Vì Sao Ban Hành Nghị Quyết Số 35 / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Vì Sao Đảng Ta Ban Hành Nghị Quyết Này?

TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 4 KHÓA XII:

Trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Đảng ta đánh giá: Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích trong thế kỷ XX.

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã lãnh đạo đất nước vượt qua khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữ vững ổn định chính trị; phát triển kinh tế – xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường quốc phòng – an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ và vị thế như ngày nay.

Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng đã chỉ ra công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm: Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, giảng dạy và học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa đáp ứng yêu cầu. Nội dung sinh hoạt đảng ở nhiều nơi còn đơn điệu, hình thức, hiệu quả chưa cao.

Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp, thậm chí có nơi mất sức chiến đấu. Công tác tổ chức, cán bộ và quản lý cán bộ, đảng viên còn yếu kém. Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, một số việc chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao. Việc phân định thẩm quyền, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của người đứng đầu với tập thể cấp ủy, thủ trưởng cơ quan, đơn vị chưa rõ ràng.

Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy Nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty.

Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao. Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. 

Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ.

Chính vì vậy, Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã ban hành Nghị quyết 04-NQ/TW với mục tiêu: Nhận thức sâu sắc về nguy cơ, nhận diện đúng những biểu hiện và đề ra các giải pháp phù hợp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Kiên quyết khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, trách nhiệm, năng lực và động cơ đúng đắn, thực sự tiên phong, gương mẫu, luôn đặt lợi ích của tập thể, quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, thực sự là cán bộ của dân, phục vụ nhân dân. Củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

M.T

Vì Sao Nghị Định 100 Ban Hành 2 Ngày Sau Đã Áp Dụng?

Vì sao nghị định này có hiệu lực gần như ngay lập tức, thay vì có hiệu lực sau 45 ngày kể từ ngày ký như những nghị định khác?

* Nghị định 100 bổ sung nhiều hành vi và tăng mức xử phạt với 218 hành vi, nhóm hành vi, trong đó tăng mức xử phạt cao với 61 hành vi, nhóm hành vi. Vì sao lại tăng mức phạt và bổ sung hành vi?

– Thực ra một số nội dung đã có quy định của pháp luật rồi nhưng có những hành vi chưa quy định hoàn toàn cụ thể, cần bổ sung để thực thi tốt hơn, phù hợp hơn.

Nghị định cũng bổ sung một số hành vi mới như: xe không đủ điều kiện nộp phí tự động nhưng đi vào làn thu phí tự động trước đây có thể xử phạt theo lỗi đi không đúng làn đường, phần đường, nhưng nghị định 100 tách ra thành một hành vi có mức xử phạt thấp hơn với tính chất tuyên truyền để mọi người quen dần với thu phí tự động.

Với nhiều hành vi khác, Bộ Công an đã có tổng kết những hành vi có nguy cơ gây tai nạn cao là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới tai nạn trong quá trình thực thi nghị định 46. Do vậy, những hành vi này cần xử phạt cứng rắn hơn. Tiêu biểu là hành vi vi phạm nồng độ cồn ở mức 3, sử dụng ma túy bị phạt nặng nhất. Tương tự, hành vi chạy quá tốc độ cũng gây nhiều tai nạn đặc biệt nghiêm trọng nên nâng mức phạt.

Không nên bắt bẻ nhiều mà cứ thế làm cho tốt

Trước băn khoăn liệu có đủ lực lượng để thực thi, xử lý vi phạm khi diện kiểm soát, xử lý vi phạm sẽ nhiều hơn, rộng hơn, ông KHUẤT VIỆT HÙNG – phó chủ tịch chuyên trách Ủy ban An toàn giao thông quốc gia – cho biết:

“Khi bàn về dự thảo Luật phòng chống tác hại của rượu bia cũng đã nêu băn khoăn này. Những băn khoăn đó là chính đáng, có trách nhiệm. Nhưng không có một quốc gia nào có thể xử phạt hết hành vi vi phạm hành chính, nhất là vi phạm giao thông, nên chúng ta đừng quá cầu toàn đòi hỏi phải xử phạt hết. Chúng ta cũng không thể xử phạt hết người đi xe máy không đội mũ bảo hiểm hay đi xe máy không có gương chiếu hậu.

Tuy nhiên, nếu lực lượng chức năng xử phạt nghiêm khắc vi phạm sẽ có tính răn đe cao, khiến người khác không vi phạm và có sự điều chỉnh”.

Theo ông Hùng, lực lượng chức năng vẫn sẽ cố gắng cao nhất để xử phạt những hành vi vi phạm kể cả ở đô thị, nông thôn, vùng sâu vùng xa. Bên cạnh đó, phải trang bị tốt hơn thiết bị, phương tiện nghiệp vụ để công an, đặc biệt là cảnh sát giao thông đảm bảo bao phủ tối đa những không gian xảy ra vi phạm.

Thay đổi ‘văn hóa nhậu’

TTO – 5 ngày nay, chuyện ông nào uống bia rượu rồi chạy xe ra đường và bị xử phạt rất nặng đang được mọi người rất quan tâm.

Vì Sao Nghị Định 100/2019 Có Hiệu Lực Chỉ Sau 2 Ngày Ban Hành?

Nghị định 100/2019/NĐ-CP về xử phạt vi phạm giao thông đường bộ, đường sắt được Chính phủ ban hành ngày 30/12/2019 và có hiệu lực chỉ sau đó 02 ngày, tức ngày 01/01/2020. Rất nhiều người bày tỏ sự băn khoăn về điều này.

Nghị định 100/2019 được ban hành theo trình tự rút gọn

Theo khoản 5 Điều 4 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, Nghị định của Chính phủ là một trong những loại văn bản quy phạm pháp luật.

Trong khi đó, theo khoản 1 Điều 151 của Luật trên:

Thời điểm có hiệu lực của toàn bộ hoặc một phần văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại văn bản đó nhưng không sớm hơn 45 ngày kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành đối với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước trung ương.

Theo quy định nêu trên, đáng lẽ Nghị định 100/2019 được ban hành ngày 30/12/2019 phải có hiệu lực từ ngày 14/02/2020 (45 ngày sau ngày ban hành).

Tuy nhiên, cũng theo khoản 2 Điều 151 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật:

Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn thì có thể có hiệu lực kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành, đồng thời phải được đăng ngay trên Cổng thông tin điện tử của cơ quan ban hành và phải được đưa tin trên phương tiện thông tin đại chúng; đăng Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc Công báo tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chậm nhất là sau 03 ngày kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành.

Như vậy, đã có đủ căn cứ để khẳng định, Nghị định 100/2019/NĐ-CP được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn, nên có hiệu lực chỉ sau 02 ngày kể từ ngày ký.

Thực tế từ hệ thống văn bản pháp luật được cập nhật tại chúng tôi cho thấy, rất nhiều Nghị định của Chính phủ hiện nay được ban hành theo trình tự này, thậm chí có nhiều Nghị định có hiệu lực cùng ngày với ngày ký ban hành.

Ví dụ mới đây nhất là Nghị định 87/2019/NĐ-CP hướng dẫn Luật Phòng chống rửa tiền (ban hành và có hiệu lực cùng ngày 14/11/2019); Nghị định 72/2019/NĐ-CP hướng dẫn về quy hoạch xây dựng (ban hành và có hiệu lực cùng ngày 30/08/2019).

LuatVietnam đã cung cấp tính năng Hiệu lực của toàn bộ văn bản từ năm 1945 đến nay, trong đó chỉ rõ ngày, tháng, năm có hiệu lực của văn bản và tình trạng hiệu lực của văn bản (còn hiệu lực, hết hiệu lực…). Để khai thác tính năng này, bạn đọc có thể tham khảo các gói dịch vụ của LuatVietnam

Có hiệu lực từ 01/01/2020 để phù hợp với Luật Phòng, chống tác hại rượu, bia 2019

Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia có hiệu lực từ ngày 01/01/2020, trong đó nghiêm cấm hoàn toàn lái xe khi đã uống rượu, bia. Trong khi Luật Giao thông đường bộ 2008 và Nghị định 46/2016/NĐ-CP chưa có quy định cấm và xử phạt đối với người điều khiển xe máy có nồng độ cồn chưa vượt quá 50 mg/100 ml máu hoặc 0,25 mg/1l khí thở và chưa có quy định cấm người đi xe đạp có nồng độ cồn.

Do đó, Nghị định 100/2019/NĐ-CP dù mới chỉ được Thủ tướng ký ban hành ngày 30/12/2019 nhưng lập tức có hiệu lực từ ngày 01/01/2020 chính là để kịp thời lấp “khoảng trống” nêu trên tại Luật Giao thông đường bộ và Nghị định 46/2016/NĐ-CP.

Tóm lại, có 02 căn cứ hợp lý để Nghị định 100 có hiệu lực chỉ sau 02 ngày, kể từ ngày ban hành: Được ban hành theo trình tự rút gọn và để phù hợp với Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bịa 2019. Do đó, Nghị định này không hề sai về quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật như một số ý kiến trên các diễn đàn.

Ban Hành Nghị Quyết Số 01

Năm 2019, với sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quốc hội, sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, bộ, ngành ở Trung ương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cấp ủy, chính quyền địa phương; đặc biệt là sự cố gắng, nỗ lực của mỗi Tòa án, mỗi cán bộ, công chức, viên chức và người lao động nên các nhiệm vụ trọng tâm của Tòa án nhân dân đã được triển khai có hiệu quả và đạt các chỉ tiêu của Quốc hội đề ra.

Năm 2020 là năm cuối của nhiệm kỳ Đại hội XII và của Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2011 – 2020 và kỷ niệm nhiều ngày lễ lớn của đất nước: 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 19/5/2020); 90 năm Ngày truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (18/11/1930 – 18/11/2020); 75 năm ngày thành lập Tòa án nhân dân (13/9/1945 – 13/9/2020). Trước tình hình thế giới và khu vực vẫn tiếp tục có những biến động phức tạp, khó lường; đất nước ta vẫn phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức… Nhiệm vụ đặt ra cho công tác của Tòa án nhân dân rất nặng nề, cùng với thực hiện các chỉ tiêu công tác được Đảng, Nhà nước, Quốc hội giao, phải tiếp tục hoàn thành chỉ tiêu tinh giản biên chế, đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm. Để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết về lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ công tác trọng tâm năm 2020 của Tòa án nhân dân.

Để hoàn thành và nâng cao chất lượng xét xử; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là các chức danh tư pháp liêm chính, chuyên nghiệp, xây dựng Tòa án trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại, bảo vệ công lý, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ban cán sự Đảng TANDTC đã đề ra 10 nhiệm vụ giải pháp để thực hiện.

Một là: Tiếp tục thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng, Quốc hội về công tác Tòa án. Đặc biệt là Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII); Nghị quyết Trung ương 6, Nghị quyết Trung ương 7, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XII); Nghị quyết Đại hội đảng bộ các cấp; Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Nghị quyết số 96/2019/QH14 của Quốc hội về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án; kết luận của Chủ tịch Quốc hội tại phiên chất vấn, trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIV.

Hai là: Nâng cao chất lượng xét xử, hoàn thành các chỉ tiêu của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao về công tác giải quyết, xét xử các loại vụ, việc. Thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc suy đoán vô tội để nâng cao chất lượng công tác xét xử, đảm bảo phán quyết của Tòa án phải đúng pháp luật, bảo vệ công lý, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân. Làm tốt công tác Thi hành án hình sự thuộc trách nhiệm của Tòa án; đảm bảo việc hoãn, tạm đình chỉ thi hành án, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, tha tù trước thời hạn phải đủ căn cứ và đúng pháp luật. Các Tòa án căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao, xây dựng kế hoạch thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2020; quán triệt và thực hiện quyết liệt, có hiệu quả 14 giải pháp đột phá để nâng cao chất lượng xét xử; đồng thời, căn cứ vào tình hình thực tiễn của cơ quan, đơn vị mình đề ra những giải pháp để khắc phục các hạn chế, thiếu sót của năm trước, tập trung giải quyết những vấn đề nổi cộm mà thực tiễn đang đặt ra đối với Tòa án, nhất là việc giải quyết các yêu cầu phá sản doanh nghiệp.

Ba là: Chủ động, tích cực thực hiện chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng. Tổ chức xét xử các vụ án tham nhũng nghiêm minh, đúng thời hạn, chú trọng thu hồi tài sản tham nhũng. Qua công tác xét xử, làm rõ trách nhiệm của công tác quản lý, những kẽ hở của cơ chế, chính sách hay khiếm khuyết của pháp luật để chủ động tham mưu cho Ðảng, Quốc hội, kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan hữu quan áp dụng biện pháp khắc phục, phòng ngừa. Chấp hành nghiêm chế độ báo cáo và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các loại vụ án theo Chỉ thị số 26-CT/TW ngày 06/11/2018 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc.

Bốn là: Nâng cao chất lượng, tỉ lệ giải quyết đơn giám đốc thẩm, tái thẩm và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm; tỉ lệ giải quyết xét xử án hành chính, án kinh doanh thương mại, yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Tiếp tục làm tốt công tác kiểm tra, giám đốc việc xét xử của Toà án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới để kịp thời phát hiện, khắc phục, rút kinh nghiệm về những sai sót nghiệp vụ trong quá trình giải quyết, xét xử các loại vụ án. Nâng cao chất lượng công tác tham mưu, giúp Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp trong công tác giám đốc thẩm, tái thẩm; thanh tra, kiểm tra các loại vụ, việc thuộc thẩm quyền.

Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn xét xử làm cơ sở cho việc xây dựng, ban hành các nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, phát triển án lệ và giải đáp kịp thời các vướng mắc về nghiệp vụ. Thường xuyên rà soát các văn bản quy phạm pháp luật để ban hành hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.

Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác tổ chức cán bộ; tiếp tục thực hiện có hiệu quả 14 giải pháp đột phá trong công tác tổ chức cán bộ được đề ra tại Nghị quyết số 02-NQ/BCSĐ ngày 14/5/2018 của Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao; hoàn thành chỉ tiêu tinh giản biên chế. Hoàn thiện Đề án đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân và trình Bộ Chính trị trong quý II/2020. Hoàn thành Đề án cải cách chính sách tiền lương, Đề án vị trí việc làm trong Tòa án nhân dân. Trên cơ sở đó, hoàn thiện các văn bản trình cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc quy định mới về tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân và tổ chức thực hiện tốt việc sắp xếp tổ chức bộ máy, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm, nhất là các chủ trương thí điểm sắp xếp các Tòa án cấp huyện. Tiếp tục hoàn thiện đầy đủ các quy định, quy chế trong công tác tổ chức cán bộ, phân cấp quản lý cán bộ, tiêu chuẩn chức vụ, chức danh cán bộ, công chức, thi tuyển chọn các chức danh lãnh đạo, quản lý trong Tòa án nhân dân. Thực hiện tốt việc chuẩn bị nhân sự Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng theo hướng dẫn của Trung ương, Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao và các cấp ủy địa phương.

Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng gắn với yêu cầu quy hoạch, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức và nhu cầu xây dựng, phát triển nguồn nhân lực của Tòa án nhân dân; chú trọng làm tốt công tác đào tạo nghiệp vụ xét xử, đào tạo chức danh. Tiếp tục duy trì và đổi mới tập huấn bằng hình thức trực tuyến, đào tạo thông qua việc rút kinh nghiệm công tác xét xử; thường xuyên tổ chức các khóa tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là tập huấn các văn bản pháp luật mới, bồi dưỡng chuyên sâu và kỹ năng xét xử cho Thẩm phán, Hội thẩm; thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp và các kiến thức xã hội, khả năng sử dụng các kỹ thuật tiên tiến cho Thẩm phán, cán bộ, công chức, viên chức Tòa án các cấp để tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho các Tòa án. Có cơ chế, giải pháp để động viên cán bộ, công chức, viên chức tự nghiên cứu học tập nâng cao trình độ chuyên môn.

Mười là: Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác thông tin, truyền thông, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền pháp luật cũng như về tổ chức, hoạt động của Tòa án; duy trì chương trình truyền hình Tòa án nhân dân. Tiếp tục phối hợp với Đài truyền hình Việt Nam tổ chức sản xuất và phát sóng Bộ phim truyền hình dài tập nhân dịp kỷ niệm 75 năm Ngày truyền thống Tòa án nhân dân.

Ông Lê Hồng Quang, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chánh án TANDTC giới thiệu về Nghị quyết tại Hội nghị triển khai công tác Tòa án năm 2020 – Ảnh: Hùng Dinh