, ZALO 0932091562 at BÁO GIÁ DV VIẾT BÀI TẠI: chúng tôi
Published on
Download luận văn thạc sĩ ngành luật với đề tài: Xử lý vi phạm pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam, cho các bạn tham khảo
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT CHU THỊ NGỌC XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2014
2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT CHU THỊ NGỌC XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS.Nguyễn Đức Minh Hà nội – 2014 [
3. 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Chu Thị Ngọc
4. 4 MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN ………………………………………………………………………………………….1 MỤC LỤC……………………………………………………………………………………………………4 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT …………………………………………………………….6 MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………………………..7 Chương 1……………………………………………………………………………………………………12 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT THUẾ VÀ XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM ………………………………………………………………………………………………………….12 1.1. Khái niệm và phân loại vi phạm pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp ……..12 1.1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp…………………..12 1.1.2. Phân loại vi phạm pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp……………………15 1.2. Khái niệm, đặc điểm và các biện pháp chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế thu nhập doanh nghiệp…………………………………………………………………………………………21 1.2.1. Khái niệm xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế thu nhập doanh nghiệp……….21 1.2.2. Đặc điểm xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế thu nhập doanh nghiệp…………22 1.2.3. Các biện pháp chế tài xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thuế thu nhập doanh nghiệp…………………………………………………………………………………………………24 1.3. Nguyên tắc xử phạt vi phạm pháp luật hành chính về thuế thu nhập doanh nghiệp………………………………………………………………………………………………………………….25 1.3.1. Các nguyên tắc chung …………………………………………………………………………..26 1.3.2. Các nguyên tắc kỹ thuật ………………………………………………………………………..27 1.4. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính về thuế thu nhập doanh nghiệp và các biện pháp khắc phục hậu quả……………………………………………………………………………….28 1.4.1. Các hình thức xử phạt vi phạm pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp ..28 1.4.2. Các biện pháp khắc phục hậu quả………………………………………………………….30 1.5. Quy định thủ tục xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thuế thu nhập doanh nghiệp………………………………………………………………………………………………………………….31 1.5.1. Thủ tục xử phạt đơn giản………………………………………………………………………31 1.5.2. Thủ tục thông thường……………………………………………………………………………32 Chương 2……………………………………………………………………………………………………36 THỰC TRẠNG XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM ………………………………………………………………………….36
5. 5 2.1. Thực trạng hoạt động xây dựng pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế thu nhập doanh nghiệp…………………………………………………………………………………………36 2.2. Thực trạng quy định pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế thu nhập doanh nghiệp ……………………………………………………………………………………………………….39 2.2.1. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế thu nhập doanh nghiệp …………………………………………………………………………..40 2.2.2. Về kỹ thuật xây dựng văn bản quy phạm pháp luật………………………………….40 2.2.3. Sử dụng hình thức công văn để quy định quy phạm pháp luật………………….41 2.2.4. Về nguyên tắc xử phạt đối với hành vi vi phạm ……………………………………….42 2.3. Thực trạng thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế thu nhập doanh nghiệp ……………………………………………………………………………………………………….43 2.3.1. Những kết quả đạt được ………………………………………………………………………..43 2.3.2. Những hạn chế bất cập………………………………………………………………………….46 2.3.3. Nguyên nhân………………………………………………………………………………………..55 2.4. Đánh giá chung về thực trạng xử lý vi phạm pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp………………………………………………………………………………………………………………….57 2.4.1. Quy định của pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật thuế TNDN ……………….57 2.4.2. Thực hiện pháp luật xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế TNDN …………………61 Chương 3……………………………………………………………………………………………………63 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM..63 3.1.Yêu cầu nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp ……………………………………………………………………………………………………………………………63 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật về thuế TNDN nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách pháp luật trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền..63 3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật về thuế TNDN phục vụ yêu cầu hội nhập quốc tế, bảo đảm sự tương thích của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế…………………………………………………………………………………………………………..64 3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp………………………………………………………………………………………………………………….71 3.2.1. Về xây dựng và hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp…………………………………………………………………………………………………71 3.2.2. Về thực hiện pháp luật xử lý vi phạm pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp …………………………………………………………………………………………………………………….78 KẾT LUẬN…………………………………………………………………………………………………87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………88
6. 6 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DN : Doanh nghiệp NSNN : Ngân sách Nhà nước TNDN : Thu nhập doanh nghiệp VAT : Vale Added Tax (Thuế giá trị gia tăng) VPHC : Vi phạm hành chính VPPL : Vi phạm pháp luật XLVPPL : Xử lý vi phạm pháp luật WTO : World Trade Organization (Tổ chức Thương mại thế giới)
7. 7 MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Thuế là công cụ chủ yếu để huy động nguồn thu cho ngân sách quốc gia và đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội và chi tiêu cho bộ máy nhà nước. Cùng với sự phát triển của kinh tế – xã hội, hệ thống chính sách pháp luật thuế luôn có sự thay đổi nhằm góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển đúng hướng, từng bước thực hiện bình đẳng, công bằng xã hội, đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngày càng gia tăng của nhà nước. Thuế thu nhập doanh nghiệp là khoản thu quan trọng và chiếm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu thu NSNN. Ở hầu hết các nước phát triển, thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế trực thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu NSNN. Ở Việt Nam, tỷ trọng thuế thu nhập doanh nghiệp trong tổng số thu NSNN ước thực hiện năm 2009 là 25,3%; năm 2010 là 25,7% và 6 tháng đầu năm 2011 là 26,5% [www.mof.gov.vn]. Cùng với xu hướng tăng trưởng kinh tế, quy mô của các hoạt động kinh tế ngày càng được mở rộng, hiệu quả kinh doanh ngày càng cao sẽ tạo ra nguồn thu về thuế thu nhập doanh nghiệp ngày càng lớn cho NSNN. Thế nhưng, trong thời gian qua, các hành vi vi phạm pháp luật về thuế, cụ thể gồm các hành vi trốn thuế, gian lận thuế đã và đang gây thất thu không nhỏ cho NSNN. Những hành vi trốn thuế, gian lận thuế ngày càng diễn biến phức tạp, quy mô ngày càng lớn với các thủ đoạn rất tinh vi như: Tạo giao dịch mua, bán hàng giả mạo; Hạch toán kế toán và kê khai thuế sai quy định pháp luật; Buôn lậu; Khai sai chủng loại hàng xuất khẩu, nhập khẩu; Chuyển giá… Những hành vi trên một mặt làm cho tính hiệu lực, hiệu quả của chính sách pháp luật thuế giảm sút, gây thất thu cho NSNN, mặc khác tạo ra sự bất công bằng trong thực hiện nghĩa vụ về thuế giữa những người nộp thuế, tạo ra môi trường kinh doanh không minh bạch…
10. 10 Đồng thời, xuất phát từ thực tế, các hành vi vi phạm pháp luật thuế TNDN đa số bị xử lý là các hành vi hành chính, do đó, đề tài đi sâu hơn vào các hành vi hành chính, các chế tài hành chính đối với các hành vi đó. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Việc tiếp cận đề tài, nghiên cứu, phân tích, nhận xét, đánh giá và đề xuất kiến nghị, giải pháp được dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin, của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật, trong đó có lý luận về thuế, về vi phạm pháp luật, về phòng ngừa, đấu tranh, xử lý vi phạm pháp luật. Trong nghiên cứu và biên soạn luận văn, người nghiên cứu sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống hóa, phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp thống kê. Cụ thể: – Phương pháp phân tích, tổng hợp Luận văn kế thừa, tổng kết lại những kết quả của các công trình nghiên cứu về xử lý vi phạm pháp luật thuế nói chung, thuế TNDN nói riêng. Tuy nhiên, đây không phải là sự sao chép vì đã có sự sắp xếp theo kết cấu khác theo góc nhìn của tác giả. – Phương pháp so sánh So sánh việc xử lý vi phạm pháp luật thuế TNDN của nước ta trong một số giai đoạn khác nhau; So sánh pháp luật xử lý vi phạm về thuế TNDN của nước ta với các nước trên thế giới. – Các phương pháp của xã hội học pháp luật Phân tích cơ sở xã hội của việc xử lý vi phạm. – Phương pháp của thống kê xã hội học Từ những kết quả thống kê, điều tra, khảo sát về thực trạng vi phạm và xử lý vi phạm pháp luật thuế TNDN để đề ra những giải pháp hợp lý.
12. 12 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT THUẾ VÀ XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và phân loại vi phạm pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp 1.1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp Cơ sở của việc xử lý vi phạm về thuế TNDN là có hành vi vi phạm pháp luật thuế TNDN được pháp luật quy định. Việc nghiên cứu về khái niệm vi phạm pháp luật thuế TNDN có ý nghĩa lý luận quan trọng và mang tính thực tiễn sâu sắc, bởi lẽ, chỉ khi định nghĩa đúng về vi phạm pháp luật về thuế TNDN mới có thể xác định được các hành vi phạm cụ thể trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Khi truy cứu trách nhiệm pháp lý hoặc áp dụng hình thức xử phạt, thông thường chúng ta đều phải xác định hành vi vi phạm của người vi phạm. Xác định được đúng hành vi vi phạm pháp luật (tức là xác định đúng cơ sở xử phạt) thì việc thực hiện xử phạt mới đúng đắn, mới đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của tổ chức và cá nhân, phát huy được hiệu quả và mục đích của việc xử phạt vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thuế TNDN là nhằm lập lại trật tự quản lý nhà nước bị xâm hại, góp phần giáo dục người vi phạm và cảnh báo, phòng ngừa vi phạm trong tương lai và tránh được sự tùy tiện trong việc xử phạt. Theo Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật [18, tr. 537]: Vi phạm pháp luật là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến các lợi ích được bảo vệ bằng ngành luật tương ứng hoặc trái với các quy định được quy định trong ngành luật ấy, do người có năng lực trách nhiệm pháp lý và đủ tuổi chịu trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách có lỗi. Theo giáo trình Luật Thuế Việt Nam [26, tr. 337]: Vi phạm pháp luật được hiểu là hành vi làm trái các quy định của pháp luật, do tổ chức hoặc cá
13. 13 nhân thực hiện với một lỗi xác định (cố ý hoặc vô ý), gây thiệt hại đến lợi ích chung và do đó phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi đó của mình. Từ các quan niệm trên, theo nghĩa rộng, vi phạm pháp luật về thuế TNDN được hiểu là việc tổ chức, cá nhân và các chủ thể khác tham gia quan hệ pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ một cách cố ý hoặc vô ý nghĩa vụ và trách nhiệm thu, nộp thuế và làm dịch vụ về thuế TNDN do pháp luật quy định, làm phát sinh những hậu quả pháp lý đối với hành vi đó. Theo nghĩa rộng như vậy, vi phạm pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp không chỉ được pháp luật về quản lý thuế điều chỉnh, mà còn được nhiều quy định pháp luật khác điều chỉnh như: Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Luật xử lý vi phạm hành chính .v.v. Chủ thể vi phạm pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp không chỉ có người nộp thuế, mà cả người thu thuế (cơ quan, cán bộ, công chức thuế), các tổ chức làm dịch vụ thuế .v.v. Theo nghĩa hẹp, vi phạm pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp là hành vi của các tổ chức, cá nhân và các chủ thể khác trong quan hệ pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ một cách cố ý hoặc vô ý các quy định của pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp và pháp luật quản lý thuế, làm phát sinh hậu quả pháp lý đối với hành vi đó. Ở nghĩa hẹp nhất, vi phạm pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp được hiểu là các hành vi vi phạm được quy định ở Điều 103 Luật Quản lý thuế năm 2006 do người nộp thuế thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, làm phát sinh hậu quả pháp lý bất lợi mà người thực hiện hành vi đó phải gánh chịu. Luận văn tiếp cận khái niệm vi phạm pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp theo nghĩa hẹp nhất này. Trước tiên cần phải khẳng định vi phạm pháp luật về thuế TNDN là một loại vi phạm pháp luật. Nó mang đầy đủ những dấu hiệu đặc trưng của vi
15. 15 Về phương diện chủ quan, vi phạm pháp luật thuế bao giờ cũng phản ánh mức độ lỗi (cố ý hoặc vô ý) của người thực hiện. Tính chất có lỗi của người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật thuế thể hiện ở chỗ, chủ thể của hành vi hoàn toàn có khả năng tránh được sự vi phạm nhưng họ đã không tránh hoặc cố ý thực hiện hành vi vi phạm vì một động cơ hay mục đích thúc đẩy. Tính chất có lỗi của hành vi vi phạm pháp luật thuế được xem là một trong số các căn cứ để xác định và truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với người thực hiện hành vi. Trong mặt chủ quan của nhiều vi phạm, yếu tố động cơ, mục đích vi phạm cũng được tính đến khi xem xét để quyết định các hình thức và mức xử phạt cụ thể. Về phương diện khách thể, hành vi vi phạm pháp luật thuế đã phương hại đến những lợi ích cụ thể được pháp luật bảo vệ. Những lợi ích này có thể chỉ là lợi ích riêng của tổ chức, cá nhân hoặc lợi ích chung của toàn xã hội. Tùy thuộc vào mức độ xâm hại của hành vi vi phạm pháp luật thuế đến lợi ích (khách thể) mà người ta xác định được mức độ cũng như loại chế tài tương ứng sẽ áp dụng đối với hành vi đó. Chẳng hạn, đối với hành vi trốn thuế, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi (thường được xác định dựa vào mức tiền thuế trốn lậu) mà hành vi này có thể bị xử lý hành chính theo Luật xử lý vi phạm hành chính hoặc xử lý hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam. Khi xem xét, đánh giá một hành vi trái pháp luật có phải là vi phạm pháp luật hay không, cần xem xét đầy đủ các dấu hiệu, yếu tố cấu thành pháp lý của vi phạm; từ đó có thể xác định là vi phạm gì để chọn chế tài đúng. 1.1.2. Phân loại vi phạm pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp Trong thực tiễn pháp lý, các hành vi vi phạm pháp luật thuế diễn ra rất đa dạng, tinh vi và phức tạp, với nhiều dạng thức khác nhau. Việc phân loại các vi phạm pháp luật về thuế không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng, đặc biệt là giúp cho các nhà làm luật xây
16. 16 dựng được cơ chế xử lý phù hợp, thỏa đáng đối với từng nhóm loại và từng hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Đương nhiên, cho dù các vi phạm này tồn tại dưới những hình thức nào thì về phương diện bản chất, mỗi vi phạm đó đều thuộc về một trong các loại hình vi phạm chủ yếu sau đây: * Theo mức độ vi phạm – Vi phạm hành chính về thuế TNDN Trên nguyên tắc, do đa số các quy định pháp luật về thuế nói chung, thuế TNDN nói riêng, thuộc loại quy phạm pháp luật hành chính nên phần lớn những hành vi vi phạm pháp luật về thuế TNDN diễn ra trong thực tế thuộc loại vi phạm hành chính. Về mặt lý thuyết, vi phạm hành chính về thuế là hành vi (hành động hoặc không hành động) trái pháp luật, có lỗi (cố ý hoặc vô ý) do cá nhân có năng lực trách nhiệm hành vi hành chính hoặc tổ chức thực hiện, xâm phạm trật tự nhà nước và xã hội, trật tự quản lý, sở hữu của Nhà nước, của tổ chức và của cá nhân, xâm phạm các quyền tự do và lợi ích hợp pháp của công dân mà theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm hành chính [29, tr. 393] Giáo trình Đại học Luật cho rằng, vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế TNDN là hành vi làm trái các quy định pháp luật hành chính trong lĩnh vực thuế, do tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến những lợi ích được pháp luật hành chính bảo vệ nhưng chưa đến mức xử lý hình sự và phải chịu trách nhiệm hành chính [26, tr. 340]. Như vậy, có thể nhận diện các vi phạm hành chính về thuế TNDN thông qua những đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản sau đây: Một là đối tượng vi phạm của các hành vi vi phạm hành chính về thuế TNDN chính là các quy phạm pháp luật hành chính về thuế TNDN. Các quy phạm pháp luật này cụ thể được thể hiện trong đạo luật về thuế TNDN năm 2008; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNDN năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
17. 17 Hai là loại trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với những vi phạm này chỉ có thể là trách nhiệm hành chính. Theo Luật Xử lý vi phạm hành chính ngày 20/6/2012; Nghị định số 129/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, các biện pháp xử phạt chính được áp dụng đối với những hành vi vi phạm hành chính về thuế bao gồm: phạt cảnh cáo; phạt tiền. Ngoài ra, tùy thuộc vào tính chất và mức độ vi phạm mà người vi phạm còn có thể bị áp dụng biện pháp xử phạt bổ sung là đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm hành chính về thuế. Ba là việc tuyên bố một hành vi là vi phạm hành chính về thuế, vốn dĩ thuộc thẩm quyền của các cơ quan hành chính và các công chức hành chính có thẩm quyền. Thông thường, sự tuyên bố này được thể hiện bằng một quyết định xử phạt vi phạm hành chính được ban hành theo đúng thể thức luật định. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế TNDN bao gồm các dạng cơ bản sau đây: + Vi phạm các quy định về đăng ký thuế; kê khai thuế; cung cấp thông tin về thuế; nộp thuế, quyết toán thuế: Về nguyên tắc, việc đăng ký thuế, kê khai thuế và quyết toán thuế đúng luật là nghĩa vụ pháp lý của người nộp thuế. Có thể hình dung hành vi vi phạm nghĩa vụ này của người nộp thuế bao gồm: Hành vi đăng ký thuế quá thời hạn do luật định; hành vi kê khai thuế không chính xác hoặc nộp tờ khai thuế quá thời hạn luật định; hành vi lập quyết toán thuế sai quy trình luật định hoặc nộp quyết toán thuế quá thời hạn luật định. + Vi phạm các quy định về thu, nộp tiền thuế, tiền phạt: các nhà làm luật thông thường luôn đặt ra một thời hạn cố định, lấy đó làm mức chuẩn và căn cứ vào đó để người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước. Quá thời hạn này, người nộp thuế sẽ bị xác định là có hành vi vi phạm.
19. 19 sự về thuế đều được coi là tội phạm và đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự và bị áp dụng hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự. Bốn là việc tuyên bố một hành vi vi phạm hình sự về thuế là tội phạm, chỉ thuộc thẩm quyền của tòa án. Trên nguyên tắc, sự tuyên bố này phải được thể hiện bằng một bản án hoặc quyết định xét xử do tòa án tuyên theo đúng thể thức luật định. Theo quy định của pháp luật hiện hành ở Việt Nam [19] [Điều 161, 278, 279, 281, 282, 285] các hành vi vi phạm hình sự trong lĩnh vực thuế được coi là tội phạm bao gồm các dạng cơ bản sau đây: – Tội trốn thuế (Điều 161 Bộ luật hình sự); – Tội tham ô tài sản (Điều 278 Bộ luật hình sự); – Tội nhận hối lộ (Điều 279 Bộ luật hình sự); – Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 281 Bộ luật hình sự) – Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 285 Bộ luật hình sự)… * Theo chủ thể vi phạm Việc phân loại xử lý vi phạm pháp luật theo từng chủ thể có ý nghĩa quan trọng, bởi trên thực tế, một số các chế tài chỉ được áp dụng đối với một nhóm chủ thể xác định. Có thể liệt kê như sau: – Vi phạm pháp luật về thuế của người nộp thuế: Về nguyên tắc, việc đăng ký thuế, kê khai thuế và quyết toán thuế đúng luật là nghĩa vụ pháp lý của người nộp thuế. Có thể hình dung hành vi vi phạm nghĩa vụ này của người nộp thuế bao gồm: Hành vi đăng ký thuế quá thời hạn do luật định; hành vi kê khai thuế không chính xác hoặc nộp tờ khai thuế quá thời hạn luật định; hành vi lập quyết toán thuế sai quy trình luật định hoặc nộp quyết toán thuế quá thời hạn luật… – Vi phạm pháp luật về thuế của cơ quan quản lý thuế
21. 21 hành chính hay chế tài hình sự về thuế. Trong thực tiễn, chế tài xử lý đối với loại vi phạm này được thực hiện chủ yếu bằng việc Nhà nước không thừa nhận giá trị pháp lý của các văn bản do người nộp thuế lập hoặc do cơ quan có thẩm quyền lập không đúng với hình thức luật định trong quá trình hành thu thuế. 1.2. Khái niệm, đặc điểm và các biện pháp chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế thu nhập doanh nghiệp 1.2.1. Khái niệm xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế thu nhập doanh nghiệp Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, được đảm bảo thực hiện bằng Nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định xã hội vì sự phát triển bền vững của xã hội [18, tr. 288]. Pháp luật có ba chức năng chính: điều chỉnh, bảo vệ và giáo dục. Sở dĩ pháp luật có chức năng bảo vệ vì trong xã hội vẫn tồn tại những “vi phạm pháp luật” – là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến các lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích của công dân, do người có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách có lỗi [18, tr. 537]. Và người vi phạm pháp luật phải chịu trách nhiệm pháp lý – hậu quả của vi phạm pháp luật và được thể hiện trong việc cơ quan nhà nước (người có chức vụ) có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế (chế tài xử lý) [18, tr. 550]. Các biện pháp chế tài được áp dụng để đảm bảo sự tuân thủ Luật thuế bao gồm các biện pháp cưỡng chế hành chính và cưỡng chế tư pháp. Tại khoản 2, điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định, Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi
22. 22 phạm hành chính. Và Luật cũng quy định 3 nhóm biện pháp có thể được áp dụng đối với vi phạm hành chính: Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính; Các biện pháp khắc phục hậu quả; Các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và đảm bảo việc xử phạt vi phạm hành chính. Áp dụng các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả chính là hai nhóm biện pháp trách nhiệm hành chính theo lý luận nêu trên. Còn các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và đảm bảo việc xử phạt vi phạm hành chính là các biện pháp ngăn chặn hành chính, được áp dụng trong các trường hợp cần thiết phải ngăn chặn, dập tắt những vi phạm hành chính, đảm bảo việc xử phạt hay ngăn chặn những hậu quả thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra [29, tr. 378]. Tại Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009 không quy định về khái niệm xử lý vi phạm hình sự trong lĩnh vực thuế. Nhưng tại Khoản 8, Điều 1 Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009 cũng đã quy định cụ thể về trách nhiệm pháp lý đối với tội trốn thuế. Theo đó, khi người nộp thuế có hành vi vi phạm nghiêm trọng tới mức truy cứu trách nhiệm hình sự với tội trốn thuế, thì sẽ bị xử phạt với hình thức xử phạt chính là phạt tiền hoặc phạt tù. Vậy, có thể kết luận xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế TNDN là việc các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp chế tài (gồm chế tài hành chính hoặc chế tài hình sự) đối với những cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật. 1.2.2. Đặc điểm xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế thu nhập doanh nghiệp – Cơ sở để xử lý vi phạm là có vi phạm Không có vi phạm thì không có trách nhiệm, không có chế tài. Cơ sở để xử phạt vi phạm hành chính là vi phạm hành chính, cũng như cơ sở của
23. 23 trách nhiệm hình sự là tội phạm, của trách nhiệm dân sự là vi phạm quan hệ dân sự, của trách nhiệm kỷ luật là vi phạm kỷ luật. – Hoạt động xử lý vi phạm chủ yếu do các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng và được áp dụng theo một thủ tục, trình tự chặt chẽ và thống nhất. Do các vi phạm về thuế TNDN đa phần là những vi phạm nhỏ và phổ biến nên việc xử lý được quy định rất cụ thể trong Luật xử lý vi phạm hành chính nói chung, các quy định xử lý vi phạm về thuế nói riêng. Đối với việc xử lý hành chính, không phải bất kỳ cơ quan quản lý nhà nước nào cũng có thẩm quyền XLVPHC về thuế mà chỉ có Cơ quan Thuế, Cơ quan Hải quan mới được nhà nước trao quyền hạn này. Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính, cũng như việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính nói chung, nằm ngoài hoạt động xét xử của Tòa án. Còn các biện pháp trách nhiệm hình sự, dân sự được thực hiện theo trình tự xét xử của tòa án. Thủ tục XLVPHC đơn giản hơn so với thủ tục áp dụng cưỡng chế hình sự và dân sự. – Hoạt động xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế TNDN không chỉ nhằm đảm bảo thực hiện, bảo vệ các quy phạm vật chất của ngành luật hành chính, luật hình sự mà còn đảm bảo thực hiện và bảo vệ các quy phạm vật chất của các ngành luật khác (như luật tài chính, ngân hàng, đất đai, môi trường…) – Giữa cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền thực hiện xử phạt vi phạm hành chính (hình sự) và chủ thể bị áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính (hình sự) không có quan hệ trực thuộc. Đây là đặc điểm quan trọng phân biệt việc áp dụng biện pháp xử phạt vi phạm hành chính (hình sự) và các biện pháp cưỡng chế kỷ luật – dạng cưỡng chế mà cơ quan quản lý nhà nước cũng có quyền áp dụng rộng rãi trong hoạt động của mình. Giữa chủ thể có thẩm quyền áp dụng cưỡng chế kỷ luật và người bị áp dụng biện pháp cưỡng chế đó phải có quan hệ trực thuộc.
26. 26 Các nguyên tắc xử lý vi phạm pháp luật về thuế nói chung, thuế TNDN nói riêng được coi là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho toàn bộ quá trình xử lý vi phạm pháp luật về thuế. Tại Nghị định số 129/2013 không quy định về các nguyên tắc xử lý vi phạm pháp luật về thuế, nhưng tại Thông tư số 166/2013 đã ghi nhận và quy định về các nguyên tắc xử phạt vi phạm pháp luật về thuế. Theo đó, bao gồm những nguyên tắc xử phạt cơ bản sau: 1.3.1. Các nguyên tắc chung – Nguyên tắc pháp chế Pháp chế là nguyên tắc hiến định được áp dụng trong tổ chức và hoạt động của mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, trong hành vi của công dân. Trong lĩnh vực thuế, nội dung nguyên tắc này thể hiện: + Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế khi có hành vi vi phạm hành chính về thuế do pháp luật quy định (Khoản 4, Điều 2 Thông tư 166/2013) + Việc xử phạt vi phạm hành chính về thuế phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng (Khoản 3, Điều 2 Thông tư 166/2013) – Mọi hành vi vi phạm hành chính về thuế được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh. Mọi hậu quả do vi phạm hành chính về thuế gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật (Khoản 1, Điều 2 Thông tư 166/2013) Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan thuế có thẩm quyền phải phản ứng mau lẹ với các hành vi vi phạm, tuân theo nghiêm ngặt những quy định về thời hiệu xử phạt và thực hiện quyết định xử phạt một cách khách quan với sự tính toán đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng, các yếu tố nhân thân người vi phạm và các yếu tố khác; xử lý đúng người, đúng vi phạm, không thiên vị; chỉ được chọn các chế tài, biện pháp xử lý đã được pháp luật quy định. Do các vi phạm trong lĩnh vực thuế mang tính chất đặc thù vì vậy, khi phát hiện
27. 27 hành vi vi phạm yêu cầu cơ quan thuế phải có biện pháp ngăn chặn, đình chỉ kịp thời, tránh mọi thiệt hại có thể xảy ra. – Việc xử phạt vi phạm hành chính về thuế được tiến hành nhanh chóng, kịp thời, công khai, minh bạch, khách quan, đúng thẩm quyền, đảm bảo công bằng, đúng quy định của pháp luật. Cơ quan Thuế chỉ được thực hiện những gì trong phạm vi pháp luật quy định. Thực hiện đúng các nguyên tắc trên, người nộp thuế chỉ bị xử phạt đối với những hành vi đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. 1.3.2. Các nguyên tắc kỹ thuật – Một hành vi vi phạm pháp luật về thuế chỉ bị xử phạt một lần Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng trong việc xử lý vi phạm pháp luật thuế TNDN. Nhằm tránh tình trạng lạm quyền, hay chồng chéo về thẩm quyền các nhà làm luật đã quy định rất rõ ràng “một hành vi vi phạm – chỉ bị xử phạt một lần”. Nguyên tắc này cũng phù hợp với tinh thần pháp luật dân chủ tại Việt Nam, cũng như phù hợp với tinh thần luật pháp quốc tế. – Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về thuế có trách nhiệm chứng minh hành vi vi phạm hành chính về thuế của cá nhân, tổ chức. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính về thuế. – Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính về thuế thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân, trừ mức phạt tiền đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn quy định tại Điều 107 Luật quản lý thuế. Đây là một trong những điểm mới của pháp luật xử lý vi phạm hành chính về thuế. So với Nghị định số 98/2007, thì tại Nghị định số 129/2013 đã ghi nhận rõ trách nhiệm của tổ chức khi thực hiện hành vi vi phạm sẽ bị áp
28. 28 dụng mức phạt tiền cao hơn gấp 02 lần so với cá nhân thực hiện hành vi vi phạm. 1.4. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính về thuế thu nhập doanh nghiệp và các biện pháp khắc phục hậu quả Theo lý luận về trách nhiệm hành chính thì có hai nhóm biện pháp trách nhiệm hành chính là các hình thức xử phạt VPHC và các biện pháp khắc phục hậu quả (biện pháp khôi phục các quyền và lợi ích đã bị VPHC xâm hại). Do vậy, tiếp nhận tư tưởng chung đó, đối với phạm vi thuế TNDN được quy định cụ thể như sau: 1.4.1. Các hình thức xử phạt vi phạm pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp * Khái niệm hình thức phạt chính và hình thức phạt bổ sung Các pháp lệnh cũ và mới hay luật đều đặt ra hai hình thức xử phạt hành chính: hình thức phạt chính và hình thức phạt bổ sung. Khái niệm các hình thức phạt chính và hình thức phạt bổ sung cũng như cách thức áp dụng chúng được quy định tương tự như luật hình sự. Hình thức phạt chính được áp dụng một cách độc lập, nghĩa là đối với mỗi vi phạm có thể áp dụng một hình thức phạt chính mà không nhất thiết phải áp dụng các hình thức phạt bổ sung kèm theo, nhưng chỉ có thể áp dụng một trong những hình thức phạt chính mà thôi. Hình thức phạt bổ sung không được áp dụng một cách độc lập, mà bao giờ cũng được áp dụng kèm theo một hình thức phạt chính nào đó. * Các hình thức phạt chính – Cảnh cáo Theo Khoản 1, Điều 3 Nghị định số 129/2013 thì: “Phạt cảnh cáo áp dụng đối với hành vi vi phạm thủ tục thuế không nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ và theo quy định áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo.”
29. 29 Cần phân biệt cảnh cáo trong xử lý vi phạm hành chính và cảnh cáo theo luật hình sự, luật lao động: Trong luật hình sự, hình phạt cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ song chưa được miễn hình phạt và do tòa án quyết định. Sau một năm kể từ ngày tòa án tuyên phạt cảnh cáo nếu từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án người đó không phạm tội mới thì được xóa án tích [19, Điều 64]. Biện pháp cảnh cáo trong xử lý vi phạm pháp luật thuế chủ yếu do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền (người có chức vụ) thực hiện. Người bị xử lý vi phạm với hình thức cảnh cáo nếu sau một năm kể từ ngày bị xử phạt mà không thực hiện vi phạm mới thì được coi là chưa vi phạm pháp luật hành chính về thuế. Cảnh cáo trong xử lý vi phạm pháp luật thuế cũng khác so với hình thức kỷ luật cảnh cáo trong trách nhiệm kỷ luật. Cảnh cáo trong trách nhiệm kỷ luật được lưu trong hồ sơ cá nhân, do vậy nó đóng vai trò khác hơn so với cảnh cáo trong lĩnh vực thuế. – Phạt tiền Phạt tiền là hình thức xử phạt mà theo đó người vi phạm phải nộp phạt bằng tiền mặt. Khoản 2, điều 3 Nghị định 129/2013 quy định các khung phạt tiền khác nhau áp dụng cho mỗi loại VPHC về thuế. Phạt tiền trong xử lý vi phạm hành chính về thuế khác với phạt tiền trong luật hình sự. Trong xử lý vi phạm hành chính, phạt tiền là hình thức phạt chính, do Cơ quan Thuế có thẩm quyền áp dụng. Còn trong luật hình sự, phạt tiền là hình phạt chính hoặc có thể là hình phạt bổ sung do tòa án quyết định, người bị phạt tiền phải mang án tích. Trình tự phạt tiền trong luật hình sự phức tạp hơn thủ tục phạt tiền trong luật hành chính. Phạt tiền trong xử lý vi phạm hành chính về thuế cũng khác phạt tiền trong luật dân sự. Người bị phạt tiền trong xử lý hành chính thuế chịu trách
31. 31 tiền thuế đối với số thuế trốn, số thuế gian lận (Khoản 6, Điều 11 Nghị định số 129/2013) – Buộc tiêu huỷ hoá đơn, chứng từ, sổ sách kế toán in, phát hành trái quy định của pháp luật, trừ hoá đơn, chứng từ, sổ kế toán là tang vật phải lưu giữ làm chứng cứ xử lý vụ việc vi phạm. 1.5. Quy định thủ tục xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thuế thu nhập doanh nghiệp Việc xử lý vi phạm pháp luật thuế TNDN được tiến hành chủ yếu bằng con đường hành chính theo quy định của các quy phạm thủ tục hành chính, nên thủ tục xử lý vi phạm pháp luật thuế TNDN là một loại thủ tục hành chính. Có thể thấy, thủ tục xử lý vi phạm pháp luật thuế là trình tự và cách thức thực hiện các hành động trong việc xử lý vi phạm pháp luật thuế. Đây là loại thủ tục hành chính quan trọng. Vì vậy, quy định cụ thể và khoa học về thủ tục này có vai trò quan trọng bảo đảm pháp chế trong quản lý nhà nước, trong việc bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân. Các hành động cần phải tiến hành trong việc xử lý vi phạm hành chính về thuế TNDN diễn ra kế tiếp nhau theo trình tự thời gian căn cứ tính chất nội dung và mục đích của những hành động đó chúng tạo thành những giai đoạn (bước). Nhà làm luật chia ra hai loại: thủ tục thông thường và thủ tục đơn giản. 1.5.1. Thủ tục xử phạt đơn giản. Theo Điều 21, Thông tư số 166/2013/TT-BTC ngày 15/11/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện xử lý vi phạm pháp luật về thuế, thủ tục xử phạt đơn giản được áp dụng để xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức, đối với những vi phạm nhỏ, gây thiệt hại không lớn và thực hiện lần đầu. Theo thủ tục đơn giản thì người có thẩm quyền xử phạt không phải
32. 32 lập biên bản, nhưng phải ra quyết định xử phạt tại chỗ. Quyết định đó được gửi cho đối tượng bị xử phạt và cho cơ quan thu tiền phạt. Tuy nhiên, quyết định xử phạt phải thể hiện bằng văn bản theo quy định. Doanh nghiệp khi bị xử phạt theo thủ tục đơn giản có thể nộp tiền phạt tại chỗ cho người có thẩm quyền xử phạt và nhận biên lai thu tiền phạt do Bộ Tài chính phát hành (mẫu số CTT11). Trong trường hợp doanh nghiệp không nộp tiền phạt tại chỗ thì sẽ nộp tiền phạt tại Kho bạc Nhà nước trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày giao quyết định xử phạt. 1.5.2. Thủ tục thông thường Đối với những vi phạm pháp luật khác thì thủ tục thông thường gồm các giai đoạn: – Khởi xướng việc xử lý VPHC Chỉ khi chủ thể có thẩm quyền theo luật định có quyết định cho tiến hành điều tra về vi phạm hành chính để xử phạt hoặc quyết định chuyển vụ vi phạm cho chủ thể có thẩm quyền khác để giải quyết thì mới coi là có giai đoạn này. Việc phát hiện vi phạm pháp luật thuế của doanh nghiệp chỉ tạo điều kiện cho việc khởi xướng chứ không được coi là hành động pháp lý của giai đoạn khởi xướng. – Chuẩn bị xử lý vi phạm Đây là giai đoạn cơ bản của thủ tục xử lý vi phạm pháp luật thuế TNDN. Trong quá trình chuẩn bị bị phạt có thể phải áp dụng các biện pháp ngăn chặn vi phạm pháp luật và đảm bảo cho việc xử phạt vi phạm pháp luật thuế. Giai đoạn này thường nhanh chóng, đơn giản nhưng cũng có khi phức tạp. Biên bản là văn bản hành chính cơ bản có giá trị pháp lý của giai đoạn này, là chứng cứ pháp lý ghi nhận sự việc xảy ra. Căn cứ vào biên bản đó mà cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định xử lý hoặc không. Trong một vụ
33. 33 việc có thể lập nhiều biên bản. Vì có ý nghĩa quan trọng như vậy nên biên bản phải lập đúng quy cách về thể thức và nội dung theo đúng quy định. Pháp luật hiện hành không có quy định riêng về biên bản lập khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn mà chỉ có quy định tại Điều 22 Thông tư số 166/2013/TT-BTC ngày 15/11/2013 quy định chi tiết về xử phạt vi phạm hành chính thuế về “Lập biên bản vi phạm hành chính về thuế”. Nhưng có thể coi biên bản đó áp dụng chung cho cả biên bản khi thực hiện các biện pháp ngăn chặn. – Ra quyết định xử lý vi phạm hành chính về thuế Đây là giai đoạn trung tâm của thủ tục. Luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành quy định thời gian tối đa kể từ ngày lập biên bản về vi phạm hành chính đến ngày phải ra quyết định xử lý vi phạm hành chính là 07 ngày, trong trường hợp vi phạm có nhiều tình tiết phức tạp thì có thể kéo dài thời hạn tối đa là 30 ngày. Phù hợp với quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính, tại Điều 27 Thông tư số 166/2013/TT-BTC ngày 15/11/2013 quy định chi tiết về xử phạt vi phạm hành chính thuế thì thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế không quá 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản về hành vi vi phạm. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà không thuộc trường hợp giải trình hoặc đối với vụ việc thuộc trường hợp được giải trình thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính về thuế. Trong lĩnh vực thuế thì Quyết định xử phạt phải tuân theo đúng thể thức và nội dung theo quy định của pháp luật. Tại Nghị định số 98/2007/NĐ- CP, thể thức và nội dung của Quyết định xử phạt VPHC về thuế được quy định tại Điều 24, tuy nhiên Điều 24 không quy định cụ thể mà dẫn chiếu thực hiện theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính. Việc dẫn chiếu trên đã được khắc phục tại Thông tư số 166/2013/TT-BTC ngày 15/11/2013
34. 34 quy định chi tiết về xử phạt vi phạm hành chính thuế. Theo đó, thể thức và nội dung của Quyết định xử phạt VPHC về thuế đã được quy định rất rõ ràng và cụ thể. Mẫu biên bản và quyết định sử dụng trong xử lý vi phạm pháp luật về thuế tại Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư số 166/2013/TT-BTC trên. Căn cứ vào các mẫu biên bản, mẫu quyết định, tùy theo từng trường hợp cụ thể mà có thể bổ sung thêm dòng vào các chỉ tiêu đảm bảo phản ánh đủ các nội dung hành vi vi phạm trong quá trình lập biên bản và ra quyết định xử phạt. Quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế có hiệu lực kể từ ngày ký, trừ trường hợp trong quyết định quy định ngày có hiệu lực khác. Nếu xét thấy việc vi phạm có dấu hiệu cấu thành tội phạm mà chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì không được xử lý hành chính vi phạm pháp luật, mà trong thời hạn 03 ngày phải chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra hình sự có thẩm quyền giải quyết (Điều 24 Thông tư số 166/2013/TT- BTC). Còn đối với những tội phạm đã được đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án mà nếu có dấu hiệu vi phạm hành chính về thuế, thì cơ quan tiến hành tố tụng hữu quan trong thời hạn 03 ngày phải chuyển hồ sơ đến cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật hành chính về thuế để giải quyết (Điều 25 Thông tư số 166/2013/TT-BTC). – Thi hành quyết định xử lý vi phạm pháp luật về thuế Về nguyên tắc, quyết định xử lý vi phạm pháp luật về thuế phải được thi hành ngay. Tuy nhiên, pháp luật xử lý vi phạm hành chính về thuế nói chung dành thời hạn 10 ngày kể từ ngày được giao quyết định để đối tượng bị xử phạt tự nguyện chấp hành quyết định. Quá thời hạn đó mà cá nhân, tổ chức không tự nguyện chấp hành quyết định thì bị cưỡng chế thi hành.
35. 35 Các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế đối với người nộp thuế được quy định tại Điều 19 Nghị định số 129/2013/NĐ-CP bao gồm: Trích tiền từ tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế tại Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng; yêu cầu phong toả tài khoản. Khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập. Thông báo hóa đơn không còn giá trị sử dụng. Kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản kê biên theo quy định của pháp luật để thu tiền thuế nợ, tiền chậm nộp tiền thuế, tiền phạt, tiền chậm nộp tiền phạt vào ngân sách nhà nước. Thu tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế do tổ chức, cá nhân khác đang giữ. Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề. – Khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vi phạm pháp luật về thuế, quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn; giải quyết tố cáo Đây là giai đoạn kết, nhưng có ý nghĩa quan trọng vì giai đoạn này nhằm bảo đảm quyền của các doanh nghiệp cũng như xem xét việc xử lý vi phạm pháp luật về thuế có đúng hay không. Theo đó, tổ chức, cá nhân vi phạm có quyền giải trình trực tiếp hoặc bằng văn bản với người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về thuế. Đây là một trong những điều khoản bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người nộp thuế, người nộp thuế được quyền đưa ra ý kiến, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
36. 36 Chương 2 THỰC TRẠNG XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM 2.1. Thực trạng hoạt động xây dựng pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế thu nhập doanh nghiệp – Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế Nhìn chung các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả do pháp luật quy định đảm bảo đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả đối với các hành vi vi phạm hành chính. Tuy nhiên, các hình thức xử phạt này cũng đã bộc lộ một số bất cập, cụ thể như sau: Một là, xu hướng hiện nay là để nâng cao tính răn đe, phòng ngừa vi phạm hành chính về thuế, cơ quan soạn thảo thường muốn quy định mức phạt tiền rất cao. Đây là xu hướng có thể dẫn đến tình trạng hành chính hóa các hành vi phạm tội. Điều này bất hợp lý cả về lý thuyết, lẫn thực tế. Vi phạm hành chính về thuế TNDN thường là hành vi vi phạm nhỏ, mức độ nguy hiểm thấp hơn tội phạm nhưng hình thức phạt tiền lại được quy định ở mức rất cao so với hình phạt tiền được quy định trong Bộ Luật hình sự; điều này có thể dẫn đến hai trường hợp: hành chính hóa các hành vi phạm tội (để không phải chịu phạt tù) hoặc hình sự hóa các hành vi vi phạm hành chính vì hình phạt tiền thấp hơn mức tiền xử phạt vi phạm hành chính. Hai là, pháp luật chưa quy định cụ thể khi nào thì tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, khi nào thì chỉ tịch thu tang vật vi phạm. Điều đó dẫn đến sự tùy tiện, tịch thu tràn lan. Tương tự, Điều 25 Luật XLVPHC chưa quy định cụ thể tiêu chí để tước quyền sử dụng giấy phép có thời hạn hoặc không thời hạn. Hậu quả của những điều vừa trình bày là một trong số trường hợp phương tiện, giấy phép bị tịch thu tràn lan hoặc tùy tiện, gây khó khăn cho hoạt động của cá nhân và tổ chức, nhất là tổ chức kinh tế. – Về các biện pháp khắc phục hậu quả
37. 37 Việc quy định các biện pháp khắc phục hậu quả tại Nghị định số 129/2013 còn chưa phù hợp với Luật XLVPHC. + Quy định đình chỉ hành vi vi phạm là biện pháp khắc phục hậu quả Thực chất các quy định “Buộc thực hiện theo đúng quy định của pháp luật” hoặc “Buộc chấm dứt hành vi vi phạm” là một bước trong thủ tục xử phạt vi phạm hành chính, đó là bước “đình chỉ hành vi vi phạm”, song tại nghị định đều coi đây là biện pháp khắc phục hậu quả. + Coi khả năng bị xử phạt của đối tượng VPHC trong quản lý và sử dụng hóa đơn dẫn đến trốn thuế (“bị xử phạt về thuế theo quy định tại các Luật thuế…”) là biện pháp khắc phục hậu quả. Ví dụ: khoản 2 Điều 17 Nghị định 89/2002 ngày 07/11/2002 quy định việc in, phát hành, sử dụng và quản lý hóa đơn. + Việc quản lý tang vật, phương tiện bị tạm giữ theo thủ tục hành chính. Tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là một trong các biện pháp quan trọng để ngăn chặn và bảo đảm xử phạt vi phạm hành chính. Điều 82 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2013 quy định về việc: ” Xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu.”. Thực tiễn thi hành pháp luật xử phạt vi phạm hành chính đã cho thấy quy định này là cần thiết, tuy nhiên người có thẩm quyền xử phạt đã gặp khó khăn khi tiến hành vì không có nhà, kho, địa điểm để bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị bắt giữ. – Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại Chương III Luật xử lý vi phạm hành chính. Về tổng thể, các quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đã tương đối cụ thể, rõ ràng, đáp ứng được một phần yêu cầu của thực tế. Tuy nhiên, thủ tục xử phạt vẫn còn một số bất cập, cụ thể như sau:
38. 38 Việc xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính Việc xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính cũng gặp một số khó khăn trên thực tế vì hiện nay một số tỉnh, thành phố trực thuộc đều tồn tại hai trung tâm bán đấu giá tài sản; một trung tâm thuộc Sở Tư pháp và một trung tâm thuộc Sở Tài chính. Mấu chốt của vấn đề là pháp luật không quy định rõ Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản thuộc Sở Tư pháp hay Sở Tài chính do đó các địa phương đều lúng túng trong việc bán tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Xác định trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính (Điều 31 Nghị định số 134/2003/NĐ-CP): Theo quy định, sau khi tiến hành tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, nếu xét thấy cần áp dụng biện pháp tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm thì người đã ra quyết định tạm giữ mời đại diện cơ quan tài chính cùng cấp hoặc lập hội đồng để định giá tang vật, phương tiện vi phạm. Quy định này xem xét dưới khía cạnh pháp lý là khá chặt chẽ, đảm bảo việc định giá được khách quan. Tuy nhiên, lại không khả thi và gây khó khăn cho người có thẩm quyền tịch thu vì trên thực tế không phải lúc nào cũng mời được đại diện cơ quan tài chính cùng cấp đến để định giá hoặc việc lập Hội đồng, chờ Hội đồng xem xét, định giá cũng gặp khó khăn, kéo dài thời gian xem xét, định giá và ảnh hưởng trực tiếp đến việc tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm. Về việc thi hành quyết định xử phạt Luật chưa quy định xử lý một số vấn đề về xuất hiện trong thực tế như thi hành quyết định xử phạt khi đối tượng xử phạt đã chết hoặc bị giải thể, việc miễn, giảm tiền phạt đối với đối tượng không có điều kiện để nộp phạt hoặc đối với một số địa phương không có trung tâm bán đấu giá tài sản thì tang vật, phương tiện có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên sẽ chuyển cho cơ quan nào để tổ chức bán đấu giá… Vấn đề cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt
39. 39 + Mặc dù thẩm quyền ban hành quyết định cưỡng chế đã được quy định phù hợp với thực tế hơn và Chính phủ đã ban hành Nghị định số 166/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vẫn còn gặp một số khó khăn vì một số lý do sau: Một là, người có thẩm quyền cưỡng chế không có lực lượng để cưỡng chế. Trong một số trường hợp, việc tổ chức cưỡng chế đòi hỏi sự tham gia của nhiều người, nhiều lực lượng nhưng cơ quan, người có thẩm quyền cưỡng chế (Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, Cục trưởng Cục Thuế, Chi cục trưởng Chi cục Thuế; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh…) lại không có lực lượng để cưỡng chế. Sự phối hợp giữa các cơ quan trong việc tổ chức cưỡng chế cũng gặp khó khăn vì các cơ quan phối hợp cũng phải thực hiện nhiệm vụ của mình, ít có lực lượng và thời gian để phối hợp cưỡng chế. Hai là, cơ quan, người có thẩm quyền cưỡng chế, trong nhiều trường hợp, không có kinh phí để cưỡng chế vì theo quy định tại khoản 3 Điều 10 Thông tư số 215/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 thì cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế phải chịu mọi chi phí về việc tổ chức thực hiện các biện pháp cưỡng chế. Tuy nhiên, trên thực tế, đối tượng bị cưỡng chế lại không thể có kinh phí cho việc tổ chức cưỡng chế, do đó để lập lại trật tự quản lý và đảm bảo lợi ích công cộng thì Nhà nước cần phải trả chi phí cho việc tổ chức cưỡng chế. Ba là, một số biện pháp cưỡng chế như khấu trừ tài khoản tại ngân hàng có tính khả thi không cao, bởi một số ngân hàng không thực hiện việc khấu trừ tiền của đối tượng vi phạm nhằm bảo vệ uy tín của ngân hàng. 2.2. Thực trạng quy định pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế thu nhập doanh nghiệp
42. 42 Công văn số 3388/TCT-PCCS ngày 03/10/2005 của Tổng cục Thuế hướng dẫn về việc XPCPHC trong lĩnh vực thuế và kế toán quy định về việc áp dụng nội dung Công văn số 8585/BTC-TCT ngày 08/7/2005 về việc hướng dẫn về XPVPHC trong lĩnh vực thuế quy định thời điểm bị xử phạt đối với các hành vi VPHC về kê khai thuế, ghi sổ kế toán không đúng quy định làm giảm số thuế phải nộp theo thời điểm ban hành Công văn số 8585/BTC-TCT. – Công văn quy định cụ thể hành vi vi phạm Công văn số 8585/BTC-TCT ngày 08/7/2005 về việc hướng dẫn XPVPHC trong lĩnh vực thuế hướng dẫn một số hành vi vi phạm là trốn thuế theo Thông tư số 41/2004/TT-BTC ngày 18/02/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2004 ngày 25/02/2004 quy định về XPVPHC trong lĩnh vực thuế. Việc quy định này là trái với Điều 2 Pháp lệnh XLVPHC quy định thẩm quyền quy định hành vi VPHC thuộc Chính phủ. – Công văn quy định thẩm quyền xử phạt Đoạn 3 phần 1 Công văn số 3388/TCT-PCCS ngày 03/10/2005 của Tổng cục Thuế về việc XPVPHC trong lĩnh vực thuế và kế toán hướng dẫn thẩm quyền xử phạt của cơ quan thuế trong việc xử phạt VPHC trong lĩnh vực kế toán đối với cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp kê khai, không thực hiện đúng chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ. Tuy nhiên, theo Chương III Nghị định số 185/2004 ngày 04/11/2004 về XPVPHC trong lĩnh vực kế toán thì cơ quan thuế không có thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực kế toán. Quy định này là không phù hợp và theo Luật Ban hành VBQPPL thì công văn không phải là VBQPPL. 2.2.4. Về nguyên tắc xử phạt đối với hành vi vi phạm – Vi phạm nguyên tắc “một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần”
43. 43 Trước thời điểm 01/12/2013 Nghị định số 105/2013/NĐ-CP ngày 16/9/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán độc lập có hiệu lực, thì tại Điều 17 Nghị định 185/2004 ngày 04/11/2004 về XPVPHC trong lĩnh vực kế toán, và Điều 15 thông tư số 169/2011/TT- BTC ngày 24/11/2011 đều quy định hành vi vi phạm trong lĩnh vực kế toán dẫn đến trốn, lậu thuế thì ngoài bị XPVPHC theo quy định tại Nghị định này thì còn bị xử phạt theo quy định tại Nghị định của Chính phủ về XPVPHC trong lĩnh vực thuế. Do vậy, tất cả những hành vi vi phạm trước thời điểm ngày 01/12/2013 của doanh nghiệp mà dẫn tới việc trốn thuế, thì sẽ bị xử phạt hành chính tới hai lần cho một hành vi. Như vậy, nguyên tắc “một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần” đã không còn được thực hiện đúng trên thực tiễn. Đây cũng là một trong những vấn đề cần được các nhà làm luật nghiên cứu và hoàn thiện hơn. 2.3. Thực trạng thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế thu nhập doanh nghiệp 2.3.1. Những kết quả đạt được Trong những năm qua, lực lượng công an các cấp đã tiến hành rà soát, kiểm tra, xử lý và truy tố hình sự nhiều vụ án trốn thuế của hàng trăm doanh nghiệp, đơn vị, truy thu cho ngân sách Nhà nước hàng trăm tỷ đồng. Cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản để tổ chức, thực hiện việc xử lý vi phạm pháp luật thuế như: Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012; Nghị định số 129/2013/NĐ – CP ngày 16/10/2013 về xử lý vi phạm pháp luật thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, quy chế phối hợp số 1527/QCPH/TCT-TCCS ngày 31/10/2007 giữa Tổng cục Thuế – Bộ Tài chính và Tổng cục Cảnh sát – Bộ Công an trong đấu tranh phòng, chống các hành vi tội phạm trong lĩnh vực Thuế… Thực hiện sự phối hợp chặt chẽ trên, các cơ quan liên ngành đã đạt được nhiều thành tích đáng kể. Cụ thể, ngày 22/10/2013, tại Hà Nội, Tổng
45. 45 tra 43 vụ, xử phạt hành chính hơn 4 tỷ đồng; phối hợp truy thu thuế trên 14 tỷ đồng. Tổng giá trị thiệt hại do các hành vi vi phạm gây ra hơn 5 tỷ đồng. Theo Cục thuế tỉnh Yên Bái: Sau 4 năm thực hiện quy chế phối hợp số 2122/QCPH/TCCS – TCT ngày 26/8/2003 giữa tổng cục cảnh sát (Bộ Công An) và Tổng cục thuế (Bộ Tài Chính) về công tác phòng chống các hành vi vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực thuế, trên địa bàn tỉnh Yên Bái đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Trên cơ sở Quy chế phối hợp này, ngày 29/10/2003, 2 ngành đã xây dựng kế hoạch số 409KH/CT – CAT để tổ chức thực hiện, phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương. Chính vì có sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ từ tỉnh đến các huyện, thị xã, thành phố nên từ tháng 8/2003 đến hết năm 2007, cơ quan công an và cơ quan thuế đã phối hợp xử lý 599 đối tượng vi phạm chính sách thuế, xử lý thu nộp NSNN hơn 4,9 tỷ đồng. Các cơ quan chức năng đã phát hiện nhiều nhành vi vi phạm về việc lập hồ sơ, chứng từ quyết toàn vật liệu, nhân công, mày thi công khống và cao hơn giá thực tế làm tăng chi phí để làm giảm thu nhập chịu thuế và làm giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Điển hình như việc xử lý vi phạm hành chính đối với 5 doanh nghiệp: Công ty Công trình giao thông 208, Công ty Quản lý và sửa chữa đường bộ 242, Công ty Xây lắp 386 Bộ Quốc Phòng, Công Ty cổ phần công trình giao thông Thăng Long và Công ty sửa chữa đường bộ 236, với tổng số tiến xử phạt và truy thu lên tới 967,1 triệu đồng. Xử lý vi phạm hành chính về việc viết hóa đơn bán hàng với số lượng, đơn giá, giá trị hàng hóa cao hơn số lượng giao dịch thực tế của DNTN Trấn Công (huyện Văn Chấn) 78,2 triệu đồng. Hoặc xử phạt và truy thu thuế về hành vi mua bán hàng hóa, phương tiện vận tải bỏ ngoài số kế toán, không kê khai nộp thuế của Công ty Cổ phần Lương thực Hoàng Liên Sơn 276,8 triệu đồng; Công ty TNHH Thẩm hường (huyện Trần Yên) 216,2 triệu đồng về hành vi kinh doanh mua bán hàng hóa không có đăng ký kinh doanh, bỏ ngoài số kế toán, không kê khai nộp thuế.