Vi Phạm Luật Cạnh Tranh / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Hành Vi Được Xem Là Vi Phạm Luật Cạnh Tranh

Sự phát triển nhanh của những ngành công nghiệp đã tạo sức ép cạnh tranh lên các doanh nghiệp và dẫn đến tình trạng vi phạm Luật Cạnh tranh. Cùng với công cuộc đối mới và chính sách mở cửa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng ấn tượng trong nhiều năm qua. Kế hoạch dài hạn giúp tạo lợi thế cạnh tranh luôn được đa số các doanh nghiệp triển khai nhằm đạt được thị phần lớn so với đối thủ cùng ngành. Theo Luật Cạnh tranh 2004, nếu các doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau đây bị xem là vi phạm Luật Cạnh tranh.

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Trong Luật Cạnh tranh 2004, không có một điều luật nào quy định về khái niệm “thỏa thuận hạn chế cạnh tranh” mà chỉ quy định hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh này bằng cách liệt kê các hành vi thỏa thuận này tại Điều 8 bao gồm:

Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;

Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ;

Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch vụ;

Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;

Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh;

Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả thuận;

Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ.

Với việc liệt kê các hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh trên cho thấy, pháp luật Việt Nam không quan tâm hình thức thỏa thuận trên được thực hiện công khai hay ngầm mà chỉ dựa vào mục đích đạt được của sự thỏa thuận.

Bán hàng hóa, cũng ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh;

Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng;

Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng;

Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong điều kiện giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh;

Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới;

Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng của doanh nghiệp có vị trí độc quyền;

Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng.

Theo quy định tại Điều 16 Luật Cạnh tranh, tập trung kinh tế là hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh, bao gồm 05 hành vi sau: sáp nhập doanh nghiệp; hợp nhất doanh nghiệp; mua lại doanh nghiệp; liên doanh giữa các doanh nghiệp và các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật.

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Theo Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004 thì “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh được hiểu là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”. Bao gồm các hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh như sau:

Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;

Xâm phạm bí mật kinh doanh;

Ép buộc trong kinh doanh;

Gièm pha doanh nghiệp khác;

Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;

Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh;

Phân biệt đối xử của hiệp hội;

Bán hàng đa cấp bất chính.

PHAN LAW VIETNAMHotline: 1900.599.995 – 0794.80.8888Email: info@phan.vn

Có Vi Phạm Luật Cạnh Tranh Khi Bán Giá Thấp Hơn Thị Trường?

Do chi phí sản xuất ở Việt Nam tăng cao, công ty thép X đã đặt một công ty Hong Kong gia công sản xuất sắt xây dựng theo tiêu chuẩn Việt Nam và dán nhãn hiệu thép của của công ty X. Nhờ đó công ty thép X bán sắt xây dựng ở Việt Nam với giá thấp hơn thị trường.

Theo công ty X, các công ty sản xuất thép khác là Y và Z cũng đặt Hong Kong gia công và cùng với X tạo ra cuộc chạy đua giảm giá sắt xây dựng rất được lòng khách hàng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sản xuất thép còn lại, chiếm khoảng 78% thị trường sắt- xây dựng một mặt cáo buộc các công ty X, Y, Z vi phạm luật cạnh tranh, mặt khác cùng đồng ý thực hiện một giá bán tối thiểu chung (giá sàn). Theo yêu cầu của các doanh nghiệp này, hiệp hội các nhà sản xuất thép Việt Nam cũng làm đơn kiến nghị chính phủ ra qui định thực hiện giá sàn về sắt xây dựng. Cho mình hỏi:

– Công ty X có vị phạm luật cạnh tranh không?

– Các doanh nghiệp còn lại có vi phạm luật cạnh tranh không?

– Công ty X có phải thực hiện giá sàn không?

Công ty X có vi phạm luật cạnh tranh không?

Căn cứ theo Khoản 1 Điều 11 Luật Cạnh tranh 2004 thì công ty X không phải doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường:

Nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh và thuộc một trong các trường hợp sau đây:

Hơn nữa, công ty X cùng với công ty Y, Z có tổng thị phần trên thị trường chiếm 22% cũng chưa thuộc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Do công ty X sản xuất thép với chi phí thấp nên giá bán thấp hơn trên thị trường là đương nhiên.

Các doanh nghiệp còn lại có vi phạm luật cạnh tranh không?

Theo Khoản 1 Điều 8 và Khoản 2 Điều 9 Luật Canh tranh 2004 quy định:

“Điều 8. Các thoả thuận hạn chế cạnh tranh

Các thoả thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm:

Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; …”.

“Điều 9. Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm

Tại Điều 14 Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hay gián tiếp như sau:

“Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hay gián tiếp là việc thống nhất cùng hành động dưới một trong các hình thức sau đây:

Áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng.

Tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể.

Áp dụng công thức tính giá chung.

Không chiết khấu giá hoặc áp dụng mức chiết khấu giá thống nhất.

Dành hạn mức tín dụng cho khách hàng.

Không giảm giá nếu không thông báo cho các thành viên khác của thoả thuận.

Sử dụng mức giá thống nhất tại thời điểm các cuộc đàm phán về giá bắt đầu”.

Như vậy, các doanh nghiệp sản xuất thép còn lại chiếm khoảng 78% thị trường sắt- xây dựng đã phối hợp thỏa thuận cùng đồng ý về việc thực hiện một giá bán tối thiểu chung, và còn yêu cầu hiệp hội các nhà sản xuất thép Việt Nam làm đơn kiến nghị chính phủ ra qui định thực hiện giá sàn về sắt xây dựng là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nên vi phạm luật cạnh tranh.

Công ty X có phải thực hiện giá sàn không?

Do thỏa thuận của các doanh nghiệp sản xuất thép còn lại là thỏa thuận vi phạm luật cạnh tranh cho nên công ty X không phải thực hiện giá sàn.

Doanh Nghiệp Kiện Sở Y Tế Vì Ban Hành Công Văn Vi Phạm Luật Cạnh Tranh

Nhận thấy văn bản chỉ đạo của Sở Y tế Kiên Giang vừa ban hành sẽ gây thiệt hại cho mình nên Công ty TNHH một thành viên tin học y tế Nguyên Khôi – TP HCM đã nộp đơn khởi kiện.

Bệnh viện đa khoa Kiên Giang là một trong những đơn vị đang sử dụng phần mềm quản lý bệnh viện chúng tôi

Tiêu tan kế hoạch kinh doanh nên đi kiện

Ông Phan Xuân Trung, Phó giám đốc Công ty TNHH một thành viên Tin học y tế Nguyên Khôi, cho biết công ty này vừa có đơn khởi kiện Sở Y tế Kiên Giang ra Tòa hành chính, Tòa án nhân dân Tỉnh Kiên Giang, vì theo ông Sở Y tế đã… “ban hành công văn vi phạm Luật Cạnh tranh”.

Công văn số 1656/SYT-VP, ngày 24-11-2015, của Sở Y tế tỉnh Kiên Giang (về việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý khám chữa bệnh và thanh toán bảo hiểm y tế trong tỉnh Kiên Giang) gửi các đơn vị trực thuộc, yêu cầu: “Lãnh đạo các đơn vị trực thuộc phải thực hiện việc cử đầu mối phối hợp với VNPT Kiên Giang để tổ chức tập huấn phần mềm quản lý khám chữa bệnh VNPT-HIS tại cơ sở khám chữa bệnh và chịu trách nhiệm tiếp nhận, chuyển giao khai thác phần mềm”.

“Đối với cơ sở khám chữa bệnh chưa sử dụng phần mềm thì sau khi tập huấn phải đưa vào sử dụng chính thức ngay. Trường hợp cơ sở khám chữa bệnh đang sử dụng phần mềm khác thì cử cán bộ công nghệ thông tin phối hợp với cán bộ VNPT Kiên Giang để khảo sát, lên kế hoạch chuyển đổi dữ liệu và tổ chức tập huấn sử dụng phần mềm VNPT – HIS song song với phần mềm hiện có để thống nhất dữ liệu khám chữa bệnh trong toàn tỉnh. Sau khi chuyển đổi dữ liệu hoàn tất thì chuyển sang sử dụng chính thức phần mềm VNPT – HIS”.

Là một công ty chuyên cung cấp phần mềm quản lý bệnh viện và quản lý ngành y tế (sản phẩm phần mềm YKHOA.NET), Công ty Nguyên Khôi nhận thấy công văn của Sở Y tế Kiên Giang ảnh hưởng nhiều đến quyền lợi hợp pháp của mình. Bởi vì, tại tỉnh Kiên Giang, Nguyên Khôi đang có khách hàng [sử dụng phần mềm] là Bệnh viện đa khoa tỉnh Kiên Giang và Bệnh viện đa khoa huyện Phú Quốc; khách hàng tiềm năng là các bệnh viện là các đơn vị y tế khác của tỉnh Kiên Giang.

Theo ông Trung, phần mềm quản lý bệnh viện chúng tôi của Nguyên Khôi đáp ứng được các chuẩn mực về phần mềm do Bộ Y tế quy định, các yêu cầu xuất dữ liệu cuối của Bảo hiểm Y tế Việt Nam… và hiện đang được triển khai tại nhiều bệnh viện trên toàn quốc.

“Kế hoạch kinh doanh của Nguyên Khôi là sau khi lập trình thành công phần mềm quản lý bệnh viện tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Kiên Giang – bệnh viện có quy mô và số lượng bệnh nhân lớn nhất tỉnh – sẽ triển khai rộng khắp các bệnh viện khác có quy mô nhỏ tại địa phương này, giúp thống nhất toàn hệ thống phần mềm và cơ sở dữ liệu cho ngành y tế Kiên Giang”, ông Trung nói.

Vậy mà, với công văn 1656/SYT-VP của Sở Y tế tỉnh Kiên Giang, hoạt động kinh doanh của Nguyên Khôi tại địa phương này bỗng chốc “tan thành mây khói”!

Có vi phạm luật hay không?

Điều 6 của Luật Cạnh tranh quy định các hành vi bị cấm đối với cơ quan quản lý nhà nước: Cơ quan quản lý nhà nước không được thực hiện những hành vi sau đây để cản trở cạnh tranh trên thị trường: 1. Buộc doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân phải mua, bán hàng hóa cung ứng dịch vụ với doanh nghiệp được cơ quan này chỉ định…

Như vậy, công văn của Sở Y tế Kiên Giang có dấu hiệu vi phạm Luật Cạnh tranh. Cụ thể, sở này yêu cầu các đơn vị trực thuộc mình phải mua hàng hóa, dịch vụ của VNPT Kiên Giang (mà cụ thể ở đây là phần mềm VNPT HIS). Căn cứ vào điều này, Công ty Nguyên Khôi đã khởi kiện Sở Y tế Kiên Giang “ban hành công văn vi phạm Luật Cạnh tranh”.

Trong đơn kiện gửi Tòa hành chính, Tòa án tỉnh Kiên Giang ngày 12-12-2015, Công ty Nguyên Khôi viết: Công văn 1656/SYT-VP của Sở Y tế tỉnh Kiên Giang có nội dung bắt buộc các bệnh viện đa khoa tỉnh Kiên Giang và đa khoa huyện Phú Quốc – là khách hàng hiện hữu của Nguyên Khôi – phải chấm dứt sử dụng phần mềm chúng tôi và dịch vụ của Nguyên Khôi. Điều này làm cho Nguyên Khôi mất quyền cung cấp các dịch vụ bảo trì hệ thống và cung cấp các dịch vụ khác phát sinh trong quá trình sử dụng phần mềm từ các bệnh viện này.

Công văn của Sở Y tế Kiên Giang cũng đồng thời yêu cầu các đơn vị trực thuộc sở sử dụng phần mềm VNPT – HIS của VNPT Kiên Giang. Điều này đã ngăn cản sự tiếp cận của Công ty Nguyên Khôi đối với khách hàng tiềm năng – mất khả năng kinh doanh hợp pháp đối với khách hàng tiềm năng của mình tại Kiên Giang.

“Các điều kể trên có thể dẫn đến sự thiệt hại cho Công ty Nguyên Khôi ước tính 100 tỉ đồng từ các hợp đồng mới và phí bảo trì hàng năm tại khu vực Kiên Giang”, đơn kiện của Nguyên Khôi viết.

Vì vậy, trong đơn kiện, Công ty Nguyên Khôi đề nghị Tòa án yêu cầu Sở Y tế Kiên Giang thu hồi, hủy bỏ Công văn 1656/SYT-VP và thông báo đến các đơn vị trực thuộc về việc hủy bỏ này; gửi văn bản xin lỗi về hành vi ngăn cản cạnh tranh đến Công ty Nguyên Khôi và các công ty phần mềm khác trên các phương tiện truyền thông đại chúng; khắc phục những hệ quả do thông báo này gây ra, thông báo cho VNPT Kiên Giang chấm dứt việc triển khai phần mềm VNPT – HIS.

Trong khi đó, trả lời TBKTSG, ông Hà Văn Phúc, Phó giám đốc Sở Y tế Kiên Giang (người ký công văn 1656/SYT-VP), cho biết việc sở này yêu cầu các đơn vị trực thuộc sử dụng phần mềm quản lý khám chữa bệnh VNPT – HIS (mà không sử dụng phần mềm khác) là để cho việc quản lý được thống nhất và đồng bộ từ tuyến xã, đến tuyến huyện, tuyến tỉnh.

Về chi phí chi trả cho phần mềm, theo ông Phúc, Sở Y tế Kiên Giang lo toàn bộ, các đơn vị trực thuộc chỉ là những đơn vị thụ hưởng. Theo đó, Sở Y tế Kiên Giang đã đứng ra ký kết hợp đồng sử dụng phần mềm VNPT – HIS với VNPT Kiên Giang. Giá trị của hợp đồng không được ông Phúc tiết lộ nhưng việc Sở Y tế chọn VNPT Kiên Giang cung cấp dịch vụ này không thông qua đấu thầu.

Được biết, cơ sở để Sở Y tế Kiên Giang ban hành công văn nói trên là “căn cứ công văn số 8623 ngày 9-11 của Bộ Y tế về việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý khám chữa bệnh và thanh toán bảo hiểm y tế”; cũng như căn cứ vào kế hoạch của sở này. Tuy nhiên, công văn nói trên của Bộ Y tế không nói rõ là các cơ sở y tế phải sử dụng phần mềm VNPT-HIS.

Nguồn: theo Quang Chung – Thời báo kinh tế Sài Gòn Online

Điểm Mới Của Luật Cạnh Tranh 2022 So Với Luật Cạnh Trạnh 2004

Những quy định bị bãi bỏ:

– Bỏ hành vi tập trung kinh tế ra khỏi khái niệm hành vi hạn chế cạnh tranh (Khoản 2 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2018);

– Khái niệm về bí mật kinh doanh (Khoản 10 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004);

– Khái niệm về bán hàng đa cấp (Khoản 11 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004);

Những quy định mới được bổ sung:

– Nguyên tắc cạnh tranh công bằng và lành mạnh trong quyền và nguyên tắc cạnh tranh trong kinh doanh (Khoản 2 Điều 5);

– Quy định về cách thức xác định thị phần và thị phần kết hợp (Điều 10);

+ Số đơn vị hàng hóa bán ra trên tổng số đơn vị hàng hóa bán ra;

+ Số đơn vị hàng hóa mua vào trên tổng số đơn vị hàng hóa mua vào.

– Hành vi thỏa thuận cạnh tranh (Điều 11):

9. Thỏa thuận không giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận.

10. Thỏa thuận hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các bên không tham gia thỏa thuận.

11. Thỏa thuận khác gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh.

– Miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm: miễn trừ của các ngành, lĩnh vực đặc thù (Điều 14);

– Bổ sung thêm thành phần hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm và đưa bổ sung quy định: doanh nghiệp tham gia hạn chế cạnh tranh bị cấm nộp hồ sơ (Điều 15);

– Quy định về bãi bỏ quyết định miễn trừ: dựa trên thông tin, tài liệu không chính xác về điều kiện được miễn trừ (Điều 23);

– Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí đôc quyền bị cấm (Điều 27);

– Hậu quả pháp lý “chấm dứt hoạt động kinh doanh” của doanh nghiệp bị sáp nhập, hợp nhất (Điều 29);

– Mua lại doanh nghiệp: đưa ra thêm quy định mua lại trực tiếp / gián tiếp (Điều 29);

– Hồ sơ thông báo tập trung kinh tế: dự thảo nội dung thỏa thuận tập trung kinh tế; phương án khắc phục khả năng gây hạn chế cạnh tranh, báo cáo tác động tích cực của việc tập trung kinh tế (Điều 34);

Những quy định được thay thế:

– Bộ Công thương là cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về cạnh tranh, trước đó là Bộ Thương mại (Điều 7);

– Khái niệm về tập trung kinh tế bị cấm: Doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường Việt Nam. Do Ủy ban cạnh tranh quốc gia đánh giá. Bỏ quy định về việc chiếm hơn 50% thị phần (Điều 30);

– Thông báo tập trung kinh tế: Các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế phải nộp hồ sơ thông báo tập trung kinh tế đến Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia theo quy định tại Điều 34 của Luật này trước khi tiến hành tập trung kinh tế nếu thuộc ngưỡng thông báo tập trung kinh tế (quy định hiện hành là 30- 50%) và được xác định từ các căn cứ: tổng tài sản, tổng doanh thu, giá trị giao dịch, thị phần kết hợp (Điều 33);

– Thay đổi một số quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh (Điều 45)

+ Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;

+ So sánh hàng hóa của doanh nghiệp mình với hàng hóa của doanh nghiệp khác nhưng không chứng minh được nội dung. (Hiện hành, chỉ cần so sánh trực tiếp sản phẩm của doanh nghiệp mình với doanh nghiệp khác thì đã là hành vi cạnh tranh không lành mạnh)

+ Quy định cụ thể về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh: Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp khác cùng kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó. (Trước đó quy định là khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh);

– Quy định về tố tụng cạnh tranh (Chương VIII)

Những quy định hoàn toàn mới

– Đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (Điều 13);

– Thời hạn được miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh: 05 năm (Điều 21);

Điểm mới của Luật cạnh tranh 2018 so với Luật cạnh trạnh 2004

– Xác định sức mạnh thị trường đánh kể (Điều 26);

– Đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của việc tập trung kinh tế (Điều 31);

– Đánh giá tác động tích cực của việc tập trung kinh tế (Điều 32);

– Thẩm định việc tập trung kinh tế: thẩm định, quyết định về việc tập trung kinh tế; tập trung kinh tế có điều kiện, hành vi vi phạm quy định về tập trung kinh tế (từ Điều 36 đến Điều 40);

– Quyết định về việc tập trung kinh tế và Tập trung kinh tế có điều kiện (Điều 41, 42);

– Các hành vi vi phạm quy định về tập trung kinh tế (Điều 44);

– Lập nên Ủy ban cạnh tranh quốc gia, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và các hoạt động của Ủy ban này (Chương VII).

Mọi chi tiết Qúy bạn đọc hãy liên hệ trực tiếp với chúng tôi để được các luật sư tư vấn cùng đội ngũ chuyên viên pháp lý tư vấn và hỗ trợ giải quyết vấn đề một cách hiệu quả nhất.

Hotline – 038.595.3737 / Email:luatsu@fblaw.vn ( Qúy bạn đọc có thể liên hệ ngay trong trường hợp cấp thiết)