Vi Phạm Luật An Toàn Giao Thông Là Gì / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Bac.edu.vn

An Toàn Giao Thông Là Gì?

An toàn giao thông là gì?

An toàn giao thông hiểu một cách nôm na là đảm bảo cho những người khi tham gia giao thông đường bộ không bị thương hoặc tử vong do tai nạn giao thông gây ra

Việt Nam là một nước có số lượng xe gắn máy vô cùng lớn khoảng 40 triệu chiếc, số lượng xe tham gia giao thông hằng ngày tại các thành vô là rất đông chính vì thế mà việc đảm bảo an toàn khi tham gia giao thông luôn phải được đặt lên hằng đầu.

Nguyên nhân gây mất an toàn giao thông

Việc đảm bảo an toàn giao thông luôn được đặt lên hàng đầu, tuy nhiên do sự thiếu ý thức khi tham gia giao thông của một số thành phần đã làm ảnh hưởng đến rất nhiều người, gây mất an toàn giao thông cho cả xã hội. Nguyên nhân gây mất an toàn giao thông thường được phân làm hai loại:

Nguyên nhân chủ quan: xuất phát từ sự thiếu ý thức của người dân khi tham gia giao thông thể hiện qua các hành vi: điều khiển phương tiện khi đã uống rượu, phóng nhanh, vượt ẩu, vượt đèn đỏ, không đội mủ bảo hiểm, lấn làn…

Nguyên nhân khách quan: do các sự cố của phương tiện hoặc các tác động bên ngoài làm ảnh hưởng đến người điều khiển giao thông.

Hiện tại thì nguyên nhân chủ quan đang chiếm tỉ lệ lên đến hơn 95%.

Đảm bảo an toàn giao thông mang đến những lợi ích gì?

Phải khẳng định một điều rằng đảm bảo an toàn giao thông luôn là ưu tiên hàng  đầu, rất nhiều điều luật được đưa ra cùng với hệ thống tuyên truyền nhưng mục đích cuối cùng là hướng đến an toàn giao thông, cố gắng giảm tỉ lệ tại nạn giao thông đến mức thấp nhất. Khi mà an toàn giao thông được đam bảo thì nó mang đến rất nhiều lợi ích như:

– Đảm bảo tính mạng con người, như thống kê tại nước ta hằng năm thì số lượng người chết vì tai nạn giao thông tính đến tháng 6 năm 2019 lên đến 3810 người một con số thật sự quá lớn và đi kèm với đó rất nhiều nỗi mất mát tan thương cho gia đình nhạn nhân. Bên cạnh đó con số người bị thương tật do tai nạn là 6358 người cũng rất lớn, chính vì thế mà nếu an toàn giao thông được đảm bảo tốt thì số người tử vong và bị thương sẽ được kéo giảm một cách tuyệt đối đúng như câu khẩu hiệu “An toàn giao thông là hạnh phục của mỗi gia đình và cả xã hội”

– Giảm thiệt hại về kinh tế, bên cạnh thiệt hại về mặt con người thì thiệt hại về mặt kinh tế do tai nạn giao thông gây ra là vô cùng lớn bao gồm tiền chạy chữa cho người bị nạn, tiền sữa chữa xe cộ, ùn tắt giao thông…hậu quả kinh tế do nó gây ra là vô cùng lớn

An toàn giao thông là trách nhiệm của ai?

Có thể khẳng định một điểu rằng an toàn giao thông là nhiệm vụ chung của tất cả mọi người tham gia giao thông trên đường nó không là nhiệm của riêng của một cá nhân hay một tổ chức nào. Mọi người khi tham gia giao thông đều có trách nhiệm và nghĩa vụ là đảm bảo an toàn giao thông nhằm đảm bảo an toàn không chỉ cho bản thân mình mà còn cho những người đang cùng tham gia giao thông, vì thế mà mọi người cần phải tự mình nâng cao ý thức của bản thân để bảo vệ chính bản thân mình trước nhất.

Bên cạnh đó các cơ quan chức năng cần có các biện pháp nhằm nâng cao ý thức cũng như xử lý các hành vi cố tình vi phạm giao thông nhằm răng đe mọi người để mọi người cùng nhắc nhau thực hiện một cách tốt nhất.

Cách tuyên truyền an toàn giao thông hiệu quả

Ngoài các biện pháp đã được sử dụng từ lâu như căn băng rôn, truyền thanh, các bài phóng sự trên truyền hình về tình hình giao thông…thì hiện nay cảnh sát giao thông còn tiến hành các buổi dạy, trao đổi giải đáp thắc mắc cho người dân về kiến thức pháp luật cũng như những chia sẻ về an toàn giao thông khi lưu thông trên đường, đây là một phương pháp đặt biệt hiệu quả dành cho cánh tài xế và được rất nhiều người quan tâm. Bên cạnh đó là các bản tin, bài báo các hình ảnh về tai nạn giao thông cũng góp phần cảnh tỉnh những người có ý thức giao thông kém đang đem sinh mạng của mình đùa giỡn với tử thần.

Mối quan hệ giữa văn hóa giao thông và an toàn giao thông

Có thể nói giữa văn hóa giao thông và an toàn giao thông tồn tại một mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau, nếu như văn hóa giao thông của mọi người được nâng cao thì khi ấy an toàn giao thông cũng sẽ được đảm bảo, kéo theo đó là tỉ lệ tai nạn giao thông giảm mang đến hạnh phục cho mọi người và xã hội. Ngược lại khi an toàn giao thông được thực hiện tốt, mọi người nghiệm chỉnh chấp hành luật an toàn đường bộ thì những người khác sẽ nhìn vào đó mà làm gương từ đây thì văn hóa giao thông cũng trở nên tốt hơn do mọi người đã thấy được lợi ích mà an toàn giao thông mang lại cho họ.

Đảm bảo an toàn giao thông là mục tiêu chung của toàn xã hội để tai nạn giao thông không còn là nỗi đau của mỗi gia đình nữa, muốn thế mọi người cần tự giác chấp hành nghiệm chỉnh luật giao thông và nhắc nhở người khác cùng thực hiện, có thế thì tại nạn giao thông mới bị kéo giảm, mang lại hạnh phục cho mọi gia đình và toàn xã hội.

Đề Tài: Tội Vi Phạm An Toàn Giao Thông Đường Bộ Theo Luật, Hot

, ZALO 0932091562 at BÁO GIÁ DV VIẾT BÀI TẠI: chúng tôi

Published on

Luận văn thạc sĩ ngành luật: Các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ngãi), cho các bạn tham khảo

1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THÚY NA CÁC TỘI VI PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2015

2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THÚY NA CÁC TỘI VI PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: chúng tôi Trịnh Quốc Toản HÀ NỘI – 2015

3. 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Thúy Na

4. 4 MỤC LỤC MỤC LỤC………………………………………………………………………………………………….. 4 DANH SÁCH TỪ VIẾT TẮT……………………………………………………………………… 6 MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………………………. 6 Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI VI PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM……………… 7 1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật hình sự Việt Nam……………………………………………………………………………….. 7 1.2. Sự cần thiết quy định các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ trong Luật hình sự Việt Nam…………………………………………………………………………………….. 13 1.3. Khái quát lịch sử Luật hình sự Việt Nam quy định về các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ ………………………………………………………………………………… 18 Chƣơng 2. QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI VI PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI …………………………………………………….. 24 2.1. Quy định về các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ trong BLHS năm 1999 ………………………………………………………………………………………………………. 24 2.2. Thực tiễn xét xử các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2011 đến 2015……………………………………………………… 46 2.3. Những tồn tại, hạn chế và thiếu sót trong xét xử các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi và những nguyên nhân của tồn tại, thiếu sót đó……………………………………………………………………………………………… 52 Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI VI PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM NÀY …………………………………………………………………………………………………………………. 68 3.1. Sự cần thiết hoàn thiện quy định về các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ trong BLHS năm 1999 và nâng cao chất lượng xét xử các tội phạm này ……. 68

5. 5 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện quy định về các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ trong BLHS năm 1999 ………………………………………………………………. 72 3.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng xét xử các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ……………………………………………………………………………………….. 78 KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………………. 82 TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………………………. 84

6. 6 DANH SÁCH TỪ VIẾT TẮT Bộ luật Hình sự BLHS Trách nhiệm hình sự TNHS Hình sự sơ thẩm HSST Hình sự phúc thẩm HSPT Thông tư liên tịch TTLT Bộ Công an BCA Bộ Tư pháp BTP Viện Kiểm sát nhân dân tối cao VKSNDTC Tòa án nhân dân tối cao TANDTC Biển kiểm soát BKS

8. 2 chức phối hợp liên ngành, giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo, phối hợp các Bộ, ngành và các địa phương thực hiện chương trình quốc gia về an toàn giao thông và các giải pháp liên ngành nhằm bảo đảm trật tự an toàn giao thông trong phạm vi cả nước. iii) Về lĩnh vực pháp luật hình sự và thực tiễn xét xử, các cơ quan xét xử đã lượng hình nghiêm khắc hơn; các Toà án tổ chức hội thảo khoa học về các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông; các Bộ đã ban hành thông tư liên ngành như Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT/BCA-BQP-BTP- VKSNDTC-TANDTC, ngày 28/8/2013 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIX của BLHS về các tội xâm phạm trật tự, an toàn giao thông. Ở địa phương, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đều quyết tâm đẩy lùi và ngăn chặn tình trạng tai nạn giao thông đường bộ. Quảng Ngãi là một trong những địa phương, mà sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành như Công an, Giao thông, Toà án, đặc biệt là chính sách hình sự được triển khai thực hiện khá quyết liệt , thế nhưng kết quả đạt được vẫn chưa cao , thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử đối với người có hành vi phạm tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ ở Quảng Ngãi vẫn còn không ít sai sót, dẫn đến hiệu quả điều chỉnh của pháp luật chưa cao. Với nhận thức rằng, việc nghiên cứu các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật hình sự Việt Nam một cách có hệ thống về lý luận và qua thực tiễn xét xử các tội này tại Quảng Ngãi để phân tích một cách sâu sắc những bất cập trong lĩnh vực lập pháp hình sự và áp dụng pháp luật hình sự thông qua thực tiễn xét xử tại Quảng Ngãi từ đó đề ra những giải pháp, kiến nghị về hoàn thiện về mặt lập pháp mang ý nghĩa quan trọng về lý luận và về thực tiễn sẽ góp phần đấu tranh, phòng chống tội phạm về an toàn giao thông đường bộ và nâng cao chất lượng xét xử các tội này tại Quảng Ngãi. Bởi vậy, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ngãi)” làm luận văn cao học luật của mình.

9. 3 2. Tình hình nghiên cứu Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về các nội dung của Bộ luật hình sự (BLHS) nói chung và các tội vi phạm các quy định về trật tự, an toàn giao thông đường bộ nói riêng. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như sau: Thứ nhất, về các công trình là luận án, luận văn luật học, bao gồm: Bùi Kiến Quốc (2001), Các biệ n pháp đấu tranh phòng , chống tộ i vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ ở Thủ đô Hà Nộ i, Luậ n án tiến sĩ luậ t ho ̣c; Nguyễn Đắc Dũng (2011), Tộ i vi phạm các quy đi ̣nh về điều khiển phương tiệ n giao thông đườ ng bộ trong luậ t h ình sự Việ t Nam (trên cơ sở thực tiễn xét xử tại đi ̣a bàn tỉnh Bắc Ninh ), Luậ n vă n tha ̣c sĩ luậ t học; Bùi Quang Trung (2010), Các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học; Trần Văn Thảo (2013), Các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học; Thứ hai, các giáo trình, sách chuyên khảo, tạp chí bao gồm: Đinh Vă n Quế (2005), Bình luậ n khoa học chuyên sâu Bộ luậ t hình sự – Phần các tộ i phạm, Tậ p VI – Các tộ i xâm phạm an toàn công cộ ng , trậ t tự công cộ ng , Nxb Thành phố Hồ Chí Minh ; GS. TSKH. Lê Cảm chủ biên (2001), Giáo trình Luậ t hình sự Việ t Nam (Phần các tộ i phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nộ i , (tái bản nă m 2007); GS. TS. Võ Khánh Vinh chủ biên (2001), Giáo trình Luậ t hình sự Việ t Nam (Phần các tộ i phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nộ i; GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên (2010), Giáo trình Luậ t hình sự Việ t Nam (Tậ p II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nộ i; TS. Đỗ Đức Hồng Hà, TS. Trịnh Tiến Việt và tập thể các tác giả (2010), Tìm hiểu BLHS nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và những văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Lao động; TS. Phạm Văn Beo (2010), Luật hình sự Việt Nam –

13. 7 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI VI PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tội vi phạm an toàn giao thông đƣờng bộ theo Luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm các tội vi phạm an toàn giao thông đƣờng bộ Khái niệm tội phạm được Bộ luật Hình sự 1999 quy định: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [36, Điều 8]. Theo quy định của Bộ luật Hình sự 1999, thì khái niệm của các loại tội phạm cụ thể được quy định trong các điều luật phần các tội phạm cụ thể, bằng mô tả các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội phạm. Tuy nhiên, dù được khái niệm chung về tội phạm hay khái niệm về các loại tội phạm cụ thể, thì dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất cấu thành tội phạm là tính nguy hiểm cho xã hội và tính lỗi. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, Bộ luật hình sự 1999 quy định phân loại tội phạm tại khoản 2, khoản 3 Điều 8:

14. 8 “2. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. 3. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình” [36, Điều 8]. Hiện nay, nhà nước tập trung các nguồn lực phát triển giao thông đường bộ, ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ ở vùng kinh tế trọng điểm, các thành phố, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số; có chính sách huy động các nguồn lực để quản lý, bảo trì đường bộ. Bởi giao thông đường bộ luôn giữ một vị trí và vai trò vô cùng quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế – xã hội của bất kỳ một quốc gia nào. Trong những năm qua, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã nỗ lực cố gắng và đưa ra nhiều giải pháp để kiềm chế sự gia tăng, tiến tới giảm dần tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông, nhưng tai nạn giao thông vẫn xảy ra nghiêm trọng, trong đó đứng đầu là tai nạn giao thông đường bộ. Mà một trong những nguyên nhân gây ra thực trạng trên là hành vi vi phạm an toàn giao thông đường bộ trong những năm qua có xu hướng gia tăng. Để đảm bảo

15. 9 trật tự, an toàn giao thông đường bộ, thì các quy định hình sự về các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ sẽ là biện pháp để răn đe, trừng trị với các chủ thể có hành vi vi phạm an toàn giao thông đường bộ và góp phần đảm bảo trật tự an toàn giao thông ở nước ta hiện nay. Chúng ta có thể đưa ra một khái niệm chung về các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ như sau: Các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến trật tự an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của công dân, tổ chức hoặc nhà nước. 1.1.2. Đặc điểm các tội vi phạm an toàn giao thông đƣờng bộ Những đặc điểm, dấu hiệu của các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ là cơ sở xem xét, xác định hành vi phạm tội của chủ thể. Các dấu hiệu này bao gồm: là hành vi nguy hiểm cho xã hội; được BLHS quy định; do chủ thể có năng lực TNHS thực hiện; tính lỗi; xâm hại đến trật tự an toàn giao thông đường bộ; tính phải chịu hình phạt tương ứng. Đặc điểm thứ nhất: Là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội Hành vi của tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ trước hết phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội, tức là phải thể hiện bằng hành vi xác định của con người. Hành vi đó xâm hại đến các quan hệ xã hội được BLHS bảo vệ. Hành vi nguy hiểm cho xã hội có thể gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác hoặc của nhà nước và được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Hành vi phạm tội thể hiện bằng hành động hoặc không hành động xâm phạm đến an toàn giao thông đường bộ theo quy định của BLHS 1999 có thể bao gồm các hành sau:

16. 10 – Hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác; gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn; không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông (Điều 202); – Hành vi vi phạm do cản trở giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác; các hành vi có thể là: Đào, khoan, xẻ trái phép các công trình giao thông đường bộ; Đặt trái phép chướng ngại vật gây cản trở giao thông đường bộ; Tháo dỡ, di chuyển trái phép, làm sai lệch, che khuất hoặc phá huỷ biển báo hiệu, các thiết bị an toàn giao thông đường bộ; Mở đường giao cắt trái phép qua đường bộ, đường có giải phân cách; Lấn chiếm, chiếm dụng vỉa hè, lòng đường; Lấn chiếm hành lang bảo vệ đường bộ (Điều 203). – Hành vi đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn. Người chịu trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật mà cho phép đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường bộ rõ ràng không đảm bảo an toàn kỹ thuật gây thiệt hại cho tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác (Điều 204); – Hành vi điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ. Người điều động hoặc giao cho người không có giấy phép hoặc bằng lái xe hoặc không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc

17. 11 gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác (Điều 205). – Hành vi tổ chức đua xe trái phép và hành vi đua xe trái phép (Điều 206 và Điều 207). Đặc điểm thứ hai: Hành vi vi phạm phải được BLHS quy định Theo quy định của Điều 2 BLHS 1999 quy định về cơ sở của TNHS: “Chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu TNHS”. Các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ được quy định từ Điều 202 đến Điều 207 của BLHS 1999. Nếu hành vi của chủ thể không cấu thành các tội được quy định trong BLHS thì không bị coi là tội phạm và không phải chịu hình phạt trong BLHS. Đặc điểm thứ ba: Do chủ thể có năng lực TNHS và đạt đủ độ tuổi theo quy định của BLHS thực hiện Người có năng lực TNHS phải đạt độ tuổi theo quy định của BLHS và có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình; + Về độ tuổi: Theo quy định của BLHS 1999 về tuổi chịu TNHS: 1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [36, Điều 12]. + Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của chủ thể: BLHS 1999 dùng phương pháp loại trừ khi quy định các trường hợp không có năng lực TNHS: Điều 13 BLHS 1999 quy định “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu TNHS”. Đặc điểm thứ tư: Hành vi phạm tội phải có lỗi của chủ thể

18. 12 Lỗi là trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể đối với hành vi phạm tội của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra. Lỗi của chủ thể thực hiện tội phạm xâm hại đến trật tự, an toàn giao thông đường bộ thể hiện: Lỗi cố ý và lỗi vô ý. Các lỗi được thể hiện bằng hành vi của chủ thể như sau: “Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra” (Khoản 1, Điều 9 BLHS 1999). “Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra” (Khoản 2, Điều 9 BLHS 1999). “Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được” (Khoản 1, Điều 10 BLHS 1999). “Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó” (Khoản 2, Điều 10 BLHS 1999). Đặc điểm thứ năm: Xâm hại đến trật tự an toàn giao thông đường bộ Các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, xâm hại đến trật tự an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của công dân, tổ chức hoặc nhà nước. BLHS 1999 quy định các tội xâm phạm đến trật tự, an toàn giao thông đường bộ từ Điều 202 đến 207. Cụ thể: Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (Điều 202); Tội cản trở giao thông đường bộ (Điều 203); Tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn (Điều 204); Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ (Điều 205); Tội tổ chức đua xe trái phép (Điều 206); Tội đua xe trái phép (Điều 207).

21. 15 Tình hình vi phạm trật tự, an toàn giao thông còn diễn ra phức tạp; tai nạn giao thông vẫn ở mức cao và nghiêm trọng, nhất là số người chết, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gia tăng, gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản. Tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông đường bộ vẫn đang là vấn đề bức xúc của toàn xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững về kinh tế, văn hóa, xã hội và hình ảnh của đất nước Việt Nam với bạn bè quốc tế. Tình hình trên do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do ý thức tự giác chấp hành kỷ luật về trật tự, an toàn giao thông của người tham gia giao thông còn yếu kém. Kết cấu hạ tầng giao thông còn nhiều hạn chế, bất cập…. [1]. Trước tình hình trật tự an toàn giao thông vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp, ý thức tự giác chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông chưa cao; trong khi phương tiện tham gia giao thông ngày một tăng, nguy cơ xảy ra tai nạn, va chạm, ùn tắc giao thông còn nhiều. Để góp phần đảm bảo trật tự an toàn giao thông, thông suốt, an toàn, thời gian qua, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Quốc Hội, Chính phủ, các Bộ, ngành đã ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị, Thông tư và Quyết định cùng nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhằm thiết lập lại trật tự kỷ cương và từng bước ổn định tình hình trật tự an toàn giao thông trên phạm vi cả nước. Trong những năm gần đây, an toàn giao thông đang là vấn đề được cả xã hội quan tâm. Chúng ta đang nỗ lực xây dựng văn hóa giao thông trong cộng đồng để nâng cao ý thức tham gia giao thông của mọi tầng lớp nhân dân. Xây dựng Văn hoá giao thông nhằm tạo nên thói quen cư xử có văn hoá, đúng pháp luật. Người tham gia giao thông coi việc tự giác tuân thủ pháp luật về đảm bảo trật tự an toàn giao thông như một chuẩn mực đạo đức truyền thống và là biểu hiện văn minh hiện đại.

22. 16 Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, giáo dục về an toàn giao thông là một trong những biện pháp cấp bách nhằm đảm bảo trật tự, an toàn giao thông tiến đến một xã hội trật tự và an toàn. Thực tế cho thấy, những vấn đề gặp phải trong trật tự an toàn giao thông do lỗi chủ quan, ý thức kém của người tham gia giao thông, không chấp hành quy định pháp luật, chở người quá số lượng, quá tải, phóng nhanh, vượt ẩu, coi thường tính mạng của mọi người và của chính mình…. Vì thế, mục tiêu thay đổi thái độ và hành vi không phù hợp khi tham gia giao thông là rất quan trọng. Để cải thiện tình hình trật tự an toàn giao thông đường bộ, các yêu cầu đặt ra đối với những người tham gia giao thông phải: Thứ nhất, hiểu biết đầy đủ và tự giác chấp hành đúng các quy định của pháp luật về đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ. Thứ hai, những người tham gia giao thông đường bộ phải có trách nhiệm với bản thân và cộng đồng, tôn trọng, nhường nhịn và giúp đỡ người khác. Thứ ba, những người tham gia giao thông đường bộ phải có thái độ ứng xử văn minh lịch sự khi xảy ra va chạm giao thông và tinh thần thượng tôn pháp luật. Ngoài ra, những người tham gia giao thông phải có hành vi thể hiện văn hóa giao thông như đi đúng làn đường, đúng phần đường; tuân thủ quy định về tốc độ, dừng đỗ xe đúng nơi quy định, đội mũ bảo hiểm khi đi mô tô, xe máy, không vi phạm về nồng độ cồn khi Điều khiển phương tiện tham gia giao thông; chấp hành quy định xử phạt khi vi phạm hành chính về giao thông. Ứng xử có văn hóa giao thông còn thể hiện qua học thức, hiểu biết về văn hóa, xã hội của mỗi cá nhân. Ứng xử có văn hóa giao thông phải bắt đầu từ những việc nhỏ, từ những hành vi văn hóa đến xây dựng con người văn hóa, tạo nên thói quen cư xử như một chuẩn mực đạo đức truyền thống, biểu hiện văn minh, hiện đại của con người khi tham gia giao thông.

23. 17 Đảm bảo trật tự, an toàn giao thông là nhiệm vụ và trách nhiệm mà mỗi người đều phải thực hiện khi tham gia giao thông, góp phần ngăn chặn các hành vi vi phạm các quy định về trật tự an toàn giao thông, mang lại hạnh phúc cho chính mình, gia đình và cho cộng đồng xã hội. Để hoạt động giao thông được thông suốt đáp ứng kịp thời các nhu cầu về kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh, đồng thời bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản cho chính những người tham gia giao thông và những người xung quanh, khi tham gia hoạt động giao thông, những người tham gia giao thông phải tuyệt đối tuân thủ các quy định của pháp luật về giao thông đường bộ, không thực hiện các hành vi gây ảnh hưởng tới sự an toàn trong hoạt động giao thông. Các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ là hành vi nguy hiểm cho xã hội trực tiếp xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ và gây thiệt hại tính mạng, sức khoẻ, tài sản của công dân, tổ chức hoặc nhà nước được quy định tại BLHS. Luật giao thông đường bộ năm 2008 quy định các hành vi bị nghiêm cấm khi tham gia giao thông đường bộ bao gồm 23 hành vi xâm hại đến trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Không phải bất kỳ hành vi xâm hại đến trật tự an toàn giao thông đường bộ đều là tội phạm. Khái niệm tội phạm được hiểu như sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm….trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác … [36, Điều 8] BLHS năm 1999 quy định từ Điều 202 đến Điều 207 về các hành vi phạm tội về an toàn giao thông đường bộ. Theo đó, các tội vi phạm an toàn

24. 18 giao thông đường bộ được hiểu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến trật tự an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của công dân, tổ chức hoặc nhà nước. Người thực hiện hành vi phạm tội an toàn giao thông đường bộ có thể bị phạt tù có thời hạn, hưởng án treo, bồi thường thiệt hại hoặc bị tịch thu phương tiện vi phạm. 1.3. Khái quát lịch sử Luật hình sự Việt Nam quy định về các tội vi phạm an toàn giao thông đƣờng bộ 1.3.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trƣớc khi pháp điển hóa lần thứ nhất – Bộ luật hình sự năm 1985 Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức ra đời sau khi cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công. Nhà nước ta để bảo vệ thành quả cách mạnh, ngay sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân, đã ban hành nhiều các văn bản pháp luật hình sự quy định các tội chống chính quyền dân chủ nhân dân như: tội âm mưu lật đổ chính quyền, tội gián điệp, tội bạo loạn, tội hoạt động phỉ… trong Sắc lệnh số 21 ngày 14/2/1946. Tuy nhiên, các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ chưa được quy định trong các văn bản pháp luật hình sự trong thời kỳ này. Ngày 03/10/1955, Bộ Giao thông Bưu điện ban hành Nghị định số 348/NĐ ban hành Luật đi đường bộ. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước ta về an toàn giao thông vận tải, tạo cơ sở pháp lý cho sự hình thành các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ. Luật đi đường bộ 1955 quy định: Điều 1: – Mục đích- Bản luật đi đường bộ này áp dụng cho người, súc vật, xe cộ đi trên các đường công cộng và nhằm: a) Đảm bảo an toàn cho nhân dân đi lại và vận chuyển trên các đường giao

26. 20 điện; Nghị định Liên bộ Giao thông Bưu điện – Công an số 09/NĐLB ngày 07/3/1956 ban hành thể lệ tạm thời về vận tải đường bộ; Nghị định số 10 ngày 11/01/1968 của Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ về kỷ luật an toàn giao thông vận tải trong thời chiến. Các văn bản được ban hành nói trên đã tạo cơ sở pháp lý cho sự hình thành và phát triển các quy phạm pháp luật hình sự quy định các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ. Đến năm 1976, Chính phủ ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định tại Điều 9 của Sắc luật này có quy định “tội xâm phạm đến trật tự công cộng, an toàn công cộng và sức khoẻ của nhân dân”. 1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trƣớc khi pháp điển hóa lần thứ hai – Bộ luật hình sự năm 1999 Năm 1985, BLHS đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/1986. Theo nội dung của BLHS năm 1985 quy định về nhóm tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ, BLHS đã quy định cụ thể các tội sau: – Tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải (Điều 186). 1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông vận tải mà vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe người khác hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm: a) Đi quá tốc độ, chở quá trọng tải, tránh, vượt trái phép; b) Không đi đúng tuyến đường, phần đường, luồn lách, đường bay và độ cao quy định; c) Vi phạm các quy định khác về an toàn giao thông vận tải.

27. 21 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm: a) Điều khiển phương tiện an toàn giao thông vận tải mà không có bằng lái; trong khi say rượu hoặc say do dùng chất kích thích khác; b) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn. 3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến hai mươi năm. 4. Phạm tội trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị xử phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm [34, Điều 186]. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ được quy định tại Điều 186 BLHS năm 1985 so với nội dung trong Điều 9 của Sắc luật 03-SL/76 đã có một bước tiến bộ rất lớn cả về nội dung và kỹ thuật lập pháp, cụ thể tên của tội đã được xác định rõ là “Tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng”. – Tội cản trở giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 187). Theo đó, Điều luật này quy định: 1. Người nào có một trong những hành vi sau đây cản trở giao thông vận tải gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe người khác hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm: a) Đào, phá các công trình giao thông, đặt vật chướng ngại cản trở giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không; b) Di chuyển, phá hủy biển báo hiệu hoặc các thiết bị giao thông;

28. 22 c) Có hành vi khác cản trở giao thông vận tải. 2. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm [34, Điều 187]. Tội phạm được quy định nhằm xử lý các hành vi cản trở giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng như: đào, phá các công trình giao thông, đặt vật chướng ngại cản trở giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không; di chuyển, phá hủy biển báo hiệu hoặc các thiết bị giao thông; v.v… xâm phạm đến an toàn công cộng, qua đó gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác. – Tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông vận tải không bảo đảm an toàn hoặc Điều động người không có đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 188). Theo đó: 1. Người nào có một trong những hành vi sau đây thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm: a) Người chịu trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật của các phương tiện giao thông vận tải mà cho đưa vào sử dụng các phương tiện rõ ràng không bảo đảm an toàn gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe người khác hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản; b) Điều động người không có bằng lái hoặc không đủ những điều kiện khác, điều động người say rượu hoặc say do dùng chất kích thích khác điều khiển các phương tiện giao thông vận tải gây hậu quả nói trên. 2. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm [34, Điều 188]. Tương tự, tội phạm được quy định nhằm xử lý các hành vi đưa vào sử

29. 23 dụng các phương tiện giao thông vận tải không bảo đảm an toàn hoặc điều động người không có đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng, qua đó xâm phạm đến an toàn công cộng, gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác. Như vậy, sau hơn 10 năm thực hiện, BLHS năm 1985 nói chung, cũng như quy phạm pháp luật quy định về các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ nói riêng đã phát huy tác dụng to lớn trong việc đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này. Tuy nhiên, quy định của BLHS năm 1985 về các tội phạm này cũng bộc lộ một số hạn chế. Chẳng hạn, trong đó nổi bật là việc quy định cả bốn loại hành vi phạm tội trong bốn lĩnh vực an toàn giao thông vận tải (đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường không) có đặc điểm kỹ thuật và yêu cầu bảo đảm an toàn rất khác nhau vào cùng một điều luật hoặc tương tự, hành vi cản trở giao thông cũng gộp vào trong cùng một Điều luật trong cả bốn lĩnh vực an toàn giao thông vận tải (đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường không); v.v… Điều này đã hạn chế nhiều đến việc quy định cụ thể hành vi phạm tội, cũng như việc phân hóa TNHS và cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội.

30. 24 Chƣơng 2 QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI VI PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI 2.1. Quy định về các tội vi phạm an toàn giao thông đƣờng bộ trong BLHS năm 1999 2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý chung của các tội vi phạm quy định an toàn giao thông đƣờng bộ Các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến trật tự an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của công dân, tổ chức hoặc nhà nước. Nhìn chung, các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ là các hành vi phạm tội được cụ thể hóa, làm cơ sở để cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt áp dụng. Bộ luật Hình sự cũng phân biệt rõ các hành vi vi phạm về điều khiển phương tiễn giao thông với hành vi cản trở giao thông, hành vi đưa vào sử dụng phương tiễn giao thông không đảm bảo an toàn hay điều động người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông. Theo quy định hiện hành, phần lớn các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ thường có cấu thành vật chất, tức là có hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra. Hành vi vi phạm an toàn giao thông đường bộ, nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị xử lý về hành chính. Tuy nhiên, có những tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ cần yêu cầu phòng ngừa tội phạm gây ra thì Bộ luật hình sự quy định yếu tố cấu thành tội phạm mà không đòi hỏi hậu quả nguy hại cho xã hội phải xảy ra như khoản 4 điều 202 BLHS 1999.

31. 25 Nhằm đảm bảo nguyên tắc phân hóa và cá thể hóa hình phạt, Bộ luật hình sự đã căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm, thì tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Khi xác định các loại tội này dựa trên cơ sở khung hình phạt áp dụng cho từng loại. Các dấu hiệu pháp lý chung hay các yếu tố cấu thành tội phạm là những yếu tố đặc trưng cho mỗi loại tội phạm cụ thể xâm hại đến các quan hệ xã hội trong trật tự, an toàn giao thông đường bộ được quy định trong BLHS. Các dấu hiệu này gồm các yếu tố như: mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể của tội phạm. Cụ thể gồm: Thứ nhất: Khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được BLHS bảo vệ nhưng bị các hành vi phạm tội xâm hại đến. Khách thể của các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ là sự an toàn của hoạt động giao thông đường bộ và an toàn về tính mạng, sức khỏe của công dân, tài sản của công dân, tổ chức hoặc nhà nước. Các hành vi phạm tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ đều có khả năng trực tiếp gây thiệt hại cho xã hội về sức khỏe, tính mạng của công dân hoặc về tài sản của công dân, tổ chức hoặc của nhà nước. Thứ hai, mặt khách quan của các tội phạm Mặt khách quan là những biểu hiện ra bên ngoài của hành vi phạm tội mà con người có thể cảm nhận được. Mặt khách quan của các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ được cấu thành vật chất, tức là cần có dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra, nếu chưa có dấu hiệu hậu quả thì đã bị xử lý hành chính. Trừ quy định tại khoản 4, điều 202 thì yếu tố cấu thành tội phạm mà không đòi hỏi hậu quả nguy hại cho xã hội phải xảy ra.

32. 26 Mặt khách quan bao gồm các yếu tố là: hành vi trái pháp luật, sự thiệt hại của xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và sự thiệt hại của xã hội. Hành vi trái pháp luật vi phạm an toàn giao thông đường bộ là những hành vi nguy hiểm cho xã hội có thể được thực hiện bằng hình thức hành động hoặc không hành động được quy định tại các điều từ Điều 202 đến Điều 207 BLHS. Các hành vi đó như: hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông; Hành vi vi phạm do cản trở giao thông đường bộ; Hành vi đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn; Hành vi điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ; hành vi tổ chức đua xe trái phép; hành vi đua xe trái phép. Sự thiệt hại của xã hội là những tổn thất về vật chất hoặc tinh thần mà xã hội phải gánh chịu do hành vi phạm tội gây ra. Hành vi phạm tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ có thể gây thiệt hại về con người như sức khỏe, tính mạng hoặc gây thiệt hại về tài sản của cá nhân, tổ chức hoặc của nhà nước. Chẳng hạn, về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ thì thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của tội. Theo quy định tại khoản 1 Điều 202 BLHS, thì hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ chỉ bị coi là phạm tội khi gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác. Thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra được quy định cụ thể tại Điều 2 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA- BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 28/8/ 2013 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIX của BLHS về các tội xâm phạm trật tự, an toàn giao thông.

33. 27 Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại của xã hội. Hành vi phạm tội phải là nguyên nhân dẫn đến hậu quả là sự thiệt hại của xã hội. Mối quan hệ nhân quả này là quan hệ khách quan giữa hành vi và hậu quả do hành vi đó gây ra. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và sự thiệt hại của xã hội trong các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ được thể hiện hành vi phạm tội phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh thiệt hại cho xã hội và sự thiệt hại của xã hội là hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. Ngoài ra, trong mặt khách quan còn xem xét đến các yếu tố như: thời gian, địa điểm, công cụ, dụng cụ thực hiện hành vi phạm tội, được chủ thể sử dụng để thực hiện hành vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ. Thứ hai: Mặt chủ quan của các tội phạm Mặt chủ quan của hành vi phạm tội là trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể đối với hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi đó gây ra. Mặt chủ quan bao gồm các yếu tố như: Lỗi, động cơ, mục đích. Trong các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ thì chỉ bao gồm yếu tố lỗi của chủ thể (lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý), còn yếu tố động cơ và mục đích thường không thể hiện. Đa số các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ được thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý do quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả. Lỗi vô ý do quá tự tin là lỗi mà người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được; Lỗi vô ý do cẩu thả là lỗi mà người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Tuy nhiên, có tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ được thực hiện bằng lỗi cố ý như Tội tổ chức đua xe trái phép (Điều 206) và Tội đua xe trái phép (Điều 207). Thứ ba: Chủ thể của các tội phạm

34. 28 Chủ thể của các tội phạm vi phạm an toàn giao thông đường bộ là những người đủ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS thực hiện hành vi phạm tội. Về độ tuổi chịu TNHS của chủ thể, được BLHS quy định: 1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [36, Điều 12]. Năng lực TNHS của chủ thể là khả năng chịu TNHS, phụ thuộc vào độ tuổi và khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của chủ thể. Theo quy định tại Điều 13 BLHS, nếu chủ thể ở vào tình trạng cụ thể, là không có năng lực TNHS. Tuy nhiên, có một số tội phạm đòi hỏi người thực hiện tội phạm phải có dấu hiệu chủ thể đặc biệt, ví dụ: người điều khiển phương tiện giao thông; tội điều động người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông; v.v… 2.1.2. Các tội vi phạm an toàn giao thông đƣờng bộ theo quy định của BLHS năm 1999 Các tội xâm phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ được quy định tại từ điều 202 đến điều 207 chương XIX Bộ luật hình sự năm 1999. Trong đó, các yếu tố định tội ở một số tội danh cũng được sửa đổi, bổ sung so với các quy định tại Bộ luật hình sự 1985 theo hướng phi hình sự hoá một số hành vi hoặc quy định các tình tiết làm ranh giới để phân biệt hành vi phạm tội với hành vi chưa tới mức là tội phạm. * Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (quy định tại Điều 202 BLHS) Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là hành vi vi phạm của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, có

35. 29 năng lực TNHS, đạt độ tuổi theo luật quy định, thực hiện một cách vô ý, gây thiệt hại nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân, tổ chức hoặc của Nhà nước. Các yếu tố cấu thành tội phạm như sau: – Khách thể: Khách thể của tội phạm là trật tự an toàn của hoạt động giao thông đường bộ, sự an toàn về tính mạng, sức khỏe và tài sản của cá nhân, tổ chức, Nhà nước. Phương tiện giao thông đường bộ, theo quy định của Luật giao thông đường bộ năm 2008: Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gồm xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự. Phương tiện giao thông thô sơ đường bộ gồm xe đạp (kể cả xe đạp máy), xe xích lô, xe lăn dùng cho người khuyết tật, xe súc vật kéo và các loại xe tương tự [38, Điều 3]. Khi chủ thể thực hiện hành vi vi phạm trong điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, về nguyên tắc, chỉ xử lý về hình sự đối với các hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ khi sự vi phạm mức độ nguy hiểm lớn cho xã hội như gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản của người khác hoặc có khả năng thực tế gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu hành vi vi phạm không được ngăn chặn kịp thời. – Mặt khách quan: Mặt khách quan của tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ bao gồm các yếu tố: hành vi vi phạm quy định an toàn giao thông đường bộ; thiệt hại gây ra cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại của xã hội.

36. 30 Hành vi vi phạm các quy định về bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ được xác định là những hành vi không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ để thực hiện các quy định về bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ. Trong thực tiễn, tập trung ở một số nhóm hành vi vi phạm cụ thể sau: + Về tiêu chuẩn kỹ thuật của phương tiện giao thông: Phương tiện tham gia giao thông không có đầy đủ các loại đèn chiếu sáng, hệ thống chuyển hướng, bánh lốp đã rơ mòn quá mức quy định hoặc không đúng kích cỡ, tiêu chuẩn kỹ thuật của từng loại xe… + Về quy tắc, quy định khi tham gia giao thông đường bộ: Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông không chấp hành báo hiệu đường bộ, vi phạm về tốc độ và khoảng cách giữa các xe, vi phạm quy định về vượt xe, chuyển hướng xe, lùi xe, tránh xe đi ngược chiều, vi phạm quy định về dừng xe, đỗ xe .v.v… + Về điều kiện người điều khiển phương tiện: Luật giao thông đường bộ quy định người lái xe tham gia giao thông phải bảo đảm độ tuổi, sức khỏe theo quy định và có giấy phép lái xe phù hợp với loại xe được phép điều khiển do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp; v.v… + Vi phạm quy định trong quá trình vận tải: chở hàng hóa, chở hành khách quá tải trọng của xe; xếp hàng hóa trên xe cồng kềnh, hàng to quá khổ; chở hàng độc hại, dễ cháy nổ sai quy định; v.v… Sự thiệt hại của xã hội: Hậu quả mà xã hội phải gánh chịu bởi hành vi trái pháp luật của chủ thể điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là dấu hiệu bắt buộc của phần lớn các cấu thành của tội phạm này. Nếu chủ thể thực hiện hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ nhưng không gây ra thiệt hại cho xã hội là tính mạng, sức khỏe hoặc tài

38. 32 dưới năm mươi triệu đồng; đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng; e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng [30, Khoản 4.1]. Tương tự, các khoản 2, 3 của Điều 202 BLHS cũng được quy định chi tiết trong mục I Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP về mức độ thiệt hại của xã hội làm cơ sở truy cứu TNHS đối với người vi phạm điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại của xã hội: hành vi vi phạm về trật tự an toàn giao thông đường bộ của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ phải có trước hậu quả và hậu quả là những thiệt hại vật chất, như: tính mạng, sức khỏe, tài sản; v.v… trong vụ án đó phải là kết quả trực tiếp do hành vi vi phạm của chủ thể gây ra. Ngoài ra, còn một số dấu hiệu bắt buộc khác, như: phương tiện giao thông đường bộ; xác định địa điểm nơi xảy ra hành vi vi phạm là công trình giao thông đường bộ; v.v…đây là các dấu hiệu mang tính khách quan để phân biệt với các tội phạm khác. – Mặt chủ quan: Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý của chủ thể thực hiện hành vi vi phạm. Lỗi vô ý này có thể là vô ý do quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả. – Chủ thể: Chủ thể là người điều khiển phương tiện tham gia giao thông thực hiện hành vi vi phạm các quy định về bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ gây ra hậu quả nghiêm trọng như thiệt hại sức khỏe, tính mạng hoặc tài sản và làm mất trật tự an toàn giao thông đường bộ.

39. 33 Chủ thể của tội phạm này là người đủ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS, đồng thời là người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Để phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ với các loại tội phạm khác, Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC về Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIX của BLHS về các tội xâm phạm trật tự, an toàn giao thông quy định cụ thể: Trường hợp phương tiện giao thông đường bộ di chuyển, hoạt động nhưng không tham gia giao thông đường bộ (như di chuyển, hoạt động trong trường học, công trường đang thi công hoặc đang khai thác) mà gây tai nạn thì người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ không bị truy cứu TNHS về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ quy đi ̣nh ta ̣i Điều 202 BLHS mà bị truy cứu TNHS về tội phạm tương ứng khác nếu thoả mãn dấu hiệu của tội phạm đó như tội vô ý làm chết người quy định tại Điều 98 BLHS, tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính quy định tại Điều 99 BLHS hoặc tội vi phạm quy định về an toàn lao động, về an toàn ở những nơi đông người quy định tại Điều 227 BLHS [22, Khoản 1 Điều 3]. – Hình phạt của tội phạm: Khung hình phạt đối với tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ được quy định cụ thể tại Điều 202 BLHS 1999. Cụ thể: 1. …bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

40. 34 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm: a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định; b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác; c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn; d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ Điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông; đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. 4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. 5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. * Tội cản trở giao thông đường bộ (Điều 203 BLHS) Tội cản trở giao thông đường bộ là hành vi của người đủ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS do vô ý thực hiện một trong các hành vi cản trở giao thông đường bộ quy định tại khoản 1 Điều 203 BLHS gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác, xâm phạm đến an toàn giao thông đường bộ. Nghiên cứu cho thấy tội cản trở giao thông đường bộ có các dấu hiệu pháp lý như sau: – Khách thể: Là sự an toàn, sự hoạt động bình thường của các phương tiện giao thông đường bộ và tính mạng, sức khỏe của con người, tài sản của

41. 35 Nhà nước, của tổ chức và công dân. – Mặt khách quan: Hành vi trái pháp luật: được thể hiện ở một trong những hành vi sau: Đào, khoan, xẻ trái phép các công trình giao thông đường bộ, đặt trái phép các chướng ngại vật gây cản trở giao thông đường bộ, tháo dỡ, di chuyển trái phép làm che lấp hoặc phá hủy các biển báo hiệu giao thông đường bộ. Các hành vi cản trở như mở đường giao cắt trái phép qua đường bộ, đường có giải phân cách, lấn chiếm, chiếm dụng vỉa hè, lòng đường, lấn chiếm hành lang bảo vệ đường bộ, vi phạm quy định về bảo đảm an toàn giao thông khi thi công trên đường bộ hoặc hành vi khác gây cản trở đến giao thông đường bộ (khoản 1 Điều 203) Sự thiệt hại cho xã hội: tội phạm gây ra thiệt hại cho xã hội như tính mạng con người, thiệt hại nghiêm trọng về sức khỏe của công dân hoặc tài sản của Nhà nước, tổ chức và của công dân, trừ trường hợp quy định trong khoản 4 Điều 203 BLHS về “phạm tội trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời”. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội do tội phạm gây ra tương tự như hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 nêu trên. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại của xã hội: Chủ thể thực hiện các hành vi được quy định tại Điều 203 BLHS là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả thiệt hại cho xã hội là sức khỏe, tính mạng hoặc tài sản của công dân, tổ chức hoặc nhà nước. – Chủ thể: Tội cản trở giao thông đường bộ do người đủ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS đã thực hiện một trong các hành vi cản trở giao thông đường bộ được quy định tại Điều 203 BLHS mà gây hậu quả nghiêm trọng. – Mặt chủ quan: Tội cản trở giao thông đường bộ được thực hiện do lỗi vô ý. Lỗi vô ý gồm: vô ý do cẩu thả hoặc vô ý do quá tự tin.

42. 36 Tuy nhiên, theo điểm b khoản 2 Điều 203 BLHS quy định: “Đặt trái phép chướng ngại vật gây cản trở giao thông đường bộ”, thì chủ thể vi phạm có thể xử lý về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nếu mục đích của hành vi nhằm gây tai nạn giao thông cho người đi đường. – Hình phạt của tội cản trở giao thông đường bộ: Theo quy định tại Điều 203 BLHS về khung hình phạt đối với tội cản trở giao thông đường bộ: 1. …thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Tại các đèo, dốc và đoạn đường nguy hiểm; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm. 4. Phạm tội mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến hai mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm. * Tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn (Điều 204 BLHS) Tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn là hành vi của một người có trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật do vô ý mà cho phép đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn kỹ thuật, gây thiệt hại cho tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác và xâm phạm đến an toàn giao thông đường bộ.

43. 37 Tội phạm này có các dấu hiệu pháp lý như sau: – Khách thể: Tội phạm xâm phạm đến sự hoạt động bình thường, sự an toàn của các phương tiện giao thông đường bộ, đồng thời xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của con người, tài sản của Nhà nước, tổ chức và công dân. – Mặt khách quan: Hành vi trái pháp luật: Theo Điều 203 BLHS đưa ra các hành vi được thể hiện: + Hành vi điều động phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn về kỹ thuật là hành vi của người có thẩm quyền điều động các phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm các tiêu chuẩn về an toàn kỹ thuật… Hành vi trái pháp luật của người có thẩm quyền điều động là mặc dù đã biết rõ tình trạng kỹ thuật, tính năng tác dụng là không bảo đảm an toàn nhưng vẫn điều động tham gia giao thông đường bộ. + Hành vi của người vi phạm cho phép sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không đảm bảo an toàn khi biết rõ là không bảo đảm an toàn kỹ thuật, thiếu các thiết bị bảo đảm an toàn rõ ràng mà nhìn thấy được. Sự thiệt hại cho xã hội: Xã hội phải gánh chịu những thiệt hại về tính mạng, thiệt hại nghiêm trọng về sức khỏe hoặc tài sản là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của loại tội này. Cơ quan nhà nước sẽ căn cứ vào mức độ thiệt hại về sức khỏe hoặc tài sản để xác định một hành vi vi phạm phải chịu trách nhiệm về hình sự. Thiệt hại nghiêm trọng về sức khỏe phải là tổn hại về sức khỏe nếu đối với 1 người thì phải từ 31% trở lên, nếu với nhiều người thì tổng thương tích của họ phải từ 41% trở lên. Nếu là thiệt hại về tài sản thì thiệt hại phải có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại của xã hội: Sự thiệt hại của xã hội xảy ra phải là kết quả của nguyên nhân do người có trách nhiệm điều động hay cho phép đưa vào sử dụng các phương

44. 38 tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn gây ra. – Chủ thể: Chủ thể là người có đủ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS và là người có chức vụ, quyền hạn nhất định trong việc điều động hoặc giám sát về tình trạng kỹ thuật phương tiện giao thông đường bộ. – Mặt chủ quan: Người thực hiện hành vi phạm tội được thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý. Lỗi vô ý gồm vô ý do quá tự tin và vô ý do cẩu thả. – Hình phạt của tội phạm: Theo quy định tại Điều 204 BLHS về khung hình phạt cho tội này là: 1….thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. 2. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm các công việc nhất định từ một năm đến năm năm. * Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ (Điều 205 BLHS) Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ là hành vi điều động hoặc giao cho người không có giấy phép hoặc bằng lái xe hay không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ do người đủ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS thực hiện một cách vô ý, xâm phạm đến an toàn giao thông đường bộ và xâm hại đến sức khỏe, tính mạng của công dân, tổ chức hoặc của nhà nước. Các dấu hiệu pháp lý của tội này là: – Khách thể: Khách thể của tội điều động hoặc giao cho người không

45. 39 đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ là sự an toàn giao thông đường bộ, ngoài ra, tính mạng, sức khỏe của nhân dân, tài sản của nhà nước, của tổ chức, của công dân bị hành vi phạm tội xâm hại đến. – Mặt khách quan: Hành vi trái pháp luật: Có hai hành vi trái pháp luật cấu thành theo quy định tại Điều 205 BLHS 1999 là: + Hành vi điều động người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ: như điều động cho người không giấy phép lái xe hoặc người không đủ điều kiện khác điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. + Hành vi giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ thể hiện ở hành vi giao cho người không giấy phép lái xe hoặc người không đủ điều kiện khác điều khiển phương tiện giao thông. Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC- TANDTC đã giải thích rõ hơn về người không đủ điều kiện khác cụ thể: Người không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 205 BLHS là người không am hiểu các quy định về trật tự, an toàn giao thông đường bộ; người không đủ sức khỏe, độ tuổi để điều khiển phương tiện; người do tình trạng sức khỏe không thể tự chủ điều khiển được tốc độ; người đang trong tình trạng say do sử dụng ma túy, rượu, bia hoặc các chất mà sau khi sử dụng có biểu hiện say như người sử dụng ma túy, rượu, bia [22, Khoản 1, Điều 5]. Đối với tội này thiệt hại về tính mạng, thiệt hại nghiêm trọng về sức khỏe hoặc về tài sản là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Sự thiệt hại của xã hội: Xã hội phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do hành vi trái pháp luật của chủ thể gây ra. Hậu quả đó có thể tính mạng, xâm

46. 40 hại nghiêm trọng sức khỏe của người khác hoặc tài sản của công dân, tổ chức hoặc nhà nước. Nếu gây thương tích cho một người phải từ 31% trở lên, nếu là thương tích cho nhiều người thì tổng thương tích của nhiều người đó phải từ 41% trở lên. Nếu là thiệt hại về tài sản thì thiệt hại đó phải từ 50 triệu đồng trở lên. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại của xã hội: Sự thiệt hại của xã hội là kết quả từ nguyên nhân do chủ thể có quyền điều động hoặc giao cho người khác điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây ra. Trong đó, cả hai chủ thể trên đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật do hậu quả của mình gây ra cho xã hội: + Người trực tiếp điều khiển phương tiện giao thông đường bộ phải chịu TNHS về hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ với tình tiết định khung tăng nặng: “Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định…”. Hành vi này được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 202 BLHS. + Người có quyền điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện Điều khiển phương tiện giao thông thì bị xử lý theo Điều 205 BLHS. – Chủ thể: Chủ thể của tội điều động người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ là những người đủ độ tuổi và có năng lực chịu TNHS thực hiện một trong các hành vi sau: + Chủ thể là người có thẩm quyền trong việc điều động người không đủ điều kiện để điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ. + Chủ thể là người giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường. – Mặt chủ quan: Tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý. Lỗi vô ý thể hiện do quá tự tin hoặc do cẩu thả. Tuy nhiên, khi áp dụng điều luật này, còn phải xem xét lỗi của người được điều động:

47. 41 Trường hợp người được điều động biết mình không có đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vẫn thực hiện theo sự điều động thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo Điều 202 Bộ luật hình sự nếu thỏa mãn các dấu hiệu khác của cấu thành tội phạm này. Trường hợp người được điều động đã đề đạt, từ chối thực hiện nhiệm vụ được giao nhưng vẫn phải chấp hành sự điều động đó thì họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm theo quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự [22, Khoản 1, Điều 5]. – Hình phạt của tội phạm: Theo quy định tại Điều 205 BLHS về khung hình phạt đối với tội này là: 1. …thì bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến ba năm. 2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt từ từ năm năm đến mười hai năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. * Tội tổ chức đua xe trái phép (Điều 206 BLHS) Tội tổ chức đua xe trái phép do người đủ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý thực hiện hành vi cầm đầu, chỉ huy, cưỡng bức, đe dọa, lôi kéo, rủ rê người khác hoặc tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác để họ tham gia vào việc đua trái phép các phương tiện

48. 42 giao thông đường bộ như ôtô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ, xâm phạm đến an toàn giao thông đường bộ, đe dọa sức khỏe, tính mạng hoặc tài sản của công dân, tổ chức, nhà nước. Đây là quy định mới được trong BLHS năm 1999 để đấu tranh phòng và chống các hành vi tổ chức đua xe và đua xe trái phép. Tội tổ chức đua xe và đua xe trái phép có các dấu hiệu pháp lý sau: – Khách thể: Tội phạm xâm phạm trực tiếp sự an toàn giao thông đường bộ, xâm hại nghiêm trọng tới tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân, tổ chức hoặc nhà nước. – Mặt khách quan: Hành vi trái pháp luật: Hành vi trái pháp luật của chủ thể được thể hiện bằng hành vi tổ chức đua xe trái phép với tư cách của người chủ mưu, cầm đầu, lôi kéo kích động người khác đua xe. Sự thiệt hại của xã hội: Tội phạm xâm hại đến sự an toàn giao thông đường bộ và gây ra sự thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân, tổ chức hoặc nhà nước. Thiệt hại cho tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người khác được hiểu là cuộc đua xe trái phép do người phạm tội tổ chức đã dẫn đến hậu quả thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản cho bất kỳ người nào, kể cả người đua xe trái phép [24, Điều 6] Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại của xã hội: Sự thiệt hại của xã hội là kết quả từ nguyên nhân do chủ thể thực hiện hành vi tổ chức đua xe trái phép gây ra. Ngoài ra, mặt khách quan còn thể hiện về thời gian, địa điểm, cách thức, thủ đoạn, phương thức đua xe v.v… – Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm là người có đủ tuổi chịu

Luật Giao Thông Vi Phạm Tốc Độ

Quyết Định Kỷ Luật Đảng Viên Vi Phạm Luật Giao Thông, Mr T Vi Phạm Luật Giao Thông, Luật Giao Thông Vi Phạm Tốc Độ, ô Tô Vi Phạm Luật Giao Thông, Bản Cam Kết Vi Phạm Luật Giao Thông, Vi Phạm Luật Giao Thông Là Gì, Luật Giao Thông Lỗi Vi Phạm, Biên Bản Vi Phạm Luật Giao Thông, Yanbi Vi Phạm Luật Giao Thông, Mất Biên Bản Vi Phạm Luật Giao Thông, Điều Luật Vi Phạm Giao Thông, Có Vi Phạm Luật Giao Thông Không, Vi Phạm Luật Giao Thông Đường Sắt, Bản Tường Trình Vi Phạm Luật Giao Thông, Vi Phạm Luật Giao Thông Gây Hậu Quả Nghiêm Trọng, Mẫu Bản Tường Trình Vi Phạm Luật Giao Thông, Phạm Vi Điều Chỉnh Luật Giao Thông, Không Vi Phạm Luật Giao Thông Đường Bộ, Không Ký Biên Bản Vi Phạm Luật Giao Thông, Giấy Cam Kết Không Vi Phạm Luật Giao Thông, Tăng Cường Quản Lý, Giáo Dục Chấp Hành Kỷ Luật; Phòng Ngừa, Ngăn Chặn Vi Phạm Pháp Luật Và Vi Phạm K, Tăng Cường Quản Lý, Giáo Dục Chấp Hành Kỷ Luật; Phòng Ngừa, Ngăn Chặn Vi Phạm Pháp Luật Và Vi Phạm K, Người Lái Xe Cố Tình Vi Phạm Luật Giao Thông Đường Bộ, Không Phân Biệt Làn Đường, Vạch Phân Làn, Theo Luật Giao Thông Đường Bộ, Tín Hiệu Đèn Giao Thông 3 Màu Nào Dưới Đây?, Thông Tư 10 Bca Sử Lý Vi Phạm Kỷ Luật, Vi Phạm Giao Thông Là Gì, Bản Cam Kết Vi Phạm Giao Thông, Biên Bản Vi Phạm Giao Thông Hợp Lệ, Xử Lý Biên Bản Vi Phạm Giao Thông Quá Hạn, Có Biên Bản Vi Phạm Giao Thông, Lập Biên Bản Vi Phạm Giao Thông, Bị Mất Biên Bản Vi Phạm Giao Thông, Bị Lập Biên Bản Vi Phạm Giao Thông, Mẫu Đơn Đề Nghị Xử Lý Vi Phạm Giao Thông, Mẫu Đơn Khiếu Nại Vi Phạm Giao Thông, Mất Biên Bản Vi Phạm Giao Thông, Giấy Cam Kết Vi Phạm Giao Thông, Biên Bản Vi Phạm Giao Thông Quá Hạn, Biên Bản Xử Lý Vi Phạm Giao Thông, Thủ Tục Thanh Lý Xe Vi Phạm Giao Thông, Biên Bản Vi Phạm Giao Thông, Đơn Khiếu Nại Vi Phạm Giao Thông, Giáo Trình Luật Hình Sự Phần Các Tội Phạm, Một Số Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật Về Giáo Dục Nghề Nghiệp, ủy Quyền Nộp Phạt Vi Phạm Giao Thông, Giay Uy Quyen Lay Xe May Vi Pham Giao Thong, Không Ký Biên Bản Vi Phạm Giao Thông, Bản Tường Trình Vi Phạm Giao Thông, Giấy ủy Quyền Xử Lý Vi Phạm Giao Thông, Mẫu Bản Kiểm Điểm Vi Phạm Giao Thông, Tường Trình Vi Phạm Giao Thông, Đóng Phạt Vi Phạm Giao Thông, Không Ký Vào Biên Bản Vi Phạm Giao Thông, Không Lập Biên Bản Vi Phạm Giao Thông, Đơn Xin Giảm Nhẹ Mức Phạt Vi Phạm Giao Thông, Biểu Phí Phạt Vi Phạm Giao Thông, Biên Bản Vi Phạm Giao Thông Chuẩn, Mau ủy Quyền Nop Phat Vi Pham Giao Thông, Mẫu Giấy ủy Quyền Xử Lý Vi Phạm Giao Thông, Biên Bản Vi Phạm Giao Thông Đường Bộ, Biên Bản Vi Phạm An Toàn Giao Thông, Biên Bản Phạt Vi Phạm Giao Thông, Mẫu Bản Tường Trình Vi Phạm Giao Thông, Bảng Giá Phạt Vi Phạm Giao Thông 2017, Giấy ủy Quyền Nộp Phạt Vi Phạm Giao Thông, Quyết Định Xử Phạt Vi Phạm Giao Thông, Bản Tường Trình Mất Biên Bản Vi Phạm Giao Thông, Mẫu Giấy ủy Quyền Nộp Phạt Vi Phạm Giao Thông, Nghị Định Xử Phạt Vi Phạm Giao Thông, Báo Cáo Đề án Xây Dựng, Hoàn Thiện Hệ Thống Pháp Luật Về Phòng Chống Tội Phạm, Đề án Xây Dựng, Hoàn Thiện Hệ Thống Pháp Luật Về Phòng, Chống Tội Phạm, Mẫu Giấy Uỷ Quyền Vi Phạm Giao Thông Đường Thuỷ, Bản Tường Trình Không Ký Biên Bản Vi Phạm Giao Thông, Mẫu Giấy Uỷ Quyền Đóng Phạt Vi Phạm Giao Thông, Giáo Trình Luật Giao Thông Đường Bộ 2020, Giáo Trình Môn Pháp Luật Giao Thông Đường Bộ, Báo Cáo Kết Quả Thực Hiện Đề án Xây Dựng, Hoàn Thiện Hệ Thống Pháp Luật Về Phòng, Chống Tội Phạm, Điều 14 Thông Tư 65 Luật Giao Thông Đường Bộ, Bien Ban Tạm Giu Tang Vat Phuong Tien Vi Phạm Tai Nạn Giao Thong Duong Thuy, Mẫu Biên Bản Vi Phạm Hành Chính Trong Lĩnh Vực Giao Thông Đường Bộ, Giáo Trình Luật Giao Thông Đường Bộ, Nghị Định Xử Phạt Vi Phạm Hành Chính Trong Lĩnh Vực Giao Thông, Quy Định Xử Phạt Vi Phạm Hành Chính Trong Lĩnh Vực Giao Thông Đường Bộ Và Đư, Thông Tư 02 Luật Giao Thông Đường Bộ, Thông Tư 91 Luật Giao Thông Đường Bộ, Luật Giao Thông Đường Bộ Thông Tư 01, Quyết Định Xử Phạt Vi Phạm Hành Chính Trong Lĩnh Vực Giao Thông Đường Bộ, Nghị Định Xử Phạt Vi Phạm Hành Chính Trong Lĩnh Vực Giao Thông Đường Bộ, Giáo án Luật Giao Thông Đường Bộ, Giáo án Một Số Luật Giao Thông 3 Tuổi, Luật Giao Giao Thông Đường Bộ, Thong Tu 10 Cua Bo Cong An Ve Xu Ly Ky Luật Cong An Vi Pham Dieu Lệnh, Bộ Luật Về Giao Thông, Luật Giao Thông ở Ngã Tư, Luật Giao Thông Vận Tải, Luật Giao Thông Lớp 4, Luật Giao Thông Về Tốc Độ, Luật Giao Thông ở Mỹ, Luật Giao Thông Cho Bé, Luật Giao Thông Xe Gắn Máy,

Quyết Định Kỷ Luật Đảng Viên Vi Phạm Luật Giao Thông, Mr T Vi Phạm Luật Giao Thông, Luật Giao Thông Vi Phạm Tốc Độ, ô Tô Vi Phạm Luật Giao Thông, Bản Cam Kết Vi Phạm Luật Giao Thông, Vi Phạm Luật Giao Thông Là Gì, Luật Giao Thông Lỗi Vi Phạm, Biên Bản Vi Phạm Luật Giao Thông, Yanbi Vi Phạm Luật Giao Thông, Mất Biên Bản Vi Phạm Luật Giao Thông, Điều Luật Vi Phạm Giao Thông, Có Vi Phạm Luật Giao Thông Không, Vi Phạm Luật Giao Thông Đường Sắt, Bản Tường Trình Vi Phạm Luật Giao Thông, Vi Phạm Luật Giao Thông Gây Hậu Quả Nghiêm Trọng, Mẫu Bản Tường Trình Vi Phạm Luật Giao Thông, Phạm Vi Điều Chỉnh Luật Giao Thông, Không Vi Phạm Luật Giao Thông Đường Bộ, Không Ký Biên Bản Vi Phạm Luật Giao Thông, Giấy Cam Kết Không Vi Phạm Luật Giao Thông, Tăng Cường Quản Lý, Giáo Dục Chấp Hành Kỷ Luật; Phòng Ngừa, Ngăn Chặn Vi Phạm Pháp Luật Và Vi Phạm K, Tăng Cường Quản Lý, Giáo Dục Chấp Hành Kỷ Luật; Phòng Ngừa, Ngăn Chặn Vi Phạm Pháp Luật Và Vi Phạm K, Người Lái Xe Cố Tình Vi Phạm Luật Giao Thông Đường Bộ, Không Phân Biệt Làn Đường, Vạch Phân Làn, Theo Luật Giao Thông Đường Bộ, Tín Hiệu Đèn Giao Thông 3 Màu Nào Dưới Đây?, Thông Tư 10 Bca Sử Lý Vi Phạm Kỷ Luật, Vi Phạm Giao Thông Là Gì, Bản Cam Kết Vi Phạm Giao Thông, Biên Bản Vi Phạm Giao Thông Hợp Lệ, Xử Lý Biên Bản Vi Phạm Giao Thông Quá Hạn, Có Biên Bản Vi Phạm Giao Thông, Lập Biên Bản Vi Phạm Giao Thông, Bị Mất Biên Bản Vi Phạm Giao Thông, Bị Lập Biên Bản Vi Phạm Giao Thông, Mẫu Đơn Đề Nghị Xử Lý Vi Phạm Giao Thông, Mẫu Đơn Khiếu Nại Vi Phạm Giao Thông, Mất Biên Bản Vi Phạm Giao Thông, Giấy Cam Kết Vi Phạm Giao Thông, Biên Bản Vi Phạm Giao Thông Quá Hạn, Biên Bản Xử Lý Vi Phạm Giao Thông, Thủ Tục Thanh Lý Xe Vi Phạm Giao Thông, Biên Bản Vi Phạm Giao Thông, Đơn Khiếu Nại Vi Phạm Giao Thông, Giáo Trình Luật Hình Sự Phần Các Tội Phạm, Một Số Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật Về Giáo Dục Nghề Nghiệp, ủy Quyền Nộp Phạt Vi Phạm Giao Thông, Giay Uy Quyen Lay Xe May Vi Pham Giao Thong, Không Ký Biên Bản Vi Phạm Giao Thông, Bản Tường Trình Vi Phạm Giao Thông, Giấy ủy Quyền Xử Lý Vi Phạm Giao Thông, Mẫu Bản Kiểm Điểm Vi Phạm Giao Thông,

Lại Sắp Sửa Nghị Định Xử Phạt Vi Phạm An Toàn Giao Thông

(Toquoc)- Nghị định 171 năm 2013 của Chính phủ và Nghị định số 107 của Chính phủ năm 2014 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt dù mới được thi hành 1-2 năm qua, nhưng đã phải cho ý kiến sửa đổi, bổ sung.

Sáng 23/6, Bộ Giao thông vận tải đã tổ chức hội nghị tổng kết việc thực hiện 2 nghị định trên, đồng thời lấy ý kiến đóng góp sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn.

Nhiều hành vi vi phạm được đề xuất tăng mức phạt

Theo Vụ phó Vụ An toàn giao thông, Bộ Giao thông vận tải Hoàng Thế Tùng, sau hai năm thực hiện Nghị định 171, Thanh tra giao thông đã phát hiện hơn 246.000 vụ vi phạm, xử phạt hơn 236.000 vụ với hơn 500 tỷ 586 triệu đồng, tạm giữ 1.900 ô tô.

Với lực lượng cảnh sát giao thông, lĩnh vực đường sắt đã lập biên bản trên 3.100 trường hợp vi phạm, lĩnh vực đường bộ đã lập biên bản gần 7 triệu trường hợp vi phạm, phạt tiền trên 4.200 tỷ đồng, tạm giữ hơn 51.000 ô tô, hơn 851.000 xe mô tô…

Xe quá tải bị xử phạt

Theo Vụ An toàn giao thông, khó khăn trong việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này là do tập quán của một số vùng miền, điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau nên đã ảnh hưởng đến nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của người dân.

Theo Thượng tá Nguyễn Thành Viên, Phó Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Hà Nam, việc quy định chiều cao của thùng hàng đang gặp khó khăn do quy định khác nhau giữa loại xe nhập mới về và xe cũ.

Ông Viên cũng cho hay, thẩm quyền xử phạt hiện nay rất khó khăn với những hành vi vượt thẩm quyền thì phải mất nhiều thời gian để trình lên cấp trên về một mức xử phạt hành chính nào đó. Ngoài ra, với xe bị xử phạt, chủ xe thường tới chịu chấp nhận hình phạt rất muộn, có khi phải tới ba tháng họ mới tới gây khó khăn cho các cơ quan công quyền.

Về xe khách đóng giả xe hợp đồng, ông Viên cho hay, ở đường Trần Khát Chân, Hà Nội có nhiều xe khách trá hình đi Huế. “Cảnh sát giao thông kiểm tra thì đầy đủ phù hiệu nhưng là xe trá hình, ở đây như một bến xe dù vậy. Tôi đề nghị nâng mức phạt với xe hợp đồng không có người trong danh sách trên xe” – ông Viên nói.

Đại diện Sở Giao thông vận tải Lào Cai cũng đồng tình với quan điểm của ông Viên và yêu cầu phạt nặng xe chở khách trá hình. Trước mắt, nếu chưa có văn bản thay thế thì Bộ Giao thông vận tải nên ra một văn bản cá biệt quy định ngay vấn đề này.

Các đại biểu cũng yêu cầu quy định chặt với xe ưu tiên. Hiện nay nhiều xe ưu tiên tư nhân sử dụng cho mục đích cấp cứu khi không có bệnh nhân vẫn bật còi, đèn. Cảnh sát giao thông Hà Nam đã từng xử phạt 12,5 triệu đồng với một xe cấp cứu ở Nghệ An, không chở bệnh nhân nhưng sử dụng còi ưu tiên và lái xe thì dùng rượu bia.

Các đại biểu còn cho rằng, với nhiều hành vi nếu không nâng mức xử phạt lên thì không đủ sức răn đe, nhiều trường hợp vi phạm không chấp hành hiệu lệnh, cảnh sát giao thông phải rượt đuổi cả 100 km chỉ để phạt 1 triệu đồng.

Còn theo ông Trần Quang Thanh, Phó Cục trưởng, Cục quản lý Đường bộ 2, Tổng cục Đường bộ Việt Nam thì đề nghị điều chỉnh tăng nặng mức xử phạt với chủ phương tiện, hoặc để cho người làm công, người đại diện đăng ký phương tiện điều khiển xe có hành vi vi phạm quy định của trọng lượng.

Mức xử phạt hiện hành với chủ xe là cá nhân phạt tiền từ 2-4 triệu, xử phạt là chủ xe với tổ chức 4-8 triệu, ông Thanh đề nghị điều chỉnh mức xử phạt tăng thêm với cá nhân phạt tiền từ 12-14 triệu, với tổ chức từ 24-28 triệu đồng…

Lưu ý sửa đổi giảm mức xử phạt hành chính với một số hành vi

Trung tướng Đỗ Đình Nghị, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát quản lý hành chính và trật tự an toàn xã hội, Bộ Công an cho hay, báo cáo tổng kết thực hiện các nghị định cần đưa ra những tồn tại cần sửa đổi, bổ sung vào hai văn bản trên.

“Muốn sửa đổi thì đáng lý hôm nay, hội nghị đã phải đưa ra hai dự thảo nghị định cho văn bản này như thế nào. Điều nào cần sửa, cần bổ dung, lý do vì sao… đây mới là việc quan trọng” – ông Nghị nói.

Kết thúc hội nghị, Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Lê Đình Thọ cho hay, hai nghị định mới có hiệu lực nhưng đã phải sửa đổi thì khó tạo tính ổn định trong thực hiện. Tuy vậy, các cơ quan vẫn phải rà soát, đánh giá, bổ sung để cố gắng, nghị định thực hiện trong 2-3 năm mà không phải sửa đổi tiếp.

Ông Thọ cũng yêu cầu, “khi soạn thảo dự thảo mới sẽ phải đề cập đến mọi khía cạnh về đối tượng, hành vi, mức độ xử phạt và thẩm quyền xử phạt. Lần này xây dựng theo hướng sẽ nghiên cứu cái gì chưa rõ thì sẽ lột tả cho rõ, cái gì thực hiện mà còn vòng vo thì sẽ đơn giản hóa để thực hiện. Điều gì mà chúng ta chưa dự báo đến sự phát triển trong thời gian tới mà trong xã hội sẽ xuất hiện thì cần nghiên cứu để đưa vào sửa đổi”.

Ngoài ra, ông Thọ cũng lưu ý, không chỉ đề xuất tăng nặng mức xử phạt các hành vi, với những hành vi nào không nhất thiết phải xử phạt nặng thì dự thảo cũng nên hạ mức xử phạt hành chính./.

Thái Linh