiến quân Thanh đại bại. Ngày mùng 3 Tết quân Tây Sơn công phá đồn Hà Hồi, sáng sớm ngày mùng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi, trưa mùng 5 Tết tiến binh đến Thăng Long. Tưuớng Thanh là Tôn Sĩ Nghị vội vã tháo chạy về nước, vua Lê Chiêu Thống cùng gia quyến vội vã chạy trốn theo.4. Phưuơng thức biểu đạt. Tự sự kết hợp với miêu tả và nghị luận.– Đoạn 1 (từ đầuhôm ấy là ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân 1788): Quân Thanh chiếm Thăng Long, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế cầm quân dẹp giặc.– Đoạn 2 (Vua QT tự mình đốc suất đại binh  rồi kéo vào thành): Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của QT.– Đoạn 3 (còn lại): Hình ảnh thất bại thảm hại của bọn xâm lăng và lũ vua quan bán nước.1.Hỡnh ?nh Quang Trung- Nguy?n Hu?.Khi Bắc Bình Vuương đuược tin cấp báo quân Thanh đã đến Thăng Long, Ông đã có phản ứng nhuư thế nào ?Nghe tin: Giận lắm, họp tuớng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay.Khi mọi nguười đến họp đã khuyên Ông điều gì ? Ông đã hành động nhưu thế nào ?Nghe lời tuướng sĩ lên ngôi Hoàng đế, sau đó hạ lệnh xuất quân ( 25/12/1788 )Qua thái độ và hành động trên tính cách nào của vua Quang Trung đưuợc bộc lộ ?Ngay thẳng, cuương trực, căm ghét bọn xâm lưuợc và những kẻ bán nuước.Khi nghe mọi nguười đến họp khuyên Quang Trung đã có nghe lời tưuớng sĩ, lên ngôi Hoàng đế… Việc làm đó chứng tỏ Ông là con nguười nhuư thế nào ?Thấu hiểu lẽ phải, có ý chí quyết tâm đánh đuổi quân xâm lưuợc.* Khi mới nghe tin:* Ngày 29 tháng 12 đến Nghệ An:Ngày 29 tháng 12 Quang Trung đã đến địa danh nào ? ở đây Ông đã có những việc làm gì ?Gặp ngưuời cống sĩ ở La Sơn hỏi việc đánh giặc.Kén lính ở Nghệ An và mở cuộc duyệt binh lớn.Sắp xếp đội ngũ và truyền cho quân sĩ ngồi nghe lệnh và dụ họ.Chỉ trong vòng ngày 29 Quang Trung làm đuược bao nhiêu là việc lớn. Những việc làm đó cho thấy Ông là một người luôn hành động nhưu thế nào ?Hành động mạnh mẽ, quyết đoán.LÍNH TÂY SƠNQuan sát lời chỉ dụ của vua Quang Trung với quân sĩ trong SGK trang 66 em thấy nội dung lời chỉ dụ nêu lên những gì ?Khẳng định chủ quyền đất nưuớc.Nêu lên dã tâm của giặc phưuơng Bắc.Tự hào về công lao đánh giặc ngoại xâm của cha ông.Tin tuưởng vào chính nghĩa của cuộc hành binh diệt Thanh và kêu gọi quân sĩ đánh giặc.Ra kỷ luật đối với quân sĩ.Từ lời dụ quân sĩ trên em thấy tài năng nào của Nguyễn Huệ đưuợc bộc lộ ?Tài khích lệ quân sĩ.Trí tuệ sáng suốt và nhạy bén.Lời chỉ dụ của Quang Trung_Nguyễn Huệ* Ngày 30 tháng 12 năm 1788Sau khi mở cuộc duyệt binh vào ngày 29 ở Nghệ An. Ngày hôm sau ( 30 Tết ) Quang Trung đã có quyết định gì ?Hạ lệnh xuất quân đến Tam Điệp.Mở tiệc khao quân.Xử trí hai tưuớng Sở và LânHoạch định kế sách đánh giặc và tính kế hoạch ngoại giao sau chiến tranh.Tại Tam Điệp, Quang Trung đã có những việc làm nào ?Tối 30 Tết thì lên đưuờng tiến quân ra Thăng Long.Tại Tam Điệp, Quang Trung đã xử trí 2 tưuớng Sở và Lân nhuư thế nào ? Từ cách xử trí ấy nói với em về một con nguười có phẩm chất nhuư thế nào ? Năng lực tiên đoán chính xác của một nhà quân sự có tài.Tầm nhìn xa trông rộng, một nhà chính trị có tưu tưuởng hòa bình.Nhạy bén, sáng suốt, độ luượng và công minh trong việc xét đoán bề tôi.Việc Quang Trung nói với tuướng sĩ về kế hoạch ngoại giao với nhà Thanh sau chiến tranh cho thấy đây là một vị vua có tấm nhìn và tuư tưởng nhuư thế nào ?Hành động mở tiệc khao quân, cho quân ăn Tết trước và tối 30 Tết lập tức lên đuường cùng lời hứa hẹn đón năm mới ở Thăng Long vào ngày mùng 7 Tết cho thấy năng lực đặc biệt nào ở vị vua này ?Ngoài “xe tăng voi lửa” kể trên, binh lính Tây Sơn còn được trang bị một loại vũ khí cá nhân là Hỏa hổ. Hỏa hổ là một loại vũ khí hình ống, một loại súng phun lửa có thể biến địch thành “cây đuốc sống”. Khi lâm trận, trong ống Hỏa hổ bắn nhựa thông ra, trúng phải đâu là lập tức bốc cháy. Loại vũ khí đặc biệt này được trang bị cho cả quân chủng lục quân và thủy quân của nhà Tây Sơn. Nguyễn Huệ đã biến voi thành những “cỗ xe tăng” có sức mạnh áp đảo, trang bị đại bác và hỏa pháo trên lưng. Trên lưng mỗi quân voi có ba, bốn người lính chít khăn đỏ, ngồi ném tung hỏa cầu lưu hoàng ra khắp nơi, đốt cháy quân địch.

Đội quân “voi lửa” của vua Quang Trung, người thiên tài quân sự cả đời cầm quân không hề biết thua trận là gì, đã hội đủ cả 3 yếu tố chiến thuật: Cơ động, đột kích và hỏa lực. Đây thật sự là một cuộc cách mạng voi chiến so với các thời kỳ trước đó.Qua phần 1 hình ảnh vua Quang Trung đưuợc tái hiện lên bằng biện pháp nghệ thuật nào ?Các biện pháp nghệ thuật ấy nói với em về một vị vua nhuư thế nào ?Kể bằng hành động, sự việc, lời nói cụ thể.Là một vị vua yêu nuớc, sáng suốt, có tài cầm quân.Bùi Thị Xuân tỉnh Bình ĐịnhSinh trưởng trong một gia đình khá giả, Bùi Thị Xuân sớm được học văn và học võ, người có nhan sắc, khéo tay và viết chữ đẹp. Đến khi theo học võ với Đô thống Ngô Mạnh, bà cũng nhanh chóng thành thạo, nhất là môn song kiếm. Với tài nghệ (ngoài tài kiếm thuật, bà còn giỏi bắn cung, cưỡi ngựa và luyện voi) cộng với lòng dũng cảm, Bùi Thị Xuân cùng chồng nhanh chóng trở thành những tướng lĩnh trụ cột, góp công lớn trong công cuộc dựng nghiệp của nhà Tây Sơn ngay từ buổi đầu, trận đại phá quân Mãn Thanh vào đầu xuân Kỷ Dậu (1789), bà chỉ huy đội tượng binh của đạo Trung quân do vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) chỉ huy2. Hình ảnh quân tướng nhà Thanh và bọn vua tôi phản nước: a, Quân tướng nhà Thanh: – Kiêu căng, chủ quan, chỉ lo ăn chơi. – Khi quân Tây Sơn đến, tướng Tôn Sĩ Nghị và binh lính bỏ chạy hoảng loạn.Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vẫn

→ Sự thất bại thảm hại.b, Bọn vua tôi bán nước:

– Hình ảnh vua quan Lê Chiêu Thống đớn hèn, nhục nhã, số phận gắn chặt với bọn giặc xâm lược

→ Nhục nhã.3. Ý nghĩa văn bản:

Văn bản ghi lại hiện thực lịch sử hào hùng của dân tộc ta và hình ảnh người anh hùng Nguyễn Huệ trong chiến thắng mùa xuân năm Kỉ Dậu ( 1789)1753 – 1792III. Tổng kết: Ghi nhớ: sgk/72 1. Nội dung: Ca ngợi vị vua anh hùng Nguyễn Huệ và tố cáo bè lũ bán nước vua tôi nhà Lê.

2. Nghệ thuật: Giọng kể sôi nổi, tự hàoIV.LUYỆN TẬP: Viết đọan văn nêu cảm nghĩ của em về người anh hùng Nguyễn Huệ – Quang Trung trong chiến công thần tốc đại phá quân Thanh từ tối 30 đến mồng 5 tết Kỉ Dậu (1789)Bài 1Củng cố