Văn Bản Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Ngắn / Top 9 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Bac.edu.vn

Soạn Bài Kiều Ở Lầu Ngưng Bích (Siêu Ngắn)

Soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) Bố cục

– Phần 1: 6 câu đầu: Khung cảnh lầu Ngưng Bích

– Phần 2: 8 câu tiếp: Nỗi thương nhớ nhà và Kim Trọng của Kiều

– Phần 3: 8 câu cuối: Tâm trạng của Kiều qua bức tranh thiên nhiên

Soạn bài

Câu 1 (trang 95 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1): Cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích

– Không gian: “Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung”, bốn bề bát ngát, cát vàng cồn nọ: Không gian được miêu tả từ cao, xa, rộng. Không gian trước lầu Ngưng Bích là một không gian rộng lớn, mênh mông, xa cách với cõi trần.

– Thời gian: Thời gian được miêu tả qua từ “mây sớm đèn khuya”, hình ảnh ánh trăng. Kiều luôn phải thức khuya, dậy sớm bởi một nỗi trằn trọc, tủi hận cho cuộc đời mình

– Các từ miêu tả tâm trạng: bẽ bàng, khóa xuân: Qua đó ta thấy Kiều đang lâm vào hoàn cảnh bị giam lỏng, bị ngăn cách với thế giới bên ngoài. Cô cảm thấy xót thương, xấu hổ cho thân phận của mình.

Câu 2 (trang 95 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):

a, Trong cảnh ngộ đó Kiều đã nhớ đến gia đình và nhớ đến Kim Trọng. Nàng nhớ Kim Trọng trước, nhớ cha mẹ sau. Nhớ như vậy cũng là hợp lí vì trước khi Kiều bị bán đi Kim Trọng không biết. Nàng đã phụ tấm chân tình của Kim Trọng lo rằng chàng đang chờ đợi và tìm kiếm mình. Nhớ cha mẹ sau vì thương nỗi cha mẹ ở nhà không có ai chăm, ốm đau không có ai nâng giấc

b, – Nhớ Kim Trọng: Thể hiện qua lời thề nguyền dưới ánh trăng, qua sự thương xót Kim Trọng phải chờ đợi nàng một cách uổng công. Đặc biệt được thể hiện qua từ “tấm son”: Kiều muốn khẳng định với Kim Trọng tấm lòng của mình, sợ rằng chàng nghĩ mình là kẻ phụ tình

– Nhớ cha mẹ: được thể hiện qua từ “xót người tựa cửa”, “quạt nồng ấp lạnh” lo cho cha mẹ hàng ngày đứng cửa chờ trông mình, không có ai ở nhà chăm sóc, nâng giấc

– Qua đó cho thấy Kiều là một người trọng tình nghĩa, thủy chung, son sắt, là một người con có hiếu, yêu thương cha mẹ.

Câu 3 (trang 96 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):

a, Cảnh vật ở đây được miêu tả thông qua tâm trạng của Kiều. Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Qua mỗi cặp câu thơ thể hiện nỗi nhớ thương khác nhau: 2 câu đầu nàng nhớ cha mẹ, 2 câu sau nàng nhớ tới chàng Kim, 2 câu cuối nàng xót xa cho thân phận mình

b, Nguyễn Du đã sử dụng các điệp ngữ “buồn trông” để nói lên tâm trạng chờ đợi trong mỏi mòn, buồn tủi của Kiều về tin tức người nhà về người yêu. Nỗi buồn dằng dặc, mênh mông, cô đơn, sầu thảm.

Nguyễn Du sử dụng các điệp từ “xa xa, ầm ầm, xanh xanh” để diễn tả tâm trạng của Kiều. Tâm trạng buồn man mác. ở 2 câu thơ cuối tác giả sử dụng từ láy “ầm ầm” dự báo một đều trắc trở sắp diễn ra với cuộc đời Kiều.

Luyện tập

– Tả cảnh ngụ tình là một bút pháp đặc trưng của văn học trung đại nói chung, của ngòi bút Nguyễn Du nói riêng với cơ chế là tả cảnh thông qua đó để bộc lộ tâm trạng con người, tả cảnh để nói tình chứ không chỉ là bức tranh tả cảnh thuần túy.

– Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong tám câu thơ cuối. Toàn bộ tám câu thơ đều nhằm khắc họa tâm trạng lạc lõng, cô đơn, đầy âu lo của Thúy Kiều về số phận của chính mình.

Bài giảng: Kiều ở lầu Ngưng Bích – Cô Nguyễn Dung (Giáo viên VietJack)

Bài giảng: Kiều ở lầu Ngưng Bích – Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k6: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Các bài Soạn văn lớp 9 siêu ngắn được biên soạn bám sát câu hỏi sgk Ngữ Văn lớp 9 Tập 1, Tập 2 giúp bạn dễ dàng soạn bài Ngữ Văn 9 hơn.

Kiều Ở Lầu Ngưng Bích

Nguyễn Du sinh năm 1765 mất năm 1820.

Tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên.

Quê quán: làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

Cuộc đời

Ông sinh trưởng trong gia đình đại quý tộc có truyền thống khoa bảng và sáng tạo nghệ thuật.

Ông sống trong thời đại đau khổ, bế tắc và nhiều biến động.

Ông là người có hiểu biết sâu rộng, có vốn sống phong phú, Nguyễn Du đã sống nhiều năm lưu lạc tiếp xúc với nhiều cảnh đời và thân phận con người trong thời đại loạn lạc, dâu bể.

Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du rất phong phú và đồ sộ.

Ông có ba tập thơ chữ Hán với 243 bài, sáng tác chữ Nôm xuất sắc nhất là “Truyện Kiều”.

Đoạn trích được trích trong tác phẩm Truyện Kiều, được viết bằng chữ Nôm.

Đoạn trích nằm ở phần hai (Gia biến và lưu lạc).

Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi bà bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.

Văn bản được bố cục thành ba phần.

Phần 1: 6 câu đầu: Hoàn cảnh cô đơn của Kiều.

Phần 2: 8 câu còn lại: Nỗi nhớ của Kiều

Phần 3: Còn lại: Tâm trạng của Thúy Kiều.

Không gian: Lầu Ngưng Bích.

Thời gian: Mây sớm, đèn khuya, trăng.

Cảnh vật

Non xa – trăng gần.

Mây – đèn.

Cồn cát nọ – bụi hồng kia.

Bốn bề bát ngát.

⇒ Nghệ thuật liệt kê, đối lập làm cho cảnh vật hiện ra bộn bề, bát ngát mênh mông đối lập với lòng người cô đơn trống vắng nơi đất khách quê người.

Câu thơ “nửa tình“: vẻ đẹp trước lầu Ngưng Bích đã được nàng gửi gắm và tình cảm nhớ quê hương. Lúc này tình cảm và cảnh vật cứ đan xen,hoà trộn làm cho tâm trạng bẽ bàng, sầu tủi.

⇒ Cảnh vật dưới cái nhìn của Kiều được hiện ra đẹp nhưng đượm buồn.

Nhớ người yêu.

Nhớ cha mẹ.

Nỗi nhớ Kim Trọng.

Nhớ đêm thề nguyện với Kim Trọng dưới đêm trăng.

Hình dung Kim Trọng nơi xa xôi đang mong chờ tin tức. Kiều cảm thấy mình có lỗi.

“Tấm son gột rửa“: động từ mạnh “gột rửa” diễn tả tấm lòng thuỷ chung, mối tình đầu đẹp đẽ không thể gột rửa được cho dù nàng muốn lãng quên nó đi.

⇒ Tác giả dùng từ chọn lọc diễn tả nỗi nhớ người yêu đau đáu, da diết, đầy cảm động.

Nỗi nhớ cha mẹ.

“xót“: xót thương cha mẹ ngày ngày “tựa cửa” ngóng tin con.

“Quạt nồng ấp lạnh“: lo cho cha mẹ, thương cha mẹ già yếu mà mình không được chăm sóc. Kiều tự trách mình không chu đáo.

Điển tích “Sân Lai” để nói đến tấm lòng hiếu thảo của Kiều chỉ biết lo cho người khác mà không nghĩ đến mình.

⇒ Kiều là người thuỷ chung, hiếu thảo, vị tha.

Điệp ngữ: “buồn trông” 4 lần, kết hợp một hệ thống từ láy và đặc biệt là mỗi cặp câu thơ là một cảnh vật.

Cảnh vật: hình ảnh cánh buồm “xa xa” thấp thoáng nơi cửa bể chiều hôm gợi cảnh đời lưu lạc nơi chân trời góc bể, nỗi nhớ quê hương da diết.

Cảnh vật: cánh hoa trôi man mác gợi lên số phận lênh đênh vô định của Kiều.

Cảnh vật: nội cỏ rầu rầu gợi về một tương lai mờ mịt trong xã hội phong kiến suy tàn không lối thoát mà thân phận nhỏ bé của con người không biết làm sao đây.

Cảnh vật: “gió cuốn mặt duềnh“, “ầm ầm tiếng sóng” kêu gợi tâm trạng hãi hùng, lo sợ trước số phận, cuộc sống đang đe doạ bủa vây xung quanh nàng.

Nghệ thuật: vần bằng, hệ thống từ láy tạo nên nỗi buồn tầng tầng lớp lớp.

Miêu tả cảnh vật từ xa đến gần diễn tả tâm trạng từ chỗ nhớ quê hương, người thân đến lo buồn cho tương lai, sợ hãi, rùng rợn cho số phận của mình.

⇒ Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả xây dựng một bức tranh tâm trạng đặc sắc nhất, hay nhất của Truyện Kiều: nỗi buồn đau của Kiều như lan toả sang cảnh vật đã xâm chiếm lòng nàng.

Ghi chú:

Nội dung: Đoạn thơ thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.

Nghệ thuật: Miêu tả nội tâm nhân vật, diễn biến tâm trạng được thể hiện qua ngôn ngữ độc thoại.

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc.

Điệp ngữ.

Soạn Bài Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Ngắn Gọn Nhất

Bài viết hướng dẫn soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích trả lời những câu hỏi tại trang 95 và trang 96 sách giáo khoa Ngữ văn 9 tập 1 này sẽ giúp các bạn sẽ trả lời tốt các câu hỏi và qua đó sẽ hiểu và nắm vững các kiến thức quan trọng của bài học.

Cùng tham khảo… Hướng dẫn trả lời chi tiết các câu hỏi trang 95 và 96 sách giáo khoa môn Ngữ văn 9 tập 1:

II. Hướng dẫn soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích

1 – Trang 95 SGK

Đọc – hiểu văn bản

Em hãy tìm hiểu cảnh thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu:

– Đặc điểm của không gian trước lầu Ngưng Bích (chú ý không gian mở ra theo chiều rộng, chiều xa, chiều cao qua cái nhìn của nhân vật).

– Thời gian qua cảm nhận của Thuý Kiều (chú ý hình ảnh trăng, “mây sớm đèn khuya”).

Trả lời

– Qua khung cảnh thiên nhiên có thể thấy Thuý Kiều đang ở trong hoàn cảnh, tâm trạng như thế nào ? Từ ngữ nào góp phần diễn tả hoàn cảnh và tâm trạng ấy ?

Đặc điểm không gian và thời gian trước lầu Ngưng Bích

Chiều cao: trên trời vầng trăng vằng vặc, trăng như gần hơn và với nàng bây giờ chỉ có trăng là bầu bạn.

Chiều rộng: không gian bao la bát ngát, chỉ có những cồn cát im lìm vắng lặng bụi tung mờ mịt, những dãy núi trùng điệp nhấp nhô ẩn trong sương mờ. Không gian mênh mông, hoang vắng, rợn ngợp cô đơn không một bóng người.

– Không gian: lầu Ngưng Bích được mở ra rất nhiều chiều theo cái nhìn của nhân vật từ trên cao xuống.

– Thời gian: từ sáng (mây sớm) đến đêm khuya (đèn khuya) chỉ có một mình nàng thui thủi cô đơn, bẽ bàng thương thân, tủi phận.

– Qua khung cảnh thiên nhiên có thể thấy Kiều đang ở trong hoàn cảnh trơ trợ bị giam hãm, mất tự do, cô độc giữa lầu Ngưng Bích hoang vắng. Tâm trạng của nàng trống trải, cô đơn, ngao ngán thật tội nghiệp…. (những từ ngữ diễn tả hoàn cảnh và tâm trạng ấy : bẽ bàng, như chia tấm lòng…). Có thể nói nàng đã rơi vào hoàn cảnh cô đơn tuyệt đối. Cảnh lầu Ngưng Bích rất hữu tình thơ mộng, nhưng hoang vắng rợn ngợp thiếu hơi ấm con người, đúng như tên gọi của nó, khoá xuân nơi giam hãm tuổi xuân của con người.

Tám câu thơ tiếp theo trực tiếp nói lên nỗi nhớ thương của Kiều:

a) Trong cảnh ngộ của mình nàng đã nhớ tới ai ? Nàng nhớ ai trước, ai sau ? Nhớ như thế có hợp lí không, vì sao ?

b) Cùng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ khác nhau với những lí do khác nhau nên cách thể hiện cũng khác nhau. Em hãy phân tích nghệ thuật dùng từ ngữ, hình ảnh của tác giả để làm sáng tỏ điều đó.

Trả lời

c) Em có nhận xét gì về tấm lòng Thuý Kiều qua nỗi nhớ thương của nàng ?

a. Tám câu thơ tiếp theo trực tiếp nói lên nỗi nhớ thương của Kiều. Đầu tiên Kiều nhớ tới Kim Trọng. Trong xã hội phong kiến đề cao chữ hiếu, thế nhưng ở đây Nguyễn Du lại để cho Thuý Kiều nhớ Kim Trọng trước khi nhớ về cha mẹ, điều đó có lí do của nó. Với cha mẹ dẫu sao nàng cũng mới gặp gỡ trước lúc lên đường về với Mã Giám Sinh, thứ nữa hành động bán mình để lấy tiền cứu cha và em của nàng cũng là một phần nào làm nàng yên lòng. Còn đối với Kim Trọng kể từ ngày “ngộ biến” cả hai bên chưa ai nhận được tin gì của nhau. Hơn nữa, nàng cảm thấy mình có lỗi với Kim Trọng bởi vì hoàn cảnh của gia đình mà nàng đã không giữ đúng lời thề hẹn với chàng Kim.

b. Cách thể hiện nỗi nhớ của Kiều rất khác nhau:

Nàng hình dung cảnh Kim Trọng đợi chờ tin nàng ở quê nhà. Đồng thời cũng thể hiện tấm lòng thuỷ chung:

Chân trời góc bể bơ vơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?

Câu thơ là một câu hỏi tu từ thể hiện sự dằn vặt, đau khổ của nàng khi phải chia tay với Kim Trọng. Dù mai sau có phiêu bạt chân trời góc bể nào thì tình cảm của nàng đối với Kim Trọng vẫn nồng thắm, bất biến với không gian và thời gian.

– Về nỗi nhớ Kim Trọng, nàng nhớ lời thề ước dưới trăng, thương chàng Kim Trọng đêm ngày đau đáu trông chờ uổng công vô ích “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”.

Nàng thương xót cha mẹ già yêu mà nàng không được chăm sóc. Nàng tưởng tượng cảnh nơi quê nhà tất cả đã đổi thay mà sự đổi thay lớn nhất là cha mẹ ngày một thêm già yếu.

Lần nào khi nhớ về cha mẹ, Kiều cũng “nhớ ơn chín chữ cao sâu” và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy con cái của cha mẹ. Cũng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ lại khác nhau với những lí do khác nhau nên cách thể hiện cũng khác nhau.

– Nỗi nhớ cha mẹ

– Nghệ thuật: trong đoạn trích, tác giả dùng rất nhiều từ ngữ hình ảnh có tính chất ước lệ: chén đồng, tin sương, tấm son, quạt nồng ấp lạnh, sân lai, gốc tử để nói về tình yêu và đạo hiếu. Nhịp thơ đều đều 2/2/2 và 4/4 đã góp phần diễn tả một cách sâu sắc tâm trạng buồn chán của nàng.

3 – Trang 96 SGK

c. Như vậy, dù Kiều đã hi sinh thân mình vì đạo hiếu, khi lâm vào tình cảnh đáng thương, nàng lại một lòng nhớ đến Kim Trọng, nhớ thương cha mẹ, quên cả cảnh ngộ của mình. Trong đoạn trích này, Kiều hiện ra với đức hi sinh cao đẹp, một tình yêu thủy chung và lòng hiếu thảo của một người con.

Tám câu thơ cuối miêu tả cảnh vật qua tâm trạng:

a) Cảnh vật ở đây là thực hay hư ? Mỗi cảnh vật có nét riêng đồng thời lại có nét chung để diễn tả tâm trạng Kiều. Em hãy phân tích và chứng minh điều đó.

Trả lời

b) Em có nhận xét gì về cách dùng điệp ngữ của Nguyễn Du trong tám câu thơ cuối ? Cách dùng điệp ngữ ấy góp phần diễn tả tâm trạng như thế nào ?

a. Tám câu thơ cuối đoạn trích, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Cảnh vật được miêu tả qua tâm trạng, tâm trạng nhuốm lên cảnh vật, cảnh vật thể hiện tâm trạng:

Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa?

Cánh buồm nhỏ cuối trời xa xăm vô định như cuộc đời nàng giữa biến đời mênh mông không biết đi đâu về đâu.

Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Cánh hoa bị vùi dập tan tác như cuộc đời nàng đang bị vùi dập bởi sóng gió của cuộc đời.

Buồn trông nội cỏ rầu rầu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Nội cỏ tàn phai héo úa hay cuộc đời nàng từ nay bắt đầu bước vào chuỗi ngày héo úa tàn phai.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Mặt duềnh cuộn sóng hay chính là sóng gió cuộc đời đen tối đang bủa vây người con gái nhỏ bé tội nghiệp.

b. Cụm từ Buồn trông lặp lại bốn lần trong tám câu thơ như những đợt sóng lòng trùng điệp, càng khiến nỗi buồn dằng dặc, mênh mông, kết hợp với cái nhìn từ xa đến gần, thu hẹp dần vào nội cảm con người để đến cuối đoạn thì tâm trạng cô đơn, sầu nhớ, cảm giác đau đớn trào lên.

– Đoạn thơ còn sử dụng rất nhiều từ láy: xa xa, thấp thoáng, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm… Làm cho ý thơ trầm xuống, toả lan ra, như tô điểm thêm cho không gian mờ mịt, xa xăm. Kèm theo mỗi cặp từ láy đó là hình ảnh tăng tiến càng lúc càng dữ dội. Đặc biệt ở câu cuối, tiếng sóng ở đây không vỗ, không đập mà kêu ầm ầm, không đến từ một phía mà bủa vây lấy, mà từ nhiều phía kêu quanh ghế ngồi. Nó gợi lên sự hãi hùng, dự báo về cuộc đời đầy sóng gió đang chờ đợi Kiều ở phía trước.

Soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích phần Luyện tập

Trả lời

Thế nào là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình? Phân tích nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong tám câu thơ cuối.

Là bút pháp thông qua việc miêu tả cảnh vật (thiên nhiên, cuộc sống xung quanh) để khắc họa tâm trạng, cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật trữ tình.

Cùng với bút pháp chấm phá, bút pháp ước lệ tượng trưng, bút pháp đòn bẩy, lấy tĩnh tả động, lấy động tả tĩnh…đây là một trong những bút pháp đặc trưng, mang đậm dấu ấn của văn học trung đại. Cũng có thể nói, bút pháp tả cảnh ngụ tình là một yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công cho tác phẩm truyện Kiều của Nguyễn Du.

Bút pháp tả cảnh ngụ tình:

Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình qua tám câu thơ cuối đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)

Tả cảnh: Những con thuyền với cánh buồm no căng gió tấp nập qua lại ở cửa biển, dưới chân lầu Ngưng Bích, nơi Kiều bị giam lỏng. Cửa biển thuyền qua, thuyền lại như mắc cửi, những cánh buồm được giương lên cao, gió thổi căng phồng đưa con thuyền lướt trên mặt biền, trong chốc lát đã đi ra xa, cánh buồm chỉ còn thấp thoáng, lúc ẩn, lúc hiện.

Tả tình: Nỗi buồn thương, nỗi nhớ nhà và khao khát được trở về nhà của Kiều. Giờ nàng đã bán thân để cứu cha và em, cũng đã rơi vào tay của những kẻ buôn người, không biết đến bao giờ nàng mới có cơ hội để trở về nhà gặp lại cha mẹ, gặp lại các em, gặp lại cả Kim Trọng – mối tình đầu khắc cốt ghi tâm của mình. Càng nhìn cánh buồm thấp thoáng phía xa cuối tận chân trời, Kiều càng mong mỏi ngày trở về.

Hai cầu đầu:

Tả cảnh: Hình ảnh của dòng nước đổ từ trên cao xuống dưới thấp hay đúng hơn là thác nước tuyệt đẹp như bay từ trên cao sà xuống mặt đất. Theo dòng nước ấy là những cánh hoa trôi từ phía thượng nguồn đổ về.

Tả tình: Kiều xót thương cho số phận của mình. Nàng nghĩ mình cũng giống như những cánh hoa kia, đẹp đấy, ngát hương và tài năng đấy nhưng dòng nước dữ dội kia – chính là dòng đời, không biết sẽ mang theo nàng về nơi nào. Bởi lẽ, cuộc đời của nàng bây giờ không còn được quyết định bởi nàng nữa, nó phụ thuộc vào những kẻ buôn người, là Tú Bà, là Mã GIám Sinh.

Hai câu tiếp:

Tả cảnh: Cánh đồng cỏ ngút ngàn trải dài đến tận cuối con đường nhưng không còn là đồng cỏ tràn đầy sức sống như trong tiết thanh minh “cỏ non xanh tận chân trời” nữa, mà thay vào đó là một đồng cỏ đang ở độ úa tàn khi tiết trời đang chuyển dần từ thu sang đông.

Tả tình: Nỗi buồn rầu, đau khổ của Kiều khi biết mình bị lừa bán vào tay những kẻ buôn người. Nỗi sầu ấy thấm vào cảnh vật khiến chúng cũng trở nên tàn tạ, héo úa.

Hai câu tiếp

Tả cảnh: Những con gió lớn làm cuộn dòng nước tạo thành những con sóng liên tiếp nhau tấp vào bờ khiến Kiều cảm giác như những con sóng dữ dội ấy đang vỗ mạnh vào ghế, nơi nàng đang ngồi nhìn ngắm cảnh vật xung quanh.

Tả tình: Sự lo lắng cho thân phận của mình trước những sóng gió của cuộc đời đang chuẩn bị ập đến với nàng mà không một lời dự báo trước. Nàng thấp thỏm không yên khi nghĩ đến tương lai, những ngày tháng sau này nàng không biết sẽ có điều gì đón đợi mình ở đó. Chỉ mong được bình yên.

Hai câu cuối:

Bài 1 trang 95 SGK Ngữ văn 9 tập 1

Soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích ngắn nhất

Cảnh thiên nhiên trong 6 câu thơ đầu :

– Không gian : mênh mông, hoang vắng, cô đơn, bốn bề bao la bát ngát, cồn cát im lìm, dãy núi nhấp nhô, ánh trăng làm bạn.

– Thời gian : từ sáng sớm đến đêm khuya, sự quay vòng của thời gian.

– Kiều đang bị giam lỏng, cô đơn, mất tự do nơi hữu tình thơ mộng mà hoang vắng.

8 câu thơ tiếp theo

a. Trong cảnh giam lỏng, nàng nhớ tới Kim Trọng, sau đó nhớ về cha mẹ. Như vậy khá hợp lí, bởi với cha mẹ, nàng đã gặp trước lúc cách xa, nàng cũng đã bán thân cứu cha nên vơi bớt nỗi lo. Nhưng với người nàng thương, Kim Trọng, chàng chưa biết tin gì về gia biến nhà nàng và nàng đau đớn, day dứt không giữ được lời thề.

b. Nghệ thuật dùng từ ngữ, hình ảnh : nhiều hình ảnh ước lệ chén đồng, tin sương, tấm son, quạt nồng ấp lạnh, sân lai, gốc tử…, từ ngữ thể hiện được tâm trạng đớn đau, day dứt với Kim Trọng, nỗi xót xa, lo lắng cho cha mẹ.

Bài 3 trang 96 SGK Ngữ văn 9 tập 1

c. Thúy Kiều là một người tình chung thủy, người con hiếu thảo. Nàng có tâm hồn cao đẹp, luôn nghĩ cho người khác dù mình đang cảnh mất tự do, cô đơn.

a. Cảnh vật là hư, đây là tâm trạng chứ không phải cảnh thực. Mỗi cảnh có nét riêng đồng thời lại có nét chung diễn tả tâm trạng của Kiều :

– Cánh buồm nhỏ xa xăm vô định như cuộc đời nàng giữa biển đời vô hướng.

– Cánh hoa bị vùi dập như số kiếp trôi nổi của nàng.

– Nội cỏ rầu rầu một màu đơn điệu như màu sắc cuộc đời nàng tẻ nhạt.

– Gió cuốn, sóng ầm ầm chính là dông bể cuộc đời, một nỗi bàng hoàng lo sợ.

b. Cách dùng điệp ngữ :

Điệp ngữ “Buồn trông” lặp lại bốn lần đặt ở đầu mỗi câu lục. Đôi mắt buồn nhìn và bao trùm lên hết thảy cảnh vật. Kết hợp không gian xa đến gần, thu vào tâm tư người con gái nỗi cô đơn, sầu nhớ, đau đớn và lo sợ.

– Tả cảnh ngụ tình là một bút pháp đặc trưng của văn học trung đại nói chung, của ngòi bút Nguyễn Du nói riêng với cơ chế là tả cảnh thông qua đó để bộc lộ tâm trạng con người, tả cảnh để nói tình chứ không chỉ là bức tranh tả cảnh thuần túy.

– Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong tám câu thơ cuối. Toàn bộ tám câu thơ đều nhằm khắc họa tâm trạng lạc lõng, cô đơn, đầy âu lo của Thúy Kiều về số phận của chính mình.

1. Tác phẩm

I. Kiến thức cơ bản

– Đoạn trích này nằm ở phần thứ hai của truyện ( Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Thúy Kiều đã tự tử nhưng không chết. Sợ mất cả vốn lẫn lời, mụ Tú Bà xảo trá và hứa hẹn đợi Thúy Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng. Mụ đưa Kiều ra an dưỡng ở lầu Ngưng Bích để chuẩn bị đầy nàng rơi vào một âm mưu mới, thực ra là để tìm kế ép nàng ra tiếp khách làng chơi.

2. Giá trị nội dung

– Tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích được diễn đạt trong 22 câu thơ trích này.

3. Giá trị nghệ thuật

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất trong Truyện Kiều, đặc biệt là bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thuỷ chung, hiếu thảo của Thuý Kiều.

Đoạn trích thành công ở nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc với bút pháp tả cảnh ngụ tình được coi là đặc sắc nhất trong Truyện Kiều

[ĐỪNG SAO CHÉP] – Bài viết này chúng tôi chia sẻ với mong muốn giúp các bạn tham khảo, góp phần giúp cho bạn có thể để tự soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích một cách tốt nhất. “Trong cách học, phải lấy tự học làm cố” – Chỉ khi bạn TỰ LÀM mới giúp bạn HIỂU HƠN VỀ BÀI HỌC và LUÔN ĐẠT ĐƯỢC KẾT QUẢ CAO.

Tìm Hiểu Kiến Thức Văn Bản: Kiều Ở Lầu Ngưng Bích (Trích Truyện Kiều

Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)

I. Đọc – hiểu chú thích.

1. Tác giả: Nguyễn Du

a. Vị trí đoạn trích:

– Nằm ở phần thứ hai “Gia biến và lưu lạc”. Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tứ Bà sợ mất vốn, bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ. Mụ vờ chăm sóc, thuốc thang, hứa hẹn khi nàng bình phục,sẽ gả cho người tử tế; rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới. Sau đoạn này là việc Kiều bị Sở Khanh lừa và phải chấp nhận làm gái lầu xanh. Đoạn trích nằm giữa hai biến cố đau xót. Đây là những biến cố giúp ta hiểu những bàng hoàng tê tái và sự lo âu về tương lại của nàng Kiều.

2. Bố cục đoạn trích:

– Sáu câu đầu: Hoàn cảnh cô đơn, cay đắng xót xa của Kiều

– Tám câu tiếp: Nỗi thương nhớ Kim Trọng và cha mẹ của Kiều

– Tám câu cuối: Tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều qua cách nhìn cảnh vật.

3. Nội dung:

Đoạn trích đã miêu tả chân thực cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi, đáng thương, nỗi nhớ người thân da diết và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo vị tha của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích

II. Đọc – hiểu văn bản:

1. Hoàn cảnh cô đơn, buồn tủi của Kiều (6 câu thơ đầu).

* Sáu câu thơ đầu gợi tả cảnh thiên nhiên nơi lầu Ngưng Bích với không gian, thời gian.

– Không gian nghệ thuật được miêu tả dưới con mắt nhìn của Thúy Kiều:

+ Lầu Ngưng Bích là nơi Kiều bị giam lỏng. Hai chữ “khóa xuân” đã nói lên điều đó.

+ Cảnh đẹp nhưng mênh mông, hoang vắng và lạnh lẽo:

Ngước nhìn xa xa, chỉ thấy dãy núi mờ nhạt.

Nhìn lên trời cao chỉ có “tấm trăng gần” → Thời gian chiều tối, gợi buồn.

Xa hơn nữa, nhìn ra “bốn bề bát ngát xa trông” là những cát vàng cồn nọ nối tiếp nhau cùng với bụi hồng trên dặm dài thăm thẳm.

– Nàng đau đớn, tủi nhục cho thân phận của mình.

+ Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn khép kín, quanh đi quẩn lại hết “mây sớm” lại “đèn khuya”. Thời gian cứ thế trôi đi, rồi lặp lại, Kiều thấy tuyệt vọng với tâm trạng cô đơn, buồn tủi, hổ thẹn đến “bẽ bàng”.

+ Bốn chữ “như chia tấm lòng” diễn tả nỗi niềm chua xót, nỗi lòng tan nát của Kiều.

⇒ Bút pháp chấm phá đặc sắc, khung cảnh làm nền cho Kiều thổ lộ tâm tình. Thiên nhiên rộng lớn mà con người nhỏ bé, đơn côi.

2. Nỗi thương nhớ Kim Trọng và cha mẹ của Kiều (8 câu thơ tiếp theo).

* Nỗi nhớ về Kim Trọng:

+ Nàng nhớ đến cảnh mình cùng Kim Trọng uống rượu thề nguyền dưới ánh trăng. Chữ “tưởng” ở đây có thể xem là một nhãn tự. Nguyễn Du không dùng chữ “nhớ” mà dùng chữ “tưởng”.“Tưởng” vừa là nhớ, vừa là hình dung, tưởng tượng ra người mình yêu.

+ Thúy Kiều như tưởng tượng thấy, ở nơi xa kia, người yêu cũng đang hướng về mình, đang ngày đêm đau đáu chờ tin nàng: “Tin sương luống những rày trông mai chờ”.

+ Rồi bất chợt, nàng liên tưởng đến thân phận “bên trời góc biển bơ vơ” của mình. Kiều băn khoăn tự hỏi: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”:

+ Câu thơ muốn nói tới tấm lòng son của Kiều, tấm lòng nhớ thương Kim Trọng sẽ không bao giờ phai mờ, nguôi quên dù cho có gặp nhiều trắc trở trong đường đời.

+ Câu thơ còn gợi ra một cách hiểu nữa: Tấm lòng son trong trắng của Kiều bị những kẻ như Tú Bà, Mã Giám Sinh làm cho dập vùi, hoen ố,biết bao giờ mới gột rửa được?

⇒ Trong bi kịch tình yêu, Thúy Kiều có nỗi đau về nhân phẩm.

–  Kiều nhớ đến Kim Trọng bởi trong cơn gia biến, Kiều đã phải hi sinh mối tình đầu đẹp đẽ để cứu gia đình, Kiều đã phần nào “đền ơn sinh thành” cho cha mẹ. Vì thế trong lòng Kiều, Kim Trọng là người mất mát nhiều nhất, nỗi đau ấy cứ vò xé tâm can Kiều khiến Kiều luôn nghĩ đến Kim Trọng.

* Kiều xót xa nghĩ đến cha mẹ:

– Chữ “xót” diễn tả tấm lòng Kiều dành cho đấng sinh thành:

+ Nàng lo lắng xót xa nghĩ đến hình bóng tội nghiệp của cha mẹ, khi sáng sớm, lúc chiều hôm tựa cửa ngóng tin con, hay mong chờ con đến đỡ đần

+ Nàng lo lắng không biết giờ đây ai là người chăm sóc cha mẹ khi thời tiết đổi thay.

+ Nàng xót xa khi cha mẹ ngày một thêm già yêu mà mình không được ở bên cạnh để phụng dưỡng.

⇒ Tác giả đã sử dụng các thành ngữ “rày trông mai chờ”, “quạt nồng ấp lạnh”, “cách mấy nắng mưa” và các điển tích, điển cố “sân Lai,gốc Tử”để nói lên tâm trạng nhớ thương, lo lắng và tấm lòng hiếu thảo của Kiều dành cho cha mẹ. Ở đây, Nguyễn Du đã miêu tả khách quan tâm trạng của Thúy Kiều vượt qua những định kiến của tư tưởng phong kiến: đặt chữ tình trước chữ hiếu.

3. Tâm trạng đớn đau, tuyệt vọng của Kiều qua cách nhìn cảnh vật (8 câu thơ cuối).

– Điệp ngữ “buồn trông” được lặp lại 4 lần tạo âm hưởng trầm buồn, trở thành điệp khúc diễn tả nỗi buồn đang dâng lên lớp lớp trong lòng Kiều. Cảnh vật thiên nhiên qua con mắt của Kiều gợi nỗi buồn da diết:

+ Cánh buồm thấp thoáng lúc ẩn lúc hiện nơi cửa bể chiều hôm gợi hành trình lưu lạc mờ mịt không biết đâu là bến bờ.

+ Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi thân phận nhỏ bé, mỏng manh, lênh đênh trôi dạt trên dòng đời vô định không biết đi đâu về đâu.

+ Nội cỏ rầu rầu trải rộng nơi chân mây mặt đất gợi cuộc sống úa tàn, bi thương, vô vọng kéo dài không biết đến bao giờ.

+ Hình ảnh “gió cuốn mặt duềnh” và âm thanh ầm ầm của tiếng sóng “kêu quanh ghế ngồi” gợi tâm trạng lo sợ hãi hùng như báo trước,chỉ ngay sau lúc này, dông bão của số phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời Kiều.

⇒ Bằng nghệ thuật ẩn dụ, hệ thống câu hỏi tu từ, các từ láy “thấp thoáng”, “xa xa”, “man mác”,“rầu rầu”,”xanh xanh”,”ầm ầm”… góp phần làm nổi bật nỗi buồn nhiều bề trong tâm trạng Kiều. Tác giả lấy ngoại cảnh để bộc lộ tâm cảnh. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần; màu sắc từ nhạt đến đậm; âm thanh từ tĩnh đến động; nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến cơn bão táp của nội tâm, cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Toàn là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi, bế tắc, sự chao đảo nghiêng đổ dữ dội. Lúc này, Kiều trở nên tuyệt vọng,yếu đuối nhất, vì thế nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời ô nhục.

III. Tổng kết.

1. Nội dung:

Đoạn trích đã miêu tả chân thực cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi, đáng thương, nỗi nhớ người thân da diết và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo vị tha của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích

2. Nghệ thuật:

– Đoạn trích thành công ở nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc với bút pháp tả cảnh ngụ tình được coi là đặc sắc nhất trong Truyện Kiều

– Thể thơ lục bát cổ truyền, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tinh tế kết hợp các biện pháp tu từ quen thuộc, điệp ngữ “buồn trông”…

Ôn Tập Văn Bản “Kiều Ở Lầu Ngưng Bích”

Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.

Bốn bề bát ngát xa trông,

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.

Buồn trông ngọn nước mới ra.

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Đoạn trích nằm ở phần thứ hai Gia biến và lưu lạc. Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục, bị Tú bà mắng nhiếc, Kiều nhất quyết không chịu tiếp khách làng chơi, không chịu chấp nhận cuộc sống lầu xanh. Đau đớn, phẫn uất, tủi nhục nàng định tự vẫn. Tú bà sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ vờ chăm sóc thuốc thang, hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả nàng cho người tử tế. Tú bà đưa Kiều ra sống riêng ở lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng để thực hiện âm mưu mới đê tiện hơn, tàn bạo hơn.

+ Sáu câu đầu : hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều.

+ Tám câu tiếp : nỗi thương nhớ Kim Trọng và thương nhớ cha mẹ của nàng.

+ Tám câu cuối : tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều thể hiện qua cách nhìn cảnh vật.

Giá trị nghệ thuật: nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, bút pháp tả cảnh ngụ tình hay nhất trong “Truyện Kiều”.

– Khoá xuân: khoá kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý ngày xưa không được ra khỏi phòng); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.

– Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thuỷ chung gắn bó.

– Duyềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.

– Kiều ở lầu Ngưng Bích thực chất là bị giam lỏng ( khoá xuân).

– Nàng trơ trợi giữa một không gian mênh mông, hoang vắng: ” bốn bề bát ngát xa trông“. Cảnh “non xa“, “trăng gần” gợi hình ảnh lầu Ngưng Bích đơn độc, chơi vơi giữa mênh mông trời nước. Từ trên lầu cao nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Cái lầu trơ trọi ấy giam một thân phận trơ trọi, không một bóng hình thân thuộc bầu bạn, không cả bóng người.

Hình ảnh “non xa” “trăng gần”, “cát vàng”, “bụi hồng” có thể là cảnh thực mà cũng có thể là hình ảnh mang tính ước lệ để gợi sự mênh mông, rợn ngợp của không gian, qua đó diễn tả tâm trạng cô đơn của Kiều.

– Cụm từ ” mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi cô đơn khiến Kiều càng bẽ bàng, chán ngán, buồn tủi “bẽ bàng mây sớm đèn khuya” sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều ” thui thủi quê người một thân” và dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót đau thương khiến tấm lòng Kiều như bị chia xẻ: ” Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng “. Vì vậy, dù cảnh có đẹp đến mấy, tâm trạng Kiều cũng không thể vui được.

Tâm trạng nhớ thương Kim Trọng và thương nhớ cha mẹ của Kiều qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm:

* Cùng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ khác nhau với những lý do khác nhau nên cách thể hiện cũng khác nhau:

+ Nhớ Kim Trọng: Kiều “tưởng” như thấy lại kỷ niệm thiêng liêng đêm thề nguyện, đính ước ” Tưởng người dưới nguyệt chén đồng“. Cái đêm ấy hình như mới ngày hôm qua. Một lần khác nàng nhớ về Kim Trọng cũng là ” Nhớ lời nguyện ước ba sinh“. Kiều xót xa hình dung người yêu vẫn chưa biết tin nàng bán mình, vẫn ngày đêm mòn mỏi chờ trông chốn Liêu Dương xa xôi. Nàng nhớ người yêu với tâm trạng đau đớn: ” Tấm son gột rửa bao giờ cho phai“. Có lẽ “tấm son” ấy là tấm lòng Kiều son sắt, thuỷ chung, không nguôi nhớ thương Kim Trọng. Cũng có thể là Kiều đang tủi nhục khi tấm lòng son sắt đã bị dập vùi, hoen ố, không biết bao giờ mới gột rửa cho được. Trong nỗi nhớ chàng Kim có cả nỗi đau đớn vò xé tâm can.

+ Nhớ cha mẹ: nàng thấy “xót” khi tưởng tượng, ở chốn quê nhà, cha mẹ nàng vẫn tựa cửa ngóng chờ tin tức người con gái yêu. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thể ” quạt nồng ấp lạnh“, phụng dưỡng song thân, băn khoăn không biết hai em có chăm sóc cha mẹ chu đáo hay không. Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay, gốc tử đã vừa người ôm, cha mẹ ngày thêm già yếu. Cụm từ ” cách mấy nắng mưa” vừa cho thấy sự xa cách bao mùa mưa nắng, vừa gợi được sự tàn phá của thời gian, của thiên nhiên lên con người và cảnh vật. Lần nào nhớ về cha mẹ, Kiều cũng ” nhớ ơn chín chữ cao sâu ” và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy của cha mẹ.

: Bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du trong 8 câu cuối “Kiều ở lầu Ngưng Bích”: Nghệ thuật tử cảnh ngụ tình:

– Đây là 8 câu thơ thực cảnh mà cũng là tâm cảnh. Mỗi biểu hiện của cảnh đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng của người – mỗi một cảnh lại khơi gợi ở Kiều những nỗi buồn khác nhau, với những lý do buồn khác nhau trong khi nỗi buồn đã đầy ắp tâm trạng để rồi tình buồn lại tác động vào cảnh, khiến cảnh mỗi lúc lại buồn hơn, nỗi buồn mỗi lúc một ghê gớm, mãnh liệt hơn.

– Cách sử dụng ngôn ngữ độc thoại, điệp ngữ. Bốn bức tranh, bốn nỗi buồn đều được tác giả khắc hoạ qua điệp từ “buồn trông” đứng đầu mỗi câu có nghĩa là buồn mà trông ra bốn phía, trông ngáng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại, nhưng trông mà vô vọng. “Buồn trông” có cái thảng thốt lo âu, có cái xa lạ bút tầm nhìn, có cả dự cảm hãi hùng của người con gái ngây thơ lần đầu lại bước giữa cuộc đời ngang ngược. Điệp ngữ “buồn trông” kết hợp với các hình ảnh đứng sau đã diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc độ khác nhau. Điệp ngữ lại được kết hợp với các từ láy chủ yếu là những từ láy tượng hình, dồn dập, chỉ có một từ láy tượng thanh ở câu cuối tạo nên nhịp điệu, diễn tả nỗi buồn ngày một tăng, dâng lên lớp lớp, nỗi buồn vô vọng, vô tận. Điệp ngữ tạo âm hưởng trầm buồn, trở thành điệp khúc của đoạn thơ cũng là điệp khúc của tâm trạng.

Một cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển

Những cánh hoa tàn lụi trôi man mác trên ngọn nước mới xa

, còn đâu cái “xanh tận chân trời” như sác cỏ trong tiết Thanh minh khi Kiều còn trong cảnh đầm ấm. Màu xanh này gợi cho Kiều một rầu rầu”, “xanh xanh” – sắc xanh héo úa, mù mịt, nhạt nhoà trải dài từ chân mây đến mặt đất nỗi chán ngán, vô vọng vì cuộc sống cô quạnh và những chuỗi ngày vô vị, tẻ nhạt không biết kéo dài đến bao giờ.

Dường như nỗi buồn càng lúc càng tăng, càng dồn dập. Một cơn “gió cuốn mặt duềnh” làm cho tiếng sóng bỗng nổi lên ầm ầm như vây quanh ghế Kiều ngồi. Cái âm thanh “ầm ầm tiếng sóng” ấy chính là âm thanh dữ dội của cuộc đời phong ba bão táp đã, đang ập đổ xuống đời nàng và còn tiếp tục đè nặng lên kiếp người nhỏ bé ấy trong xã hội phong kiến cổ hủ, bất công. Tất cả là đợt sóng đang gầm thét, rì rào trong lòng nàng. Lúc này Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như rơi dần vào vực thẳm một cách bất lực. Nỗi buồn ấy đã dâng đến tột đỉnh, khiến Kiều thực sự tuyệt vọng. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng cũng rất ảo. Đó là cảnh được nhìn qua tâm trạng theo quy luật ” Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ“.

– Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động để diễn đạt nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến bão táp nội tâm cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Tờt cả là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi bế tắc, sự chao đảo, nghiêng đổ dữ dội. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất. Cũng vì thế mà nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời ” thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần“.

Cảnh thiên nhiên là cái cớ để tác giả bộc lộ cảm xúc của mình.

(Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” – Truyện Kiều).

B. Luyện tập viết đoạn:

a. Hãy chép bảy câu thơ tiếp theo để hoàn thành khổ thơ trên.

b. Đoạn thơ vừa chép diễn tả tâm trạng của ai với ai ?

c. Trật tự diễn tả tâm trạng đó có hợp lý không? Tại sao?

d. Viết một đoạn văn ngắn khoảng 10 câu, theo cách diễn dịch phân tích tâm trạng của nhân vật tr ữ tình trong đoạn thơ trên.

a. Chép chính xác 7 câu thơ tiếp theo để hoàn thành khổ thơ.

b. Đoạn thơ diễn tả tâm trạng nhớ thương Kim Trọng và cha mẹ của Kiều trong những ngày sống cô đơn ở lầu Ngưng Bích.

c. Trật tự diễn tả tâm trạng của Kiều: Nhớ Kim Trọng trước cha mẹ đặt trong cảnh ngộ Kiều lúc đó là rất hợp lý vì:

Vầng trăng ở câu thứ 2 trong đoạn trích gợi nhớ tới lời thề đính ước với Kim Trọng.

Đau đớn xót xa vì mối tình đầu đẹp đẽ tan rã.

Cảm thấy mình có lỗi khi không giữ được lời hẹn ước với chàng Kim.

Với cha mẹ, Kiều đã phần nào làm trong chữ hiếu: bán mình để cứu cha và em → cách diễn tả này thể hiện sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du và người đọc thấy được sự cảm thông của tác giả đối với nhân vật

d.Nội dung viết đoạn (Xem ở dàn ý phân tích).

Nhận xét về đoạn trích Bài tập 2 : Kiều ở lầu Nhưng Bích, có ý kiến cho rằng: Ngòi bút của Nguyễn Du hết sức tinh tế, cảnh không chỉ đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. Mỗi biểu hiện của cảnh phù hợp với từng trạng thái của tình.

Hãy viết 1 đoạn văn từ 10-12 câu, phân tích 8 câu thơ cuối của đoạn trích để làm sáng tỏ nhận xét trên.

Chỉ ra một phép liên kết nối, một phép thế sử dụng trong đoạn trên.

Cảnh không chỉ đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng, đó chính là bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du được thể hiện ở 8 câu thơ cuối của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích. Cảnh cửa bể chiều hôm gợi ra khoảng thời gian đã cuối ngày rồi, khi đó cũng là lúc các gia đình quây quần bên nhau, nhưng đối lập với đó, lại một mình cô đơn giữa không gian rừng núi, biển cả bao la. Lúc này, Kiều buồn tủi biết mấy, nàng muốn theo những cánh buồn xa xa kia đi xa mãi, xa mãi trở về với quê hương, gia đình yêu dấu của mình mà không thể nào được, điều ước vẫn chỉ là điều ước mà thôi. lại nhìn cánh hoa mỏng manh trôi man mác, cứ nổi lên lại ngụp xuống giữa ngọn nước mới sa để rồi chợt lo lắng cho số phận của mình liệu có như cánh hoa nhỏ bé kia biết trôi dạt về đâu giữa bao sóng gió cuộc đời giữa cái chốn lầu xanh dơ bẩn này. chính cuộc sống hiện tại khi biết mình bị lừa làm gái lầu xanh, rồi còn bị Tú Bà giảm ở lầu Ngưng Bích, chờ đợi được gả một tấm chồng theo lời hứa của Tú Bà đã làm Kiều rất chán ghét. Cái màu xanh bàng bạc, gần như sắp lụi tàn héo úa của nội cỏ rầu rầu đã thể hiện rất rõ tâm trạng này, dù hiện tại đã buồn chán nhưng nhìn về tương lai của đám cỏ ấy cũng như tương lai của Kiều càng tuyệt vọng, u ám hơn thế, nó chỉ là một màu xanh xanh héo úa, ảm đạm bởi giờ đây nàng sống không có mục đích, không có cả con đường tới tương lai thì mới vô vọng làm sao! nàng chợt hốt hoảng giật mình bởi tiếng sóng ầm ầm, đánh rất mạnh, càng làm chông chênh thêm vị trí của mình đang ngồi. Tới đây nỗi lo lắng, sợ hãi của Kiều đã lên tới tột cùng bởi tiếng sóng ấy có khác nào tiếng sóng dữ dội, ập tới cuộc đời Kiều và báo trước tương lai đầy biến đọng của nàng, mà như sau này ta đã biết là thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần đầy những sóng gió, gian nan vất vả. , qua bút pháp tả cảnh ngụ tình ta hiểu được tâm trạng cô đơn, buồn tụi và thấy thương xót cho thân phận của Kiều và cảm nhận được tình yêu thương con người sâu sắc của đại thi hào của Nguyễn Du.

Phép nối: và, rồi, tóm lại

Phếp thế: Kiều – nàng (bài làm học sinh )