Vi Phạm Luật Cạnh Tranh / Top 14 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Bac.edu.vn

Hành Vi Được Xem Là Vi Phạm Luật Cạnh Tranh

Sự phát triển nhanh của những ngành công nghiệp đã tạo sức ép cạnh tranh lên các doanh nghiệp và dẫn đến tình trạng vi phạm Luật Cạnh tranh. Cùng với công cuộc đối mới và chính sách mở cửa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng ấn tượng trong nhiều năm qua. Kế hoạch dài hạn giúp tạo lợi thế cạnh tranh luôn được đa số các doanh nghiệp triển khai nhằm đạt được thị phần lớn so với đối thủ cùng ngành. Theo Luật Cạnh tranh 2004, nếu các doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau đây bị xem là vi phạm Luật Cạnh tranh.

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Trong Luật Cạnh tranh 2004, không có một điều luật nào quy định về khái niệm “thỏa thuận hạn chế cạnh tranh” mà chỉ quy định hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh này bằng cách liệt kê các hành vi thỏa thuận này tại Điều 8 bao gồm:

Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;

Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ;

Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch vụ;

Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;

Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh;

Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả thuận;

Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ.

Với việc liệt kê các hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh trên cho thấy, pháp luật Việt Nam không quan tâm hình thức thỏa thuận trên được thực hiện công khai hay ngầm mà chỉ dựa vào mục đích đạt được của sự thỏa thuận.

Bán hàng hóa, cũng ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh;

Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng;

Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng;

Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong điều kiện giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh;

Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới;

Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng của doanh nghiệp có vị trí độc quyền;

Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng.

Theo quy định tại Điều 16 Luật Cạnh tranh, tập trung kinh tế là hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh, bao gồm 05 hành vi sau: sáp nhập doanh nghiệp; hợp nhất doanh nghiệp; mua lại doanh nghiệp; liên doanh giữa các doanh nghiệp và các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật.

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Theo Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004 thì “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh được hiểu là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”. Bao gồm các hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh như sau:

Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;

Xâm phạm bí mật kinh doanh;

Ép buộc trong kinh doanh;

Gièm pha doanh nghiệp khác;

Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;

Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh;

Phân biệt đối xử của hiệp hội;

Bán hàng đa cấp bất chính.

PHAN LAW VIETNAMHotline: 1900.599.995 – 0794.80.8888Email: info@phan.vn

Xử Lý Vi Phạm Pháp Luật Cạnh Tranh

Hình thức xử phạt vi phạm pháp luật về cạnh tranh và các biện pháp khắc phục hậu quả

1. Đối với mỗi hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh, tổ chức, cá nhân vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính sau: a) Cảnh cáo; b) Phạt tiền.

2. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về cạnh tranh còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây: a) Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề; b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh.

3. Ngoài các hình thức xử phạt quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về cạnh tranh còn có thể bị áp dụng một hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả sau đây: a) Cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường; b) Chia, tách doanh nghiệp đã sáp nhập, hợp nhất; buộc bán lại phần doanh nghiệp đã mua; c) Cải chính công khai; d) Loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng hoặc giao dịch kinh doanh; đ) Các biện pháp cần thiết khác để khắc phục tác động hạn chế cạnh tranh của hành vi vi phạm.

Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

” Tư vấn luật cạnh tranh

Mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh

1. Đối với hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền hoặc tập trung kinh tế, cơ quan có thẩm quyền xử phạt có thể phạt tiền tối đa đến 10% tổng doanh thu của tổ chức, cá nhân vi phạm trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm.

3. Chính phủ quy định cụ thể mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm quy định của Luật cạnh tranh.

Thẩm quyền xử phạt, xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh

1. Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh có các quyền hạn sau đây: a) Phạt cảnh cáo; b) Phạt tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 118 của Luật cạnh tranh; c) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh; d) Áp dụng các biện pháp quy định tại các điểm c, d và đ khoản 3 Điều 117 của Luật cạnh tranh; đ) Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề; e) Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 Điều 117 của .

2. Cơ quan quản lý cạnh tranh có quyền áp dụng các biện pháp quy định tại điểm a khoản 1, điểm b khoản 2, điểm c khoản 3 Điều 117 và khoản 2 Điều 118 của Luật cạnh tranh.

Thi hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh

1. Sau thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có hiệu lực pháp luật, nếu bên phải thi hành không tự nguyện thi hành, không khởi kiện ra Toà án theo quy định tại Mục 7 Chương này thì bên được thi hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền tổ chức thực hiện quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đó.

” Tư vấn pháp luật cạnh tranh

Hành Vi Nào Được Coi Là Vi Phạm Pháp Luật Cạnh Tranh ?

Được biết uy tín công ty Luật Việt Phong đã lâu, tôi có câu hỏi thắc mắc về những hành vi thế nào được coi là vi phạm luật cạnh tranh theo quy định của pháp luật hiện hành. Mong luật sư tư vấn cho tôi. Xin cám ơn.

Người gửi: Nguyễn Hoàng Hà ( Hưng Yên )

Xin chào bạn! Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình tới luật Việt Phong. Về câu hỏi của bạn, công ty luật Việt Phong xin tư vấn và hướng dẫn cho bạn như sau:

Theo quy định Luật cạnh tranh năm 2004, các hành vi được coi là vi phạm pháp luật cạnh tranh bao gồm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường

Điều 8, Điều 9 Luật cạnh tranh năm 2004 quy định về Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

+Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;

+Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ;

+ Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch vụ;

+Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;

– Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm

+ Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh;

+ Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả thuận;

+ Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ.

Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, hành vi lạm dụng vị trí độc quyền

– Hành vị lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm – Điều 13 Luật cạnh tranh 2004

+Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh;

+ Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng;

+ Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng;

+Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh;

+ Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới.

– Các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm ( Điều 14 Luật cạnh tranh năm 2004)

+Các hành vi quy định tại Điều 13 của Luật này;

+Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng;

+Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng.

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh (tại Điều 39 Luật cạnh tranh 2004)

– Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;

– Xâm phạm bí mật kinh doanh;

– Ép buộc trong kinh doanh;

– Gièm pha doanh nghiệp khác;

– Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;

– Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;

– Phân biệt đối xử của hiệp hội;

– Bán hàng đa cấp bất chính;

– Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo tiêu chí xác định tại khoản 4 Điều 3 của Luật này do Chính phủ quy định.

Có Vi Phạm Luật Cạnh Tranh Khi Bán Giá Thấp Hơn Thị Trường?

Do chi phí sản xuất ở Việt Nam tăng cao, công ty thép X đã đặt một công ty Hong Kong gia công sản xuất sắt xây dựng theo tiêu chuẩn Việt Nam và dán nhãn hiệu thép của của công ty X. Nhờ đó công ty thép X bán sắt xây dựng ở Việt Nam với giá thấp hơn thị trường.

Theo công ty X, các công ty sản xuất thép khác là Y và Z cũng đặt Hong Kong gia công và cùng với X tạo ra cuộc chạy đua giảm giá sắt xây dựng rất được lòng khách hàng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sản xuất thép còn lại, chiếm khoảng 78% thị trường sắt- xây dựng một mặt cáo buộc các công ty X, Y, Z vi phạm luật cạnh tranh, mặt khác cùng đồng ý thực hiện một giá bán tối thiểu chung (giá sàn). Theo yêu cầu của các doanh nghiệp này, hiệp hội các nhà sản xuất thép Việt Nam cũng làm đơn kiến nghị chính phủ ra qui định thực hiện giá sàn về sắt xây dựng. Cho mình hỏi:

– Công ty X có vị phạm luật cạnh tranh không?

– Các doanh nghiệp còn lại có vi phạm luật cạnh tranh không?

– Công ty X có phải thực hiện giá sàn không?

Công ty X có vi phạm luật cạnh tranh không?

Căn cứ theo Khoản 1 Điều 11 Luật Cạnh tranh 2004 thì công ty X không phải doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường:

Nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh và thuộc một trong các trường hợp sau đây:

Hơn nữa, công ty X cùng với công ty Y, Z có tổng thị phần trên thị trường chiếm 22% cũng chưa thuộc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Do công ty X sản xuất thép với chi phí thấp nên giá bán thấp hơn trên thị trường là đương nhiên.

Các doanh nghiệp còn lại có vi phạm luật cạnh tranh không?

Theo Khoản 1 Điều 8 và Khoản 2 Điều 9 Luật Canh tranh 2004 quy định:

“Điều 8. Các thoả thuận hạn chế cạnh tranh

Các thoả thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm:

Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; …”.

“Điều 9. Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm

Tại Điều 14 Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hay gián tiếp như sau:

“Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hay gián tiếp là việc thống nhất cùng hành động dưới một trong các hình thức sau đây:

Áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng.

Tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể.

Áp dụng công thức tính giá chung.

Không chiết khấu giá hoặc áp dụng mức chiết khấu giá thống nhất.

Dành hạn mức tín dụng cho khách hàng.

Không giảm giá nếu không thông báo cho các thành viên khác của thoả thuận.

Sử dụng mức giá thống nhất tại thời điểm các cuộc đàm phán về giá bắt đầu”.

Như vậy, các doanh nghiệp sản xuất thép còn lại chiếm khoảng 78% thị trường sắt- xây dựng đã phối hợp thỏa thuận cùng đồng ý về việc thực hiện một giá bán tối thiểu chung, và còn yêu cầu hiệp hội các nhà sản xuất thép Việt Nam làm đơn kiến nghị chính phủ ra qui định thực hiện giá sàn về sắt xây dựng là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nên vi phạm luật cạnh tranh.

Công ty X có phải thực hiện giá sàn không?

Do thỏa thuận của các doanh nghiệp sản xuất thép còn lại là thỏa thuận vi phạm luật cạnh tranh cho nên công ty X không phải thực hiện giá sàn.

Tăng Phí Rút Tiền Atm: Vietcombank, Agribank, Vietinbank Và Bidv Vi Phạm Luật Cạnh Tranh?

Hoàng Linh

Vietcombank, Agribank, Vietinbank và BIDV là bốn ngân hàng chiếm thị phần lớn thị trường đồng loạt thông báo tăng phí rút tiền nội mạng qua ATM đặt ra câu hỏi liệu có vi phạm luật cạnh tranh?

Trong những ngày qua, nhiều phương tiện thông tin đại chúng phản ánh bốn ngân hàng lớn gồm Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng Nông nghiệp – Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank) và Ngân hàng Đầu tư Phát triển (BIDV) đã đồng loạt thông báo tăng phí rút tiền nội mạng qua ATM từ mức 1.000 đồng lên 1.650 đồng (đã bao gồm thuế giá trị gia tăng) bắt đầu từ ngày 15/7/2023.

Cụ thể, theo thông báo của Vietcombank về việc áp dụng biểu phí thẻ mới, có hiệu lực từ 15/7, ngân hàng này sẽ chính thức tăng phí rút tiền nội mạng ATM lên 1.650 đồng/lần, tăng 550 đồng/lần so với trước đó. Phí chuyển khoản liên ngân hàng trên ATM là 3.300 đồng/giao dịch.

Riêng mức phí rút tiền ngoại mạng của chủ thẻ Vietcombank tại ngân hàng khác vẫn áp dụng là 3.300 đồng/lần nhưng hiện tại; phí chuyển khoản khác hệ thống ngân hàng 5.500 đồng/lần trên máy ATM, in vấn, sao kê tài khoản 550 đồng/giao dịch, phí chuyển tiền liên ngân hàng dưới 10 triệu đồng là 7.700 đồng/giao dịch trong khi phí chuyển tiền liên ngân hàng với giá trị trên 10 triệu đồng mức phí 0,022% giá trị giao dịch/lần giao dịch…

Trước đó, Vietcombank đã từng có thông báo tăng phí rút tiền nội mạng trên máy ATM từ đầu tháng 5 nhưng sau đó đã tạm ngừng áp dụng biểu phí mới. Hai tháng sau khi tạm ngừng, Vietcombank sẽ chính thức tăng loại phí dịch vụ này.

Khi chủ tài khoản Vietcombank chuyển tiền trong cùng hệ thống ngân hàng qua ứng dụng Internet Banking, Mobile Banking, trước đây được miễn phí, thì nay sẽ tốn 2.200 đồng/giao dịch cho khoản tiền dưới 50 triệu đồng và 5.500 đồng/giao dịch nếu chuyển từ 50 triệu đồng trở lên.

Ngân hàng này cũng thay đổi cách tính một số loại phí theo giá trị khoản tiền giao dịch của khách hàng, theo hướng giảm phí nếu khách hàng chuyển số tiền thấp và ngược lại…

Cùng với Vietcombank, hai “ông lớn” khác là VietinBank, BIDV đều áp dụng mức phí rút tiền nội mạng trên máy ATM là 1.650 đồng/lần.

Hành vi vi phạm quy định về kiểm soát hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể bị phạt tiền đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm theo Điều 8, Nghị Định số 71/2014/NĐ-CP hoặc bị xem xét xử lý hình sự theo Điều 217, Bộ Luật hình sự năm 2023 tùy thuộc vào tính chất nghiêm trọng của vụ việc.

Chiếu theo quy định này dưa theo số thị phần 4 “ông lớn” ngành ngân hàng là: Vietcombank, BIDV, VietinBank và Agribank đang nắm giữ 4 ngân hàng đang có dấu hiệu vi phạm luật cạnh tranh.

Trao đổi báo chí, đại diện Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, vừa yêu cầu các ngân hàng thương mại tạm dừng tăng phí rút tiền nội mạng qua ATM từ 15/7 như kế hoạch của các ngân hàng này. Đây là lần thứ 2 trong vòng 2 tháng qua, quyết định tăng loại phí dịch vụ này của 4 “ông lớn” ngân hàng chưa nhận được sự đồng tình từ NHNN.

Đại diện NHNN cho rằng việc tăng phí là quyền tự chủ của các ngân hàng thương mại theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, các ngân hàng cần bảo đảm nguyên tắc minh bạch thông tin và hài hòa lợi ích giữa các bên; tạo đồng thuận, chia sẻ của người sử dụng dịch vụ cũng như bảo đảm chất lượng dịch vụ. Ngoài ra, các ngân hàng cần có thời gian để giải thích rõ cho chủ thẻ mức phí thế nào là phù hợp.

Vừa qua, khi các ngân hàng thương mại lớn đồng loạt quyết định điều chỉnh phí vào đầu tháng 5, dư luận đã phản ứng vì cho rằng chất lượng dịch vụ thẻ, hệ thống ATM cần tiếp tục cải thiện, trong khi ngân hàng liên tục đề xuất tăng các khoản phí dịch vụ.

Ông Nguyễn Nho Trung, Chủ tịch HĐND TP Đà Nẵng nêu quan điểm cần phải xử lý quyết liệt, đúng pháp luật đối với những sai phạm tại Dự án Tổ hợp khách sạn Mường Thanh và căn hộ cao cấp Sơn Trà.

Sáng ngày 11/7, hàng chục khách hàng sau khi cầm sổ tiết kiệm lên hội sở của Oceanbank tại Hà Nội để rút tiền nhưng đều nhận được câu trả lời thông tin cá nhân không khớp với người đi rút thẻ.

Từ ngày 15/7, khách hàng chịu thêm chi phí khi cả 3 “ông lớn” ngành ngân hàng là Vietcombank, VietinBank, BIDV chính thức áp dụng biểu phí dịch vụ thẻ mới trong đó có tăng phí rút tiền ATM nội mạng.