Việc Làm Ngành Luật Hồ Chí Minh / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 4/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Tuyển Dụng, Tìm Việc Làm Trợ Lý Luật Sư Tại Thành Phố Hồ Chí Minh

Lt;br / gt;- Hỗ trợ Luật sư thông qua thực hiện thủ tục pháp lý cho khách hàng.

10.000.000 – VNĐ12.000.000 VNĐ một tháng

Lt;br / gt;- Hỗ trợ phiên dịch cho bác GĐ nhà máy, kỹ sư người Nhật tại nhà máy lt;br / gt;

Lt;br / gt;- Trợ cấp đi lại, cơm trưa miễn phí….

10.000.000 – VNĐ15.000.000 VNĐ một tháng

Lt;br / gt;Tối thiểu có 2 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực quản lý nhân sự.

Du lịch, teambuilding, sự kiện….

Xây dựng và duy trì thư viện văn bản pháp luật (bao gồm bản cứng và bản mềm) của các quy định pháp luật và các tư vấn pháp lý…

Khả năng xử lý nhiều công việc.

Phòng Hành chính Nhân sự – Công ty Cổ phần Quản lý và Khai thác Tòa nhà PMC Tầng 21, Tòa nhà VNPT, 57 Huỳnh Thúc Kháng, Đống Đa,…

Phiên dịch/ Ngoại ngữ, Hành chính – Văn phòng, Thư ký – Trợ lý.

Trợ lý cho Sếp Nhật, trao đổi các công việc hàng ngày với Sếp Nhật.

Nộp CV bằng tiếng Nhật.

Trợ giúp GĐ quản lý thời gian và kiểm soát công việc.

Sử dụng laptop cá nhân khi làm việc.

Được hưởng các chế độ BHXH, BHYT theo Luật Lao Động.

Tốt nghiệp Đại học trở lên chuyên ngành Luật.

Để được hỗ trợ thêm thông tin cần thiết, ứng viên vui lòng liên hệ tới phòng Nhân sự của công ty theo số điện…

# Bạn đang xem tin việc làm Nhân Viên Pháp Lý (Pháp Chế Luật) Đi Làm Ngay trong ngành Luật/Pháp lý, Hành chính/Thư ký/Trợ lý được tuyển dụng tại Hồ Chí Minh bởi…

11.000.000 – VNĐ25.000.000 VNĐ một tháng

Có nền tảng kiến thức pháp lý vững chắc, phải đặc biệt am hiểu về Luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Thương mại….

Yêu cầu bằng cấp (tối thiểu):

Các chế độ khác theo quy định của Pháp luật.

Cơ hội được huấn luyện và đào tạo chuyên nghiệp để phát triển sự nghiệp trong chuỗi cửa hàng tiện lợi lớn nhất thế…

Internship Le Meridien Building, 3C Ton Đuc Thang, Ben Nghe Ward, 1 District, HCM Ho Chi Minh 11/11/2020 – 10/12/2020 Luật – Thư ký – Trợ lý.

Phong Cách Hồ Chí Minh

Phong cách Hồ Chí Minh

Bài giảng: Phong cách Hồ Chí Minh – Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)

I. Đôi nét về tác giả Lê Anh Trà

– Lê Anh Trà sinh ngày 24/6/ 1927, mất năm 1999

– Quê quán: xã Phổ Minh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi

– Năm 1965, ông tốt nghiệp tiến sĩ tại Đại học tổng hợp quốc gia Mát-xcơ-va

– Ông lần lượt được phong học hàm Phó giáo sư và Giáo sư các năm 1984 và 1991

– Sự nghiệp sáng tác:

+ Lê Anh Trà được biết đến là một nhà quân sự, sau đó chuyển sang viết báo. Ông từng giữ chức Tổng biên tập Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật

+ Ông là một tác giả chuyên nghiên cứu và viết về chủ tịch Hồ Chí Minh

+ Tác phẩm đặc sắc nhất của ông là “Phong cách Hồ Chí Minh, cái vĩ đại gắn với cái cao cả”

II. Đôi nét về tác phẩm Phong cách Hồ Chí Minh

1. Hoàn cảnh sáng tác

“Phong cách Hồ Chí Minh” được rút trong bài “Phong cách Hồ Chí Minh, cái vĩ đại gắn với cái cao cả” của Lê Anh Trà, in trong cuốn sách “Hồ Chí Minh và văn hóa Việt Nam”do Viện Văn hóa xuất bản năm 1990

2. Bố cục: 3 phần

– Đoạn 1 (Từ đầu đến “rất hiện đại”): Cơ sở và quá trình hình thành phong cách Hồ Chí Minh

– Đoạn 2 (từ tiếp đến “hạ tắm ao”): Những biểu hiện cụ thể của phong cách Hồ Chí Minh trong cuộc sống và làm việc

– Đoạn 3 (từ tiếp đến hết): Khẳng định ý nghĩa của phong cách Hồ Chí Minh

3. Giá trị nội dung

Vẻ đẹp trong phong cách Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại, thanh cao và giản dị.

4. Giá trị nghệ thuật

III. Dàn ý phân tích Phong cách Hồ Chí Minh

I. Mở bài

– Giới thiệu đôi nét về tác giả Lê Anh Trà: Một nhà quân sự, một nhà báo tài năng chuyên nghiên cứu về chủ tịch Hồ Chí Minh

– Vài nét về đoạn trích: “Phong cách Hồ Chí Minh” được trích từ bài viết “Phong cách Hồ Chí Minh, cái vĩ đại gắn với cái cao cả” đã làm nổi bật phong cách giản dị mà thanh cao của Chủ tịch Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ đáng kính của dân tộc

II. Thân bài

1. Quá trình hình thành phong cách Hồ Chí Minh

a. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để hình thành phong cách của mình

– Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi nhiều, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa cả phương Đông lẫn phương Tây, chính bới vậy, Bác đã thu nhận được vốn tri thức văn hóa sâu rộng:

+ Vốn tri thức sâu rộng có được do Bác hiểu tầm quan trọng của ngôn ngữ trong giao tiếp nên đã học và nói thành thạo nhiều thứ tiếng: Anh, Pháp. Hoa, Nga…

+ Bác học hỏi ngay cả khi trải qua những công việc kiếm sống: bác làm nhiều nghề và đến đâu Bác cũng học hỏi, tìm hiểu văn hóa đến một mức khá uyên thâm

b. Sự tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại ở Bác là sự tiếp thu có chọn lọc

– Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu một cách có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nước ngoài:

+ Không phải tất cả văn hóa các nước Bác đều tiếp thu, Người chỉ tiếp thu những cái hay, cái đẹp, đồng thời phê phán những hạn chế, tiêu cực ⇒ tiếp thu một cách chủ động

+ Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng trên cơ sở nền tảng là văn hóa dân tộc mà tiếp thu những ảnh hưởng bên ngoài

2. Những vẻ đẹp trong lối sống và làm việc thể hiện phong cách Hồ Chí Minh

– Nơi ở, nơi làm việc của Bác rất giản dị, là một chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh ao, chỉ vẻn vẹn vài phòng, đồ đạc “mộc mạc, đơn sơ”

– Tư trang rất giản dị: bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp

– Cách ăn uống rất đạm bạc với những món ăn dân tộc: cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối… ⇒ những món ăn dân tộc không chút cầu kì

3. Ý nghĩa của phong cách Hồ Chí Minh

– Phong cách sống của Bác là phong cách sống giản dị nhưng lại vô cùng thanh cao:

+ Phong cách sống của Bác không phải là một cách tự thần thánh hóa, tự làm cho khác đời, hơn đời

+ Phong cách sống của Bác chính là phong cách sống với cái đẹp chính là sự giản dị, tự nhiên

⇒ Phong cách Hồ Chí Minh là phong cách sống mang hồn dân tộc sợi nhắc đến phong cách của các vị hiền triết trong lịch sử dân tộc như Nguyến Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm

III. Kết bài

– Khẳng định lại những nét tiêu biểu về nghệ thuật làm nên thành công của đoạn trích: Cách lập luận chặt chẽ, luận điểm, luận cứ rõ ràng, xác đáng, cách trình bày ngắn gọn…

– Đoạn trích ngắn gọn nhưng để lại trong lòng người bao niềm ngưỡng vọng chân thành đối với vị lãnh tụ đáng kính của dân tộc. Mỗi chúng ta có thể học tập lối sống giản dị mà thanh cao rất Việt Nam ấy để vững vàng sống trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k6: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Các bài Soạn văn lớp 9 siêu ngắn được biên soạn bám sát câu hỏi sgk Ngữ Văn lớp 9 Tập 1, Tập 2 giúp bạn dễ dàng soạn bài Ngữ Văn 9 hơn.

tac-gia-tac-pham-lop-9.jsp

Đoàn Luật Sư Tp. Hồ Chí Minh

I. SÀI GÒN: CÁI NÔI CỦA NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM

1. Ngày 26-11-1867, Thống đốc Nam Kỳ De La Grandière ban hành Nghị định về việc hành nghề bào chữa trước các Tòa án Pháp. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên về nghề luật sư được chính quyền thực dân ban hành ở xứ “Nam Kỳ thuộc Pháp”. Người hành nghề bào chữa lúc đó gọi là “biện hộ viên” (Défenseur); sau (từ 1884) gọi là “luật sư biện hộ” (Avocat défenseur).

2. Sau khi thôn tính cả nước Việt Nam (1883-1884), năm 1887 Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, gồm thuộc địa Nam Kỳ và 3 xứ bảo hộ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Cao Miên (Cambodge)). Sau có thêm Lào (1899) và Quảng Châu Loan (1900).

Đến năm 1911, có một cuộc cải tiến quan trọng theo Sắc lệnh ngày 30-1-1911, các luật sư bào chữa ở Đông Dương được lập thành hai danh biểu: một danh biểu ở Sài Gòn bào chữa tại các tòa án ở Nam Kỳ và Cao Miên (Campuchia); một danh biểu ở Hà Nội bào chữa tại các tòa án ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

Trong thời kỳ này, chỉ có một vài luật sư Đông Dương người Việt đã vào Pháp tịch. Ở Luật sư đoàn Tòa Thượng thẩm Sài Gòn có các luật sư người Việt quốc tịch Pháp như: Luật sư Phan Văn Trường (1876-1933), Luật sư Trịnh Đình Thảo (1901-1986), Luật sư Bùi Thị Cẩm (1912-?)… Các luật sư này đều học luật và đỗ bằng Tiến sĩ Luật ở Pháp.

Qua lịch sử nghề nghiệp, có thể nói Luật sư Phan Văn Trường là nam luật sư đầu tiên, Luật sư Bùi Thị Cẩm là nữ luật sư đầu tiên người Việt Nam, cả hai luật sư tiền bối này lúc đó là thành viên của Luật sư đoàn Tòa Thượng thẩm Sài Gòn.

3. Đến năm 1931, do Sắc lệnh ngày 25-5-1930 được sửa đổi, bổ sung bởi Sắc lệnh ngày 21-7-1931, có cuộc cải tổ quan trọng nhất: danh hiệu “luật sư bào chữa” được rút gọn thành “luật sư” (Avocat), xã hội vẫn thường gọi là “trạng sư”; ngoài những công dân Pháp, người Đông Dương cũng được phép làm luật sư.

Quy chế này được áp dụng tới ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Trong giai đoạn này, số lượng luật sư người Việt tăng lên đáng kể, dần dần chiếm đa số trong Luật sư đoàn Tòa Thượng thẩm Sài Gòn. Các luật sư có tên tuổi nổi tiếng ở Sài Gòn thời kỳ này có thể kể đến là: Phan Văn Trường (1876-1933), Trịnh Đình Thảo (1901-1986), Nguyễn Hữu Thọ (1910-1996), Phạm Văn Bạch (1910-1986), Phạm Ngọc Thuần (1914-2002), Bùi Thị Cẩm (1912-?), Trần Công Tường (1915-1991), Nguyễn Thành Vĩnh (1904-1995), Thái Văn Lung (1916-1946), Vương Quang Nhường (1902- 1963), Nguyễn Văn Huyền (1913-1995), Trần Ngọc Liễng (1923-2011)…

Sau khi Việt Nam giành được độc lập, thống nhất nước nhà, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ vốn hành nghề ở Sài Gòn và các tỉnh miền Tây vào những năm 30 trước Cách mạng Tháng Tám 1945, đã tham gia lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc và trở thành Quyền Chủ tịch nước (1980-1981), Chủ tịch Quốc hội (1981-1987), Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (1987-2002) nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

II. SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945, LUẬT SƯ SÀI GÒN THAM GIA KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP TRỞ LẠI

1. Hơn một tháng sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 10-10-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 46 tổ chức đoàn thể luật sư. Theo đó, các tổ chức luật sư cũ được duy trì với một số điểm sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới. Do điều kiện lúc bấy giờ, số lượng luật sư ở nước ta, cả trong Nam ngoài Bắc, đều rất ít.

2. Thực tế ở Sài Gòn lúc đó, Việt Minh giành được chính quyền chỉ có 28 ngày thì phải tiến hành cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp trở lại tái chiếm Đông Dương. Một số trí thức đang hành nghề luật sư ở Sài Gòn và các tỉnh Nam Kỳ, từ đấu tranh yêu nước đã trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng hành cùng lịch sử tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang và chính trị kéo dài suốt 9 năm (1945-1954). Trong hàng ngũ kháng chiến, các luật sư đã được bố trí sử dụng vào những chức vụ quan trọng như: Luật sư Phạm Văn Bạch, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Nam Bộ, Ủy ban Kháng chiến hành chánh Nam Bộ; Luật sư Phạm Ngọc Thuần, Phó Chủ tịch có thời kỳ giữ Quyền Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chánh Nam Bộ, kiêm nhiệm Chính trị Ủy viên Bộ Tư lệnh Nam Bộ phụ trách 3 quân khu 7, 8 và 9; Luật sư Trương Tấn Phát, Giám đốc Sở Tư pháp; Luật sư Nguyễn Thành Vĩnh, Giám đốc Sở Tài chánh; Luật sư Lê Đình Chi, Trưởng phòng Quân pháp Bộ Tư lệnh Nam Bộ; Luật sư Thái Văn Lung, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chánh quận Thủ Đức, v.v..

III. LUẬT SƯ SÀI GÒN DƯỚI CHẾ ĐỘ CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN

Sau Hiệp định Genève năm 1954 đến tháng 4 năm 1975, đất nước tạm phân chia thành hai miền Nam – Bắc. Miền Nam dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa có hai quy chế luật sư lần lượt được ban hành: Quy chế theo Luật số 1/62 ngày 8-1-1962 thời Tổng thống Ngô Đình Diệm và quy chế theo Sắc luật số 025/66 ngày 7-7-1966 thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

Văn phòng Luật sư đoàn Sài Gòn đặt trong trụ sở Tòa Thượng thẩm Sài Gòn (số 131 đường Công lý, nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa)..

IV. BÀO CHỮA VIÊN NHÂN DÂN VÀ LUẬT SƯ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ SAU NGÀY 30-4-1975 ĐẾN NAY

1. Tổ chức bào chữa viên nhân dân được thành lập trong suốt 10 năm đầu ở Thành phố Hồ Chí Minh sau ngày 30-4-1975

Sau ngày giải phóng miền Nam 30-4-1975, Sài Gòn được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh. Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cho thực hiện và triển khai tổ chức bào chữa viên nhân dân theo Thông tư số 06/BTP-TT ngày 11-6-1976 của Bộ Tư pháp.

Theo đó, lúc này, ở Thành phố Hồ Chí Minh thiết lập một Phòng Bào chữa viên, đặt tại địa chỉ 97 Nguyễn Thị Minh Khai (nay là đường Pasteur) quận 1.

Những bào chữa viên đầu tiên công tác ở Thành phố Hồ Chí Minh là những cán bộ công chức nhà nước

Ngày 31-10-1983, Bộ Tư pháp ra Thông tư số 691/QLTPK hướng dẫn kiện toàn tổ chức bào chữa. Thực hiện Thông tư này, Ủy Ban Nhân Dân thành phố ra quyết định thành lập Đoàn bào chữa viên nhân dân với 28 người, gồm những bào chữa viên đã tham gia hoạt động này từ ngày mới giải phóng và bổ sung thêm một số thành viên mới đã dự xong lớp bồi dưỡng pháp lý xã hội chủ nghĩa do Bộ Tư pháp tổ chức dành cho các trí thức ngành luật cũ ở miền Nam.

2. Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh ra đời ngày 24-10-1989

Ngày 18-12-1987, Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh Tổ chức luật sư.

Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh đã được Ủy Ban Nhân Dân Thành phố ra Quyết định số 633, 634 và 635/QĐ-UB cùng ngày 24-10-1989 thành lập, với nhân sự gồm 68 thành viên (28 luật sư và 40 luật sư tập sự).

Từ lúc mới thành lập, trụ sở Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh đặt tại số 104 Nguyễn Đình Chiểu, phường Đa Kao, quận 1.

3. Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh phát triển từng bước theo Pháp lệnh Luật sư năm 2001, Luật Luật sư năm 2006 và Luật Luật sư sửa đổi, bổ sung năm 2012

Đến nay, đã trải qua hơn 25 năm với 6 nhiệm kỳ Ban Chủ nhiệm lần lượt kế tiếp nhau: nhiệm kỳ I (1995-1998), nhiệm kỳ II (1998-2002), nhiệm kỳ III (2002-2005), nhiệm kỳ IV (2005-2008), nhiệm kỳ V (2008-2013). Đại hội Đại biểu Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VI, nhiệm kỳ VI (2013-2018) đã được triệu tập trong 2 ngày 12 và 13-10-2014, tại Hội trường Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, với gần 600 luật sư đại diện cho 3.786 luật sư thành viên tham dự, đã bầu ra Ban Chủ nhiệm nhiệm kỳ VI với 15 thành viên và Hội đồng Khen thưởng – kỷ luật nhiệm kỳ VI gồm 9 thành viên.

Trong chức năng xã hội, tham gia các hoạt động ngoài dịch vụ pháp lý, một số luật sư của Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (1989-2015) đã từng là Đại biểu Quốc hội, thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ, Đại biểu Hội đồng nhân dân Thành phố, quận, phường… Một số luật sư đã và đang là thành viên Hội đồng luật sư toàn quốc, Ban Thường vụ và Thường trực Liên đoàn luật sư Việt Nam, Ban chấp hành Hội Luật gia Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học – kỹ thuật Thành phố, Hội Luật gia Thành phố, Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố, Hội Bảo trợ trẻ em Thành phố, Hiệp hội Bất động sản Thành phố…

Về hoạt động ngoại giao nhân dân và hội nhập quốc tế, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua đã có quan hệ với nhiều Đoàn luật sư nước ngoài và các tổ chức luật sư quốc tế. Đoàn đã tổ chức thành công hai sự kiện lớn về hợp tác quốc tế về luật sư: Hội nghị các Chủ tịch Đoàn luật sư châu Á POLA (The Presidents of Law Association in ASIA) năm 2008 và Hội nghị thường niên Hội Luật châu Á – Thái Bình Dương LAWASIA (The Law Association for Asia and the Pacific) lần thứ 22 năm 2009.

Hiện nay, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh có số lượng luật sư chiếm tỷ lệ trên 40% tổng số luật sư của cả nước, trong đó có nhiều luật sư chuyên về thương mại và đầu tư, chẳng những thông thạo tiếng Anh mà còn có thể tranh luận về các vấn đề pháp lý bằng tiếng Anh với các luật sư nước ngoài. Những luật sư trên có khả năng tham gia bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp trong các vụ tranh chấp thương mại quốc tế khi có yêu cầu…

Địa chỉ: 104 Nguyễn Đinh Chiểu, Phường Đakao, Quận 1, Tp.HCM.

Điện thoại: +84 (08) 3822 2113 – 3829 5308 – Fax: (08) 8829 6437

E-mail: hcmcbar@gmail.com – Website: www.hcmcbar.org

Người Là Hồ Chí Minh

(KDPT) – Năm 1987, Đại hội đồng UNESCO lần thứ 24 tại Paris, nước Pháp đã ra Nghị quyết 24C/18.65 về việc kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1990, đúng 100 năm Ngày sinh của Người, vinh danh Người là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới”. Nhưng 64 năm trước, năm 1923, nhà thơ Xô viết Osip Mandelstam đã viết về Nguyễn Ái Quốc – tên Người lúc đó, trên tạp chí Ogoniok, số 39: “Từ Nguyễn Ái Quốc tỏa ra một nền văn hóa, không phải là văn hóa châu Âu mà có lẽ là nền văn hóa của tương lai”… Quê hương yêu dấu

Quê Bác nằm ở hạ lưu Sông Lam của xứ Nghệ, nơi hội tụ của các trung tâm văn hoá vùng Bắc Trung Bộ; nơi phát tích nhiều nền văn hoá cổ, một vùng văn hoá – dân tộc học đặc sắc. Cụ nghè Nguyễn Xuân Ôn, một trong những lãnh tụ xuất sắc của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX từng ca ngợi quê hương mình: “Non nước châu Hoan đẹp tuyệt vời / Sinh ra trung nghĩa biết bao người”.

Bác Hồ của chúng ta sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước, ở một vùng quê giàu truyền thống văn hiến và cách mạng. Vùng quê ấy, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, thường xuyên đương đầu với muôn vàn thử thách, tàn phá do giặc giã, thiên tai, trong khổ đau vẫn gan góc, trong mất mát vẫn kiên cường, trong đói nghèo vẫn “đói sạch, rách thơm”; là “đất phên dậu”, “đất Cối Kê”, “thành đồng ao nóng của nước”.

Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông hung bạo từng tung hoành vó ngựa xâm lăng suốt cả một vùng đất rộng dài từ Á sang Âu, khi đất nước ở vào tình thế nước sôi lửa bỏng, ngàn cân treo sợi tóc, vua Trần Nhân Tông vẫn tin tưởng: “Cối Kê cựu sự quân tu ký, Hoan Diễn do tồn thập vạn binh” (tạm dịch: chuyện cũ Cối Kê ngươi nên nhớ, Hoan Diễn kia còn chục vạn binh). Nhìn trong lịch sử dân tộc, những tên tuổi lớn như Mai Hắc Đế, Hồ Quý Ly, Nguyễn Huệ – Quang Trung, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Nguyễn Trường Tộ…hoặc sinh ra hoặc khởi nghiệp và thành danh ở nơi này.

Ở thời hiện đại, cùng với Hồ Chí Minh, nhiều nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng ta như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Phan Đăng Lưu, Lê Hồng Sơn, Phạm Hồng Thái, Lý Tự Trọng, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Sĩ Sách,…cũng là những người con ưu tú của đất Hồng Lam.

Bác Hồ sinh ra trong một gia đình có truyền thống nho học nguồn gốc nông dân. Ông Nguyễn Sinh Sắc – thân phụ Bác, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được cụ giáo Hoàng Đường đưa về nuôi dưỡng, cho ăn học, rồi gả người con gái yêu đầu lòng. Khi Bác cất tiếng khóc chào đời, khói lửa của phong trào Cần Vương – bên kia sông Lam là cuộc dấy nghĩa của Phan Đình Phùng, Cao Thắng, ở ngay núi Chung trước nhà là của Vương Thúc Mậu…dần lắng xuống. Thân mẫu Bác thường ru con những câu ca da diết: “Con ơi nhớ lấy câu này/ Chăm lo đèn sách cho tày áo cơm/ Làm người đói sạch rách thơm/ Công danh phủi nhẹ, nước non phải đền”.

Lớn lên chút nữa, những cuộc đàm đạo văn chương, thế sự của thân phụ Bác với các vị túc nho như Phan Bội Châu, Vương Thúc Quý, Đặng Thái Thân đã nhen lên trong tâm khảm Bác và người chị, người anh lòng yêu nước nồng nàn, chí căm thù lũ giặc sâu sắc. Ông Nguyễn Sinh Sắc, dù đậu Phó bảng, dù được bổ làm quan vẫn trước sau xa xót: “Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ hựu nô lệ” (quan trường là nô lệ trong đám người nô lệ nên càng nô lệ hơn). Chị gái của Bác – bà Nguyễn Thị Thanh, anh trai Bác – ông Nguyễn Sinh Khiêm, đều được học hành chu đáo, tham gia các hoạt động yêu nước, đều bị chính quyền thực dân, phong kiến cầm tù, quản chế.

Truyền thống vẻ vang của quê hương và gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến tuổi ấu thơ của Bác, đến việc hình thành nhân cách, tư tưởng, đạo đức của Bác. Sau này, trên con đường bôn ba tìm đường cứu nước, được hoà mình trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Á, Âu, Phi, Mỹ, Australia; được tiếp xúc với chủ nghĩ Mác – Lênin và ánh sáng Cách mạng Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển truyền thống văn hoá, yêu nước và cách mạng của dân tộc, của quê hương lên tầm cao mới: chủ nghĩa yêu nước mang nội dung nhân bản sâu sắc; giải phóng dân tộc đi liền với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người; đề cao con người là nhân tố quyết định của lịch sử; cách mạng dân tộc, dân chủ phải phát triển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa; sức mạnh dân tộc phải gắn liền với sức mạnh thời đại; đặc biệt coi trọng vai trò “là gốc”, “là người chủ” của nhân dân, sức mạnh to lớn đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là những đóng góp hết sức quan trọng của Người đối với giá trị văn hoá Việt Nam và cả nhân loại.

Một con người của “Nền văn hóa tương lai”

Năm 1987, Đại hội đồng UNESCO lần thứ 24 tại Paris, nước Pháp đã ra Nghị quyết 24C/18.65 về việc kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1990, đúng 100 năm Ngày sinh của Người, vinh danh Người là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hoá thế giới” 1 . Nhưng 64 năm trước, năm 1923, nhà thơ Xô viết Osip Mandelstam đã viết về Nguyễn Ái Quốc – tên Người lúc đó, trên tạp chí Ogoniok, số 39: “Từ Nguyễn Ái Quốc toả ra một nền văn hoá, không phải là văn hoá châu Âu mà có lẽ là nền văn hóa của tương lai”… “Dân tộc Việt Nam là một dân tộc giản dị và lịch sự. Qua cử chỉ cao thượng, tiếng nói trầm lắng của Nguyễn Ái Quốc, tôi thấy được ngày mai, thấy được viễn cảnh trời yên bể lặng của tình hữu ái toàn thế giới bao la như đại dương” 2 .

Dẫu bôn ba bốn biển năm châu, dẫu xa quê khi còn rất trẻ, Người luôn yêu quý, luôn khắc khoải về đất nước, quê hương. Người nhớ nằm lòng nhiều làn điệu hát ví, hát giặm, hát phường vải của quê nhà. Người sử dụng rộng rãi, linh hoạt, tài tình các thể loại văn học truyền thống, các hình thức sinh hoạt văn hoá dân dã như tập Kiều, lẩy Kiều, vịnh Kiều, tập cổ, thơ lục bát, thơ tự vịnh, thơ cổ điển, thơ mừng tuổi, thơ chúc tết, chúc thọ. Người ưa lẩy Kiều và đã vận dụng nghệ thuật dân gian này đến độ sáng tạo, tinh tế. Người không nhận mình là một nhà thơ, nhà văn “Ngâm thơ ta vốn không ham”… Người làm thơ, viết văn, viết báo, chụp ảnh, ký hoạ có khi là để mưu sinh, nhưng cao hơn là để phong phú hóa, thanh bạch hóa cuộc sống thường nhật gian khổ, khó khăn của mình, là để phục vụ cách mạng.

Trong thơ văn, Người hay dùng tục ngữ, ca dao, dân ca, lối nói ví von, so sánh sinh động, dễ hiểu của nhân dân lao động. Người yêu mến và say sưa nghiên cứu các tác phẩm văn chương cổ điển của Việt Nam, Trung Quốc, Pháp và các nước khác. Người nhắc nhở mình và mọi người “Nay ở trong thơ nên có thép, nhà thơ cũng phải biết xung phong”. Văn chương, thơ ca của Người giản dị, chân chất, nhân văn như tính mộc mạc, đằm thắm của người xứ Nghệ, lại có cái sâu sắc, thâm thuý, uyên bác của các nhà hiền triết phương Đông, phương Tây; cổ điển và hiện đại, xứ sở và dân tộc, bình dân và bác học… hoà quyện một cách nhuần nhuyễn, sống động, tài tình.

Trên con đường hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt chân lên hầu khắp các châu lục, nhiều quốc gia, nhiều nền văn hoá, thông thuộc nhiều thứ tiếng nước ngoài. Vậy mà, một đêm ở Thái Lan xa xôi, Người thốt lên “Xa nhà chốc mấy mươi niên / Đêm qua nghe tiếng mẹ hiền ru con”. Người vẫn giữ cho mình giọng Nghệ nằng nặng, trầm ấm, chân chất, vang vọng của quê nhà. Sau hàng chục năm xa quê, ngày trở lại, Người xúc động nói: “Quê hương nghĩa trọng tình cao / Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình”. Người không quên lối đi nhỏ vào nhà ngày xưa nơi có hàng râm bụt, cây bưởi, luống rau, luống lạc trước nhà, cây mít, hàng cau phía sau, chiếc võng tuổi thơ, chiếc rương gỗ nhỏ – của hồi môn ít ỏi của mẹ, khung cửi của bà, của mẹ, chiếc phản gỗ và mấy pho sách của cha, những câu chuyện kể của ông bà… Người nhớ và ghi sâu công đức người thầy khai tâm của mình, những kỷ niệm với người bạn câu cá, ông thợ rèn, bạn thả diều, chăn trâu, đánh trận giả…Người nhớ và nhắc giúp nghệ sỹ quê nhà hai câu cuối của một bài hát dân ca, về cách phát âm, cách luyến láy một số từ giọng Nghệ khi hát xướng. Trong bữa ăn thường nhật, Người ưa món tương, cà, nhút, vừng của quê nhà.

Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới

Năm 15 tuổi, Nguyễn Sinh Cung cùng cha, mẹ và anh Khiêm vào Huế; năm 18 tuổi (1908), Anh tham gia các cuộc biểu tình chống thuế của nông dân tại kinh đô Huế. Năm 1910, trong tên gọi Nguyễn Tất Thành, trên con đường mở mang tầm nhìn, khao khát con đường cứu nước, Bác của chúng ta dừng chân dạy học ở Trường Dục Thanh, thị xã Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, ngôi trường do các sĩ phu yêu nước ở đây lập ra nhằm hưởng ứng phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ do Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng khởi xướng. Ngày 5/6/1911, tại bến cảng Sài Gòn, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành xuống tàu biển sang phương Tây, như sau này Người kể lại “Tôi muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta” 3.

Trước đó, Phan Bội Châu đi về phương Đông, nhưng một thực tế hết sức phũ phàng là nước Nhật “đồng chủng”, “đồng cừu” đang phản bội người da vàng, xâm lược Trung Quốc, Triều Tiên, ra lệnh trục xuất chính Phan và các du học sinh Việt Nam yêu nước. Cải cách của Khang, Lương ở Trung Quốc thất bại, cho thấy Trung Quốc không thể đi theo con đường Duy Tân của Nhật Bản. Cách mạng Tân Hợi (1911) của Tôn Văn tuy lật đổ được ngai vàng đế chế, nhưng đã không lật đổ được quyền chiếm hữu ruộng đất và ách bóc lột của địa chủ phong kiến, ách nô dịch của đế quốc tư bản nước ngoài. Nhiều trí thức Việt Nam đương thời cũng sang Pháp, có người chỉ lo học hành, kiếm sống, làm giàu; có người vừa học chữ, vừa tìm đường cứu nước, cứu dân.

Luật sư, Tiến sĩ Phan Văn Trường và Phó bảng Phan Châu Trinh tiêu biểu cho nhóm thứ hai. Tuy nhiên, sống và hoạt động ở Pháp nhiều năm, từng tiếp xúc với các lực lượng cánh tả Pháp, vậy mà các ông vẫn không tìm được con đường đúng đắn giải phóng dân tộc, không đến được với chủ nghĩa Mác – Lênin như Văn Ba – Nguyễn Ái Quốc. Theo báo cáo của Trung ương Đảng Xã hội Pháp thì năm 1913 đã có 7 người Việt Nam vào Đảng Xã hội Pháp, năm 1919 có 80 người Việt Nam tham gia Đảng này, nhưng đến năm 1920 chỉ còn 20 người, duy chỉ có Nguyễn Ái Quốc (vào Đảng Xã hội Pháp năm 1918) trở thành người cộng sản 4 .

Trên con đường bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc được hòa mình trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, châu Á. Với sự thông minh, mẫn tiệp, nhạy cảm với cái mới, trăn trở, khát khao tìm con đường đúng đắn để cứu nước, cứu dân, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp xúc, gạn lọc, đón nhận những tư tưởng tiến bộ của văn hóa phương Tây: chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng, chủ nghĩa duy lý thế kỷ Ánh sáng, tư tưởng dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái của cách mạng Pháp, Anh, Mỹ…

Ở Pháp, Người cùng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường gửi Yêu sách của nhân dân An Nam đến Hội nghị Versailles (1919); viết Bản án chế độ thực dân Pháp (1920); bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ Ba (tức Quốc tế Cộng sản), trở thành một trong những sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và đương nhiên, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên (1920); sáng lập báo Người cùng khổ (Le Paria, 1922), ngay bài viết cho số đầu tiên, Người tuyên bố sứ mệnh tờ báo là “giải phóng con người”.

Ở Pháp, Người cùng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường gửi Yêu sách của nhân dân An Nam đến Hội nghị Versailles (1919); viết Bản án chế độ thực dân Pháp (1920); bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ Ba (tức Quốc tế Cộng sản), trở thành một trong những sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và đương nhiên, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên (1920); sáng lập báo Người cùng khổ (Le Paria, 1922), ngay bài viết cho số đầu tiên, Người tuyên bố sứ mệnh tờ báo là “giải phóng con người”.

Hơn 10 năm ở trời Tây, vừa vất vả lao động kiếm sống, vừa đau đáu tìm kiếm con đường cứu nước, cứu dân, Văn Ba – Nguyễn Ái Quốc càng nhận thức rõ: chủ nghĩa tư bản, bè lũ đế quốc, thực dân là những kẻ đã gây ra mọi áp bức, bóc lột, đau khổ cho công nhân, nông dân và các tầng lớp khác ở cả thuộc địa và ở ngay chính quốc.

Theo Người: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ Ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh vừa nghiên cứu lý luận Mác – Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” 5. Người khẳng định: “Muốn giải phóng dân tộc phải tự mình làm lấy”. Người tin tưởng ở con đường đi của mình, tin tưởng ở sức mạnh của nhân dân, của dân tộc.

Điều này, rất khác với quan điểm của Phan Bội Châu, của Phan Chu Trinh; vượt qua những giáo lý Khổng, Mạnh hẹp hòi, duy tâm; vượt qua sự hạn chế của chủ nghĩa yêu nước đã khá lỗi thời của các sĩ phu phong kiến và các nhà cách mạng có xu hướng dân chủ tư sản, tiểu tư sản đương thời. Từ chủ nghĩa yêu nước, Người đến với chủ nghĩa cộng sản khoa học, chủ nghĩa Mác – Lênin. Người bắt gặp, đón nhận Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin, và sự kiện này không hề là ngẫu nhiên, may mắn. Đó là một tất yếu khách quan mang tính khoa học và cách mạng. Chính Phan Châu Trinh, trong một bức thư đề ngày 18/2/1922 gửi từ Marseille cho Nguyễn Ái Quốc đang ở Paris, đã viết: “Thân tôi tựa như chim lồng, cá chậu… Cảnh tôi như hoa sắp tàn, hiềm vì quốc phá gia vong, mà hơi tàn cũng phải gào cho hả, may ra có tỉnh giấc hồn mê”. Cuối thư, Cụ ví Nguyễn Ái Quốc “như cây đương lộc, nghị lực có thừa, dày công học hành, lý thuyết tinh thông… không bao lâu nữa cái chủ nghĩa anh tôn thờ (ý nói chủ nghĩa Mác – Lênin) sẽ thâm căn cố đế trong đám dân tình chí sỹ nước ta” 6 .

Điều mà cụ thân sinh Nguyễn Sinh Sắc cùng các chí sỹ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và cả dân tộc mong mỏi, đã theo bước chân của Nguyễn Tất Thành -Văn Ba- Nguyễn Ái Quốc, qua thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Á, Âu, Phi, Mỹ, Australia; qua ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và cách mạng Tháng Mười Nga, đã lan tỏa, “sâu rễ bền gốc” ở Việt Nam. Để có chuyến trở về nước lịch sử của Nguyễn Ái Quốc ngày 28/1/1941. Để có Ngày Quốc khánh 2/9/1945 với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại “Người có tầm nhìn cao rộng và sâu xa, xuyên qua lịch sử, bao quát không gian, thấy sáng tương lai, mở ra những bước ngoặt vĩ đại, đưa dân tộc Việt Nam từ cảnh nô lệ lầm than ra ánh sáng độc lập tự do, từ một đất nước ít ai biết đến trở thành người chiến sỹ tiêu biểu cho cả loài người tiến bộ yêu mến và khâm phục. Đó là tầm nhìn mang ý nghĩa chiến lược, nhìn thấy con đường cứu nước là con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gặp gỡ và hòa nhập với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa quyện vào nhau trong không gian và thời gian, ở một nước và trên toàn thế giới” 7 .

Từ Làng Sen, Nam Đàn, Nghệ An, Hồ Chí Minh đã hòa mình cùng cuộc đấu tranh vĩ đại của nhân dân, dân tộc mình; vươn ra biển lớn để từ một người yêu nước chân chính thành người cộng sản chân chính, một nhà văn hóa lớn của phương Đông và phương Tây. Từ thế giới, Người lại trở về với nhân dân mình, dân tộc mình, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; làm nên một Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; tạo những tiền đề quan trọng cho trận “Điện Biên Phủ trên không” cuối năm 1972 trên bầu trời Hà Nội, cho Đại thắng mùa xuân 1975 hội tụ ở Thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng.

Người để lại cho muôn đời sau tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức Hồ Chí Minh, phong cách Hồ Chí Minh, con đường Hồ Chí Minh. Người là đóa sen đẹp nhất của dân tộc Việt Nam và là đóa sen đẹp, thanh cao, mẫu mực của nhân loại./.

1234567 Lời Thủ tướng Phạm Văn Đồng tại buổi gặp mặt với đại biểu cán bộ và nhân dân Nghệ Tĩnh ngày 19 tháng 5 năm 1985. Bác Hồ với đất Quảng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập X, trang 126-128 (Bài “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, đăng trên Tạp chí Các vấn đề phương Đông, Liên Xô, 1960, nhân kỷ niệm 90 năm Ngày sinh V.I. Lênin). Bác Hồ với quê hương Nghệ Tĩnh, NXB Nghệ tĩnh, 1990, trang 146. Theo cuốn sách “Vừa đi đường vừa kể chuyện”của tác giả chúng tôi bản in năm 1976 của Nhà xuất bản Sự thật. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, 1995, Tập 1, trang 477. Đại hội đồng UNESCO 24, họp từ 20/10-20/11/1987 ở Paris đã ra Nghị quyết tại Tiểu mục18.65, mục 18.6 .