Văn Bản Vợ Nhặt Sgk 12 / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 4/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Giáo Án Ngữ Văn Lớp 12: Vợ Nhặt

Kim Lân A,Yªu cầu cÇn ®¹t: Giúp hs: 1.Cảm nhận được giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực của tác phẩm, hiểu được những nét đặc sắc trong miêu tả nhân vật của tác giả. 2.Trau dồi thêm kĩ năng phân tích nhân vật, phân tích tác phẩm 3.Yªu mÕn vµ t×m ®äc v¨n xu«i kh¸ng chiÕn. Khơi dậy, phát huy tình yêu thương quê hương đất nước trong mỗi HS B/ Ph­¬ng tiÖn d¹y häc: – SGK, SGV, tµi liÖu bµi so¹n,V¨n xu«i kh¸ng chiÕn 1945-1975 C/ C¸ch thøc tiÕn hµnh: – H­íng dÉn HS chuÈn bÞ bµi theo hÖ thèng c©u hái SGK – Tæ chøc giê d¹y: ph¸t vÊn tr¶ lêi; th¶o luËn trao ®æi; gi¶ng b×nh. D/ TiÕn tr×nh giê d¹y: I.Ổn định lớp: II.Kiểm tra bài cũ: *Diễn tiến tâm lí nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chång A Phủ”? *§¸p ¸n: 1.ë l©u trong cái khổ Mị cũng quen đi.Mị tưởng mình là con trâu con ngựa, Mị cúi mặt không nghĩ ngợi , chỉ nhớ những việc không giống nhau, mỗi ngày Mị không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, Mị ở trong buồng kín mítthì thôi. 2.Đêm tình mùa xuân và sự thức tỉnh của Mị Trong Mị đầy những mâu thuẫn chân thực. Mị được đặt trong sự tương tranh giữa một bên là sự sống, một bên là cảm thức về thân phận. Tình càng xáo động thì lòng càm đớn đau cùng thực tại. Sức ám ảnh của quá khứ lớn hơn nên Mị đắm chìm vào ảo giác. +Sau khi giúp đỡ được A Phủ, giải quyết được tình thương người thì Mị lo sợ cho tai họa của mình, thương mình. Sự lo lắng ấy giúp Mị có sức mạnh để cùng thoát chạy theo A Phủ, thay đổi số phận mình. III.Bài mới: Ho¹t ®éng cña GV-HS Néi dung cÇn ®¹t Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm? Nó được xây dựng trên cái nền LS nào? Tiêu đề của tác phẩm gợi cho người đọc điều gì? Ngoại hình, điệu bộ, cử chỉ của Tràng? Anh ta là người như thế nào? Nhận xét về nghệ thuật miêu tả của tác giả Hoàn cảnh nhặt được vợ của Tràng? GV giảng thêm về những việc làm thường thấy trong tình thế quá khó khăn của con ngừơi. Hoàn cảnh chung của đất nước ta lúc đó? Khi Tràng đưa vợ về làng, mọi người đã có thái độ ntn? Tình cảm của Tràng? Và rồi sau đó? Nhận xét chung về việc Tràng nhặt được vợ? Bà cụ Tứ được tác giả miêu tả khái quát ntn? Từng bước diễn biến tâm lí của bà khi thấy Tràng có vợ? GV: Giảng thêm về tâm lí của những người lớn tuổi, về nỗi lo và tấm lòng thường thấy của các bà mẹ VN? Cảm xúc trong lòng bà cụ Tứ? Tính phức tạp của tình cảm ấy thể hiện điều gì? Bà cụ tứ có t/c với con dâu ntn? Nhận xét về tâm lí bà cụ Tứ? Tâm lí bà cụ Tứ được t/g m/tả qua những thủ pháp thuật nào? Sau khi có g/đ Tràng có những thay đổi ntn? Lúc trước Vợ Tràng là người ntn? Bây giờ có gì thay đổi? Bà cụ có gì thay đổi? Học sinh tự tổng kết bài học. I.Giới thiệu 1.Tác giả: SGK 2.Tác phẩm: a.Hoàn cảnh sáng tác: Được viết ngay sau khi CMT8 thành công và là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Kim Lân. Truyện ngắn được xây dựng trên cái nền của nạn đói 1945 khi Phát xít nhật bắt nông dân nhổ lúa trồng đay phục vụ chiến tranh khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. II.Phân tích. 1.Tràng nhặt được vợ đưa về làng. a.Nhân vật Tràng. -Tên: đồ dùng người thợ mộc -Hình dáng: “hai con mắt.về phía trước”: đầy mật vẻ nông dân, lam lũ nhưng chất phát. -Diệu bộ cử chỉ: “Vừa đi nóicười hềnh hệch” : xấu và bình dị đến thô kệch. -Gia cảnh: nghèo khó trong hoàn cảnh chung của đời sống người nông dân trước CM. Thêm nữa, người như Tràng rõ ràng sẽ rất khó có được vợ; ít ai muốn ấy, không đủ khả năng lo cho gia đình. b.Hoàn cảnh nhặt được vợ: -Hoàn cảnh cụ thể: kéo xe bò ra Tỉnh, hò chơi mấy câu, có người ra đẩy giúp. -Hoàn cảnh chung’ c.Tràng đưa vợ về làng. Thái độ của người dân xung quanh. “Mấy khuôn hẳn lên..cuộc sống”: Mừng rỡ, ngạc nhiên vừa vui vừa lo cho Tràng. -Tình huống đưa vợ về làng của Tràng cũng rất lạ, nó đem lại một không khí khác hẳn cho xóm ngụ cư nghèo. -Tư tưởng của Tràng *Tràng nhặt được vợ là một câu chuyện, một tình huống độc đáo: éo le, buồn mà cũng vui. Qua đó, nhà văn đã nêu lên một sự thật bi thảm về c/s của người nông dân VN trước CM và về tính cách tấm lòng nhân ái, niềm khao khát Hp chính đáng của họ. 2.Tình thương con của bà cụ Tứ. -Cụ Tứ là một người nông dân điển hình. Vẻ ngoài, tính cách, tâm lí của bà cụ được tác giả đặc biệt chú ý -Diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ. +Khi nghe vợ Tràng chào, bà vẫn chưa tin, chưa hết ngạc nhiên “Băngiường” +Khi Tràng giới thiệu vợ mình thì tâm trạng cụ Tứ được thể hiện “bà lãonày không” -Nghĩ đến con dâu “Bà lão khẽhết được”. Bà thương con dâu, nhìn chị đầy thông cảm, nghĩ lại thấy mừng cho con mình đã lấy được vợ và hi vọng cho con mình qua được gia đoạn đói khát này. -An ủi con “Nhà ta về sau” động viên, hi vọng vào tương lai. Đây là tâm lí chung của cha mẹ. Bà cụ Tứ tiêu biểu cho những người mẹ VN hết lòng thương con. KL thấu hiểu tâm lí con người và có một vốn sống phong phú, diễn tả tài tình những cảm xúc của bà mẹ. 3.Những người đói nghĩ đến sự sống. a.Tràng sau một đêm có gia đình. -Tâm trạng: “Trong người lơ lửng, thay đổi lại”: Thương yêu gia đình lạ lùng, con người như được hồi sinh, anh hướng về sự sống và nghĩ đến việc tạo lập HP vượt lên trên cái đói, cái chết đang vây bủa. b.Vợ Tràng. -Trước: chua chát, đanh đá; hiện tại: hiền hậu, đúng mực, chăm chỉ. c.Bà cụ Tứ: “Nhẹ nhõmngày thường” tin tưởng, hi vọng vào tương lai. Bữa cơm của gia đình: ấm áp và chan chứa tình cảm dù nghèo khó cơ cực, cái đói vẫn còn đó, sự khó khăn vẫn vây kín nhưng con người đã luôn hướng tới một ngày mai tươi sáng hơn. Có gì như chua chát trong nồi “chè khoán” nhưng cũng thật hiện thực, KL không hề khỏa lấp đi đời sống còn rất cơ hàn của người nông dân xưa, thông qua đó tố cáo tội ác của bè lũ xâm lược. Hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới cuối truyện đã tạo một diện mạo hết sức mới mẻ và đầy tính lạc quan cho tác phẩm. CM đã về, cuộc sống sẽ sang trang. Đây là yếu tố tích cực hơn hẳn của KL so với các nhà văn hiện thực trước CM. III.Tổng kết. Tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, xây dựng cốt truyện đạt đến trình độ mẫu mực. IV.Củng cố: -Diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ. -Hoàn cảnh của nước ta lúc bấy giờ. V.Dặn dò: Học bài cũ: §äc, tãm t¾t TP, ph©n tÝch ý nghÜa cña t×nh huèng truyÖn. Soạn bài mới: Chọn và trình bày dẫn chứng trong văn nghị luận. E.rót kinh nghiÖm

Sơ Đồ Tư Duy Vợ Nhặt

Để giúp các bạn học sinh 12 học tốt hơn môn Ngữ văn, VnDoc xin giới thiệu tới các bạn tài liệu Sơ đồ tư duy Vợ Nhặt, qua bộ sơ đồ tư duy Ngữ văn 12 bài Vợ Nhặt các bạn học sinh sẽ có kết quả cao hơn trong học tập. Mời các bạn học sinh cùng thầy cô tham khảo.

Học tốt Ngữ văn 12: Sơ đồ tư duy Vợ Nhặt

Truyện lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Tràng – một thanh niên nghèo, lại là dân ngụ cư, trong một lần đẩy hàng đã tình cờ có được vợ. Cô vợ nhặt đã tình nguyện theo Tràng chỉ sau một câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Tràng đưa “thị” về giữa cảnh đói khát đang tràn đến xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ thấy con có vợ thì vừa mừng vừa tủi cho thân phận nghèo khó của mình và thương con, thương nàng dâu đói khổ. Họ sống với nhau trong cảnh đói nghèo nhưng hạnh phúc và tin rằng: Việt Minh về làng, họ sẽ đi phá kho thóc Nhật, lấy lại thóc gạo để cứu sống mình.

1. Sơ đồ tư duy Vợ Nhặt

2. Sơ đồ tư duy nhân vật Tràng

*Tràng là người dân lao động nghèo, “nhặt” được vợ trong thời buổi đói khát:

– Bản thân anh là dân ngụ cư, dân ăn nhờ, ở đậu.

– Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà xiêu vẹo trên bãi đất hoang mọc lổn nhổn những búi cỏ dại.

– Hoàn cảnh xuất thân : khó lấy được vợ.

– Tuy nhiên, giữa cái khung cảnh tối sầm lại vì đói khát, Tràng bỗng nhiên “nhặt” được vợ.Cuộc gặp gỡ giữa Tràng và người đàn bà không tên diễn ra thât chóng vánh chỉ qua hai lần gặp mà chỉ gặp ở đường và chợ để rồi “nên vợ, nên chồng”:

+ Lần gặp thứ nhất: Trên đường kéo xe thóc lên tỉnh, Tràng hò chơi cho đỡ mệt “Muốn….”. Không ngờ, thị ra đẩy xe cho anh và còn liếc mắt cười tít nữa. Tràng thích lắm vì từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ mới có một người con gái cười với hắn tình tứ đến như thế.

+ Lần gặp thứ 2, ở quán nước ngoài chợ. Ban đầu, Tràng không nhận ra vì thị khác quá, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi nhận ra rồi, trong lời đáp “ăn gì thì ăn, chả ăn giầu” Tràng sẵn sàng đãi thị bốn bát bánh đúc. Trong bối cảnh mà người ta lo thân không xong, ai cũng đứng trên miệng vực thẳm của cái chết hành động mà Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc chứng tỏ rằng Tràng là một người khá tốt bụng và cởi mở. Chính sự tốt bụng và cởi mở của Tràng đã đem đến cho Tràng hạnh phúc, Tràng nói đùa với thị “Này … rồi cùng về”, nhưng thị đã theo Tràng về thật. Khi quyết định “đèo bòng” Tràng cảm thấy “chợn” nhưng “chậc kệ”.

3. Sơ đồ tư duy nhân vật vợ Tràng

– Cũng giống như Tràng, khung cảnh Kim Lân để cho nhân vật này xuất hiện là một không gian tối sầm vì đói khát. Cũng giống như bao người khác, thị ngồi vêu cùng với mấy chị em gái nơi cửa nhà kho. Chị không có tên, không tuổi tác, không cha mẹ, không gia đình… môt con số không tròn trĩnh đang bao trùm lên lá số tử vi của chị. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả.

– Khi chưa theo Tràng về làm vợ cái đói đã để lại “dấu tích” ghê gớm trên dáng hình và tính cách của chị:

+ Lần gặp thứ nhất: có vẻ táo tợn, ăn nói mạnh mẽ “Có khối cơm trắng mấy giò mà ăn đấy! “Này nhà tôi ơi! Nói thật hay nói khoác đấy”.

+ Lần gặp thứ 2: chân dung của thị khiến Tràng không nhận ra, gầy (dẫn chứng)…Thị cong cớn trong lời nói, vô duyên trong hành động “sà xuống đánh… cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc… ăn xong cầm đôi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà ngon! Về chị thấy hụt tiền thì bỏ bố”. Tuy nhiên, ẩn đằng những lời nói và hành động ấy là khát vọng về hạnh phúc và sự sống.

– Kim Lân không có ý chê bai người vợ nhặt kia, dù thực tế cũng có những người phụ nữ không đẹp. Điều mà nhà văn muốn nhấn mạnh ở đây là: sức hủy hoại khủng khiếp của cái đói đối với hình hài và tính cách của con người. Vì đói mà thị cố tạo ra cái vẻ cong cớn, chao chát, chỏng lỏn như là để thách thức với số phận. Vì đói mà thị quên đi cả sĩ diện của mình, quên đi cả lòng tự trọng theo không một người đàn ông về làm vợ trong khi chẳng biết tí gì về anh ta. Vì đói mà thị đánh liều nhắm mắt đưa chân, đánh liều với hạnh phúc cả đời mình. Thị thật đáng thương. Nhưng đằng sau sự liều lĩnh ấy của thị, người đọc hiểu rằng, thị là người có ý thức bám lấy sự sống mãnh liệt.

– Miêu tả nhân vật thị, Kim Lân không chú trọng nhiều đến diễn biến tâm trạng bên trong mà Kim Lân chú ý nhiều đến hành động:

+ Thị bước sau Tràng chừng 3-4 bước, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che đi nửa mặt, mặt cúi xuống, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Thị đã ý thức được về bản thân, cái dáng cúi mặt kia phải chăng đó là sự tủi phận.

+ Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp nhận bước vào cuộc đời của Tràng.+ Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng thương.

-Tuy nhiên, ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm gia đình thực sự. Thị đã trở thành một con người hoàn toàn khác khi là một người vợ trong gia đình. Hạnh phúc đã làm cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn, đanh đá bỗng trở thành một người đàn bà hiền hậu đúng mực, mái ấm gia đình đã đủ sức mạnh làm thay đổi một con người.

– Hình tượng chị vợ nhặt thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo của Kim Lân.

+ Một mặt nhà văn đã lên án tội ác dã man của phát xít Nhật và TDP. Nạn đói do chúng gây ra đã cướp đi mọi giá trị của con người, và biến người con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể nhặt được.

+ Mặt khác vợ Tràng đã nói lên một sự thật ở đời đó là trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết nhưng con người vẫn khát khao được sống, vẫn sống ngay khi cả cuộc đời không thể chịu được nữa. Những con người nghèo khổ vẫn thương yêu đùm bọc, và cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt.

4. Sơ đồ tư duy nhân vật bà cụ Tứ

– Nhà văn Kim Lân tâm sự: ” Phần gây xúc động lớn nhất cho tôi khi đọc lại truyện ngắn Vợ nhặt đó là đoạn bà cụ Tứ – mẹ Tràng trở về”. Thông điệp nghệ thuật về bản chất nhân đạo trong tâm hồn người Việt ở hình tượng nhân vật bà cụ Tứ đã được Kim Lân thể hiện thành công qua diễn biến tâm trạng của người mẹ nghèo ấy khi nhìn thấy chị vợ nhặt xuất hiện trong nhà mình cho đến buổi sáng ngày hôm sau.

– Bao giờ Tràng mong ngóng mẹ về đến thế đâu, nhất định là phải chuyện gì quan trọng, khác thường. Chân bước theo con nhưng lòng bà đang phấp phỏng. Rồi “đứng sững lại” khi bà nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu giường con trai bà , mà lại chào bà bằng u. Ngạc nhiên đã làm cho bà lão không còn tin vào cảm giác của bà nữa, tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn đi thì phải. Nhưng thực sự mắt bà không nhoèn, và tai bà cũng không đến mức điếc lác như chị vợ nhặt nghĩ ban đầu. Bà chưa thể tin, không thể tin rằng con mình lại có người theo và lại chưa bao giờ hình dung nhận dâu trong một tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp đến thế.

– Bà lão cúi đầu nín lặng, đằng sau cái cúi đầu nín lặng ấy là dòng cảm xúc tuôn trào, là cơn bão lòng đang cuộn xoáy với tình thương con vô bờ bến. Bây giờ thì bà không chỉ biết sự việc “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ” như lời Tràng thưa gửi mà bà còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của con trai mình. Bà tủi thân, tủi phận, bà so sánh người ta với mình “người ta dựng vợ gả chồng cho con những lúc nhà ăn lên làm nổi, còn mình thì…”. Bà lão chua chát, tự trách bản thân mình, càng thương con bao nhiêu bà lại càng tủi phận bấy nhiêu. Bà lão đã khóc, những giọt nước mắt hiếm hoi của người già dưới ngòi bút nhạy cảm của Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc biết bao thương xót, tủi buồn.

– Bà đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình người, là sự cảm thông với chị vợ nhặt từ cái nhìn của người cùng giới, cùng là phụ nữ. Câu nói đầu tiên mà bà cụ Tứ dành cho chị vợ nhặt “Ừ thôi các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”, lời nói của bà như trút đi biết bao gánh nặng tâm trạng đang đè nặng trong Tràng, lời nói ấy như một sự chiêu tuyết cho giá trị của cô vợ nhặt. Câu nói ấy của bà làm cuộc hôn nhân của Tràng và thị không còn là chuyện nhặt nhau ở đường và chợ nữa mà là duyên phận. Cách nói giản dị mà chan chứa tình người quả thực đã làm ấm lòng những số phận tội nghiệp. Thị và Tràng dường như cũng sẽ ấm lòng hơn khi kinh nghiệm của một người mẹ từng trải nói “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà động viên an ủi con trai và con dâu cùng nhau bước qua khó khăn đói khổ trước mắt mà lòng đầy thương xót.

– Nhưng sau những lời động viên ấy ta lại thấy Kim Lân để nhân vật bà cụ Tứ quay về với chính cuộc đời mình để mà lo lắng cho hạnh phúc thực tại của hai con. Điều mà bà lo không phải là “sự hợp nhau hay không hợp nhau” giữa hai người mà điều mà người mẹ ấy lo lắng đó là, cái đói đang đe dọa hạnh phúc của con bà. Trong bóng tối, bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của đời mình, cuộc đời của những người thân để mà thấu hiểu, thương xót rồi “nghẹn lời” chỉ có dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng.

– Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, bà động viên an ủi các con, nghĩ về một tương lai tươi sáng phía trước:

+ Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm xắn quét dọn, giẫy những búi cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hy vọng đời sẽ có cơ khấm khá.

+ Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói sao thảm hại: chỉ có một lùm rau chuối thái rối, một đãi muối, một niêu cháo lõng bõng toàn nước và món chính là chè khoán – cháo cám nhưng không khí gia đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ con- những nguồn động lực lớn lao ấy giúp họ tăng thêm sức mạnh để vượt qua thực tại.

+ Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Bà lão bàn với con tính chuyện nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho mà xem. Câu chuyện của bà lão bất giác làm cho ta nhớ lại bài ca dao miền Trung- mười cái trứng. Cũng giống như tất cả những người bình dân xưa, bà lão đang gieo vào lòng các con bà niềm lạc quan, niềm tin và hi vọng. Từ đàn gà mà có tất cả. Khát vọng sống bật lên ngay cả trong hoàn cảnh khốn cùng nhất “chớ than phận khó ai ơi- Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”.

– Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và tiếng trống thúc thuế dồn dập vội vã đưa bà cụ Tứ trở về với thực tại với tiếng nói xen lẫn cả hơi thở dài trong lo lắng: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống được qua được đâu các con ạ”! Và bà lại khóc, tình thương con lại hiện hình qua những giọt nước mắt lặng lẽ tuôn rơi.

Với sự thấu hiểu, với sự đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ- người mẹ thương con, nhân hậu, bao dung. Trong hoàn cảnh đói nghèo, bà vẫn dang rộng cánh tay đón nhận người con dâu mặc dù trong lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn gieo vào lòng các con ngọn lửa sống trong hoàn cảnh tối tăm của xã hội lúc bấy giờ.

5. Sơ đồ tư duy Vợ nhặt mẫu 2

Nhà văn Kim Lân đã lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945 để phản ánh tình cảnh xã hội, cuộc sống con người trong hoàn cảnh lúc bấy giờ qua truyện ngắn Vợ nhặt, tham khảo sơ đồ tóm tắt nạn đói năm 1945 để thấy được tình cảnh khốn cùng của con người và hiểu hơn về nội dung tác phẩm.

Bà cụ Tứ là một nhân vật tiêu biểu, đại diện cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với những phẩm chất vô cùng đáng quý, đó là tình thương yêu con người trong hoàn cảnh đầy éo le, khốn khó của nạn đói khủng khiếp năm 1945; là một người mẹ hiền hậu, vô cùng yêu thương con cái và là người gieo niềm tin cho những đứa con lúc khốn cùng nhất.

Kim Lân đã khắc họa thành công nhân vật Tràng – một anh nông dân nghèo, ngoại hình xấu xí, lại là dân ngụ cư nên không lấy nổi vợ, chỉ đến khi nạn đói năm 1945 xảy ra, anh ta mới “nhặt được vợ”. Vậy nhưng, khi càng tìm hiểu sâu hơn về tác phẩm, ta càng thấy ngời lên trong nhân vật này là những phẩm chất tốt đẹp: Một người giàu tình yêu thương, sống có trách nhiệm và cũng có những ước mơ bình dị hướng về một tương lai tốt đẹp.

Có lẽ chỉ khi đọc tác phẩm của Kim Lân, ta mới cảm nhận được hết nỗi khốn khổ, số phận bất hạnh đến cùng cực của con người trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Cảnh đói rách đã khiến con người trở nên vô cùng thảm hại nhưng cũng từ hoàn cảnh này, ta mới khám phá ở họ những giá trị sống đích thực. Cùng tìm hiểu những điều này qua sơ đồ phân tích nhân vật thị (người vợ nhặt).

Luyện Tập Bài Mẹ Tôi Trang 12 Sgk Văn 7

1. Hãy chọn một đoạn trong thư của bố En-ri-cô có nội dung thể hiện vai trò vô cùng lớn lao của người mẹ đối với con và học thuộc đoạn đó.

Vai trò vô cùng lớn lao của người mẹ đối với người con được thể hiện trong đoạn thư sau của bố En-ri-cô:

“Khi đã khôn lớn trưởng thành, khi các cuộc đấu tranh đã tôi luyện con thành người dũng cảm, có thể có lúc con sẽ mong ước thiết tha được nghe lời nói của mẹ, được mẹ dang tay ra đón vào lòng. Dù có lớn khôn, khỏe mạnh thế nào đi chăng nữa, con sẽ vẫn tự thấy mình chỉ là một đứa trẻ tội nghiệp, yểu đuối và không được che chở. Con sẽ cay đắng khi nhớ lại những lúc đã làm mẹ đau lòhg… Con sẽ không thể sống thanh thản, nếu đã làm cho mẹ buồn phiền. Dù có hối hận, có cầu xin linh hồn mẹ tha thứ, tất cả cũng chỉ vô ích mà thôi. Lương tâm con sẽ không một phút nào yên tĩnh. Hình ảnh dịu dàng và hiền hậu của mẹ sẽ làm tâm hồn con như bị khổ hình. En-ri-cô này! Con hãy nhớ rằng, tình yêu thương, kính trọng cha mẹ là tình cảm thiêng liêng hơn cả. Thật đáng xấu hổ và nhục nhã cho kẻ nào chà đạp lên tình thương đó.

2. Hãy kể lại một sự việc lỡ gây khiến bố mẹ buồn phiền.

Trước hết nhớ lại tất cả những lần mình vi phạm như: đi chơi không xin phép bố mẹ, đi học về muôn để mẹ chờ đợi lo lắng, đánh nhau với em, lười học bài, kì thị bị điểm thấp… Sau đó chọn một lỗi lầm nào đáng nhớ nhất rồi viết theo trình tự:

– Hoàn cảnh mắc lỗi.

– Kể lại sự việc diễn ra.

– Sự ăn năn hối lỗi của bạn thân.

– Hành động sữa chữa lỗi lầm.

Và đây cũng là điều mà em sẽ tâm sự với En-ri-cô khi gặp bạn phải không?

dayhoctot.com

Phần Đọc Hiểu Văn Bản (Sgk Trang 7)

Câu hỏi

1.Bài thơ được tác giả ngắt thành 5 đoạn, hãy cho biết nội dung của mỗi đoạn.

2.Trong bài thơ có hai cảnh được miêu tả đầy ấn tượng: cảnh vườn bách thú, nơi con hổ bị nhốt (đoạn 1 và đoạn 4); cảnh núi rừng hùng vĩ, nơi con hổ ngự trị những ngày xưa (đoạn 2 và đoạn 3)

a/ Hãy phân tích từng cảnh tượng

b/ Nhận xét việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu các câu thơ trong đoạn 2 và 3 . Phân tích để làm rõ cái hay trong đoạn thơ này.

c/ Qua sự đối lập sâu sắc giữa hai cảnh tượng nêu trên, tâm sự của con hổ ở vương bách thú được biểu hiện như thế nào?Tâm sự ấy có gì gần gũi với tâm sự người dân Việt Nam đương thời?

3. Căn cứ vào nội dung bài thơ, hãy giải thích vì sao tác giả mượn lời con hổ ở vương bách thú . Việc mượn lời đó có tác dụng thế nào trong việc thể hiện nội dung cảm xúc của nhà thơ?

4*. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận xét về thơ Thế Lữ: “Đọc đôi bài, nhất là bài Nhớ rừng, ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh pi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được.” (Thi nhân Việt Nam Sđd ) Em hiểu như thế nào về ý kiến đó? Qua bài thơ, hãy chứng minh.

Hướng dẫn giải

Câu hỏi 1. Bài thơ được tác giả ngắt thành 5 đoạn, hãy cho biết nội dung mỗi đoạn. Bài thơ được tác giá chia thành 5 đoạn : – Đoạn 1 (từ đấu đến “Với cặp báo chuổng bốn vô tư lự”) : Lòng uất hận, căm hờn, ngao ngán vì bị giam cấm. – Đoạn 2 (từ “Ta sông mãi trong tình thương nỗi nhớ” đến “Giữa chôn thảo hoa không tên, không tuổi”): Nỗi nhớ núi rừng. – Đoạn 3 (từ “Nào đâu những đêm vùng bên bờ suối” đến Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu ?”): Nỗi nhớ vể một thời oanh liệt, tự do. – Đoạn 4 (từ “Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu” đến “Của chốn ngàn năm cao cả, âm u”): Sự căm ghét khu vườn nhỏ hẹp, giả dối. – Đoạn 5 (còn lại): Giấc mơ và niềm khao khát được trở lại vùng vẫy chốn rừng xưa. Câu hỏi 2. Trong bài thơ có hai cảnh được miêu tả đầy ấn tượng : cảnh vườn bách thú nơi con hổ bị nhốt (đoạn 1 và đoạn 4) ; cảnh núi rừng hùng vĩ, nơi con hổ ngự trị những “ngày xưa” (đoạn 2 và đoạn 3). a) Hãy phân tích từng cảnh tượng. b) Nhận xét việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu các câu thơ trong đoạn 2 và đoạn 3. Phân tích để làm rỏ cái hay của hai đoạn thơ này. c) Qua sự đối lập sâu sác giữa hai cánh tượng nêu trên, tâm sự con hổ ở vườn bách thú được biểu hiện như thế nào ? Tâm sự ấy có gì gần gũi với tâm sự người dân Việt Nam đương thời ? a) Trong bài thơ có hai cảnh tượng tương phản : cảnh vườn bách thú, nơi con hổ bị giam cầm (đoạn 1 và đoạn 4) và cánh núi non hùng vĩ, nơi con hổ từng sống (đoạn 2 và đoạn 3). Đó là sự tương phản giữa cảnh thực tại và cảnh trong dĩ vãng, mộng tưởng. – Cảnh vườn bách thú, nơi con hổ bị giam cầm (đoạn 1 và đoạn 4). Đoạn 1 chủ yếu miêu tả tâm trạng ngao ngán, câm tức của con hổ khi sa cơ, lâm vào cảnh ngộ tù hãm trong vườn bách thú. Con hổ nhục nhã, chán ngán khi phải “làm trò lạ mắt”, làm “thứ đồ chơi” của đám người nhỏ bé, ngạo mạn; bị coi ngang hàng với bọn “dở hơi”, “vô tư lự”. Con hổ không có cách nào đê thoát khỏi sự tù túng, tầm thường, chán ngắt, đành phải bất lực, buông xuôi, mặc cho sô phận, “nằm dài, trông ngày tháng dần qua”. Đoạn 4 miêu tả cảnh vườn bách thú qua cái nhìn của chúa sơn lâm. Đó là một nơi đơn điệu, buồn chán, “không đòi nào thay đổi”. Cảnh ở đây đã được sửa sang dưới bàn tay của con người. Nó được bắt chước cảnh rừng núi “cao cả”, “âm u”, “bí hiểm” một cách “tầm thường”, “thấp kém” và “giả dối”: Hoa chăm, cỏ xén, lôi phẳng, cây trồng; Dải nước đen giả suôi, chẳng thông dòng; Len dưới nách những mô gồ thấp kém; Dăm vừng lá hiền lành, không hí hiểm… – Cảnh con hổ trong chốn giang sơn hùng vĩ của mình (đoạn 2 và đoạn 3). Đoạn 2 miêu tả cảnh thiên nhiên núi rừng đại ngàn, hoang dã, cái gì cũng lớn lao và phi thường : “bóng cả, cây già”, “tiếng gió gào ngàn”, “nguồn hét núi”, “lá gai, cỏ sắc”, “thảo hoa”. Trên cái nền hoang sơ, hùng vĩ ấy, hình ảnh con hổ – vị chúa tể của muôn loài hiện lên với vẻ đẹp oai phong, lẫm liệt : một thuở “tung hoành, hống hách”, “bước chùn lên, dõng dạc, đường hoàng”, “tấm thân như sóng cuộn”, đôi “mắt thần” sáng “quắc”… Đoạn 3 là hình ảnh núi rừng hùng vĩ, tráng lệ với con hổ uy nghi làm chúa tể. Đó là cảnh thơ mộng, lãng mạn “những đêm vàng bên bờ suối”, con hổ “say mồi đứng uống ánh trăng tan”. Đó là cảnh của những ngày khó khăn “mưa chuyển bốn phương ngàn”, con hổ vẫn mang dáng vẻ của một bậc đế vương “Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới”. Đó là cảnh của những ngày vui, trong sáng “bình minh cây xanh nắng gội”, rộn rã “tiếng chim ca”, con hổ trong giấc ngủ bình yên. Đó là những cảnh dữ dội “chiểu lênh láng máu sau rừng”, con hổ đợi mặt trời “chết” để chiếm lấy “phần bí mật” trong vũ trụ. Núi rừng, nơi con hổ sống có vẻ đẹp hoang sơ, vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng. Ở đây, con hổ hiện lên với một tư thế lẫm liệt, kiêu hùng. b) Đoạn 2 và đoạn 3 là những đoạn hay nhất trong bài thơ. Từ ngữ, hình ảnh và giọng điệu thơ trong hai đoạn này là những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác giả. Cảnh dĩ vãng huy hoàng hiện lên trong nổi nhớ da diết đến đớn đau của con hổ. Nỗi nhớ tiếc khôn nguôi về cái thuở “ngày xưa” ấy được diễn tả bằng các từ ngữ được lặp di lập lại nhiều lần : nhớ, nào đâu, đâu những; bằng tiếng than u uất với một thán từ và câu hỏi đầy nuối tiếc “Than ôi ! Thời oanh liệt nay còn đâu ?”. Hình ảnh núi rừng đại ngàn hoang vu, hùng vĩ hiện ra qua các hình ảnh chọn lọc : bóng cả, củy già, gió gào ngàn, nguồn hét núi, bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc, đêm vàng bờ suối, cây xanh nắng gội, ngày mưa chuyên bốn phương ngàn… Hình ảnh “những đêm vàng bên bờ suối” và con hổ “say mồi đứng uống ánh trăng tan” là một hình ảnh vừa hoang dại, vừa diễm lệ, huyền ảo, đầy chất thơ. Hình ảnh “những chiểu lênh láng máu sau rừng’ và con hổ “đợi chết mảnh mặt trời gay gắt” là hình ảnh vừa man rợ vừa kiêu hùng. Trên cái nền cao cả và âm u ấy là hình ảnh con hổ oai phong, lẫm liệt. Hình ảnh ấy được diễn tà bằng những từ ngữ mạnh, sắc : tung hoành, hống hách, dõng dạc, dường hoàng, cuộn, quắc… Trong hai đoạn thơ này, tác giả sử dụng nhiễu từ Hán Việt, sắc thái nghĩa trang trọng của lớp từ Hán Việt đã tạo nên hiệu quả nghệ thuật đáng kể : khắc họa đậm nét hơn sự cao cá, lớn lao, phi thường của núi rừng và con hổ. Nhạc điệu bài thơ phong phú, giàu sức biểu cảm, âm điệu dồi dào, cách ngắt nhịp linh hoạt. Giọng thơ khi u uất, bực dọc, dằn vặt, khi say sưa, tha thiết, hùng tráng. c) Sống trong canh giam cẩm chật chội, ngột ngạt, con hổ nhớ tiếc thời sống hiẽn ngang, oanh liệt, làm chúa tê muôn loài ở chốn rừng xanh. Con hổ đau buồn, phẫn uất, căm giận vì bị giam hãm trong cũi sắt, xung quanh toàn là những sự giả tạo, chán ngát. Tâm trạng của con hổ cũng là tâm trạng của nhà thơ. Nhà thơ bất hòa sâu sắc với thực tại cuộc sống, một xã hội tù túng, ngột ngạt, xấu xa và niềm khát khao mãnh liệt muốn được sống tự do; nhưng vì bát lực, chỉ biết tìm cách thoát li thực tại ấy bằng những mộng tưởng, đắm chìm vào đời sống nội tâm. Đây cũng chính là tâm trạng chung của người dân Việt Nam sống trong cảnh nô lệ, nhớ tiếc một “thời oanh liệt” với những chiến công chống giặc ngoại xâm hiển hách của dân tộc. Câu hỏi 3. Căn cứ vào nội dung bài thơ, hãy giải thích vì sao tác giả mượn “lời con hổ ở vườn bách thú”. Việc mượn lời đó có tác dụng thế nào trong việc thê hiện nội dung cảm xúc của nhà thơ ? Tác giá mượn lời con hổ bị nhốt trong vườn bách thú để gián tiếp nói lên tám sự của một lớp thanh niên trí thức yêu nước, khao khát tự do, bất hòa sâu sắc với xã hội thực tại, một xà hội thực dân, tay sai tù túng, giả dối, ngột ngạt lúc bấy giờ. Đấy cũng là tâm sự của người dân Việt Nam nói chung trong cảnh nước mất, nhà tan. Những điều tâm sự ấy không được nói thẳng mà phải nói quanh co, bóng bẩy, kín đáo để tránh sự kiểm soát gắt gao của chính quyền thực dân và tay sai. Tinh cảnh và tâm sự của con hổ có những nét tương đồng với tình cảnh và tâm sự của người dân mất nước, mất tự do. Mượn lời con hổ sẽ rất thuận lợi cho việc thê hiện nội dung và cảm xúc của nhà thơ. Câu hỏi 4. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh có nhận xét về thơ Thế Lữ : “Đọc đôi bài, nhất là bài Nhớ rừng, ta tường chừng thấy những chữ bị xô đẩy. bị dàn vật bỡi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điêu khiển dội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cường được” (Thi nhân Việt Nanì, Sđd). Em hiểu như thế nào về ý kiến đó ? Qua bài thơ, hày chứng minh. Trong nhận xét của Hoài Thanh có hai ý: thơ Thế Lữ cảm xúc mãnh liệt, tuôn trào (“tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường”) và việc sử dụng ngôn ngữ của ông đê biểu hiện nội dung một cách linh hoạt, chính xác, hiệu quả (“Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thổ cưỡng được”). Cảm xúc trào sôi, bút pháp làng mạn, từ ngừ, hình ảnh, ủm điệu bài thơ Nhớ rừng thế hiện rất rõ điều đã nói ở trên.

Các câu hỏi cùng bài học