ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
Phạm Duy Tốn là một cây bút viết truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX. sống chết mặc bay là truyện ngắn tiêu biểu, nó được coi như một trong những tác phẩm mở đầu cho khuynh hướng văn học hiện thực phê phán sau này. Trong Sống chết mặc bay, tác giả đã tái hiện khá sinh động bức tranh đối lập giữa đời sống khổ cực của nhân dân với cuộc sống phè phỡn xa hoa của lũ quan lại. Viết sống chết mặc bay, Phạm Duy Tốn đã manh mẽ tố cáo thói vô trách nhiệm của bọn quan lại đương thời.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã xây dựng một tình huống độc đáo được đặt trong sự đối lập gay gắt. Một bên là tình cảnh vô cùng nguy khốn của dân chúng : “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá ; khúc đê làng X. thuộc phủ X. xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất”. Tính mạng “con dân” cả vùng đang bị đe dọa nghiêm trọng. Quang cảnh hàng trăm ngàn con người đang ra sức chống chọi lại với cơn lũ thật khẩn trương, vất vả : “kẻ thì thuổng, người thì cuốc, người đội đất, kẻ vác tre”, “người nào người nấy lướt thướt như chuột lột” đối lập với cảnh quan huyện – “kẻ cha mẹ của dân” – có trách nhiệm đốc thúc dân chúng bảo vệ đê đang chễm chệ trong đình “cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trong mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì”. Ngoài kia con dân đang chân lấm tay bùn, đem thân hèn yếu để chống chọi lại với sức nước thì trong đình “đèn thắp sáng trưng”, “nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn ràng”. Dường như ngoài kia và trong này là cả hai thế giới khác biệt hoàn toàn. Nếu ngoài kia là thảm cảnh thì trong này là thú vui. Ngoài kia gấp gáp khẩn trương, trong này thong dong nhàn nhã. Cái náo loạn đặt bên cạnh cái yên ả. Trái với “con dân” đang “trăm lo ngàn sợ”, quan phụ mẫu “uy nghi chễm chện ngồi” như không hề hay biết đến tinh trạng thảm thương của dân chúng. Dựng lên hai cảnh đối lập gay gắt đó, tác giả vạch trần thói vô trách nhiệm của bọn quan lại đương thời. Trong tình cảnh ấy, vô trách nhiệm chính là một tội ác.
Bản chất vô nhân đạo, lối sống “sống chết mặc bay” của tên quan huyện đã lộ rõ. Mưa gió và sinh mạng hàng ngàn con người không được quan chú ý bằng 120 lá bài. Không khí trong đình vẫn tĩnh mịch, chỉ đồi khi nghe tiếng quan gọi : “Điếu, mày”, tiếng “Dạ”, tiếng “Bốc”, “Bát sách ! Ăn”, “Thất văn… Phỗng”… Thú vui bài bạc, ma lực đỏ đen đã làm bọn quan lại đánh mất lương tri, nhân tính. “Nước sông dầu nguy không bằng nước bài cao thấp”, hình ảnh so sánh thể hiện sự táng tận lương tâm của lũ vô lại. Cuối cùng, đê vỡ. Quan đỏ mặt tía tai : “Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày”. Đoạn, lại bình thản quay mặt hổi thầy đề : “Thầy bốc quân gì thế ?”. Ván bài “ù to”. Quan sung sướng, cười hả hê, đắc chí và cũng chính lúc ấy “nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết”…
Với việc sử dụng triệt để thủ pháp tương phản đối lập và nghệ thuật xây dựng tình huống truyện gay gắt ; với giọng văn khi thiết tha xúc động, khi cay độc mỉa mai,… Phạm Duy Tốn đã trực tiếp bày tỏ thái độ cảm thông sâu sắc của mình trước thảm cảnh của dân chúng và lòng căm uất phẫn nộ bọn quan lại phong kiến.
VĂN BẢN ĐỌC THÊM
TẮT ĐÈN (Trích)
Bóng cây ngả đến gần tường bao lan.
Mặt trời chênh chếch nhòm vào gốc đa, gốc gạo.
Những con trâu, bò bị bắt và bị kí giam chỏng gọng nằm dưới nắng, uể oải nhai những rễ khoai hoặc cỏ héo của chủ ban cho.
Một lũ đàn bà chờ đợi nộp thuế, lê la ngồi khắp thềm đình.
Đàn chó chui trong gậm đình, chực cướp xương rơi, con nọ cắn con kia ý ẳng.
Trên đình ăn uống đã tàn.
Chánh tổng ngậm tăm nằm cạnh bàn đèn, hai mắt lim dim dở ngủ.
Cai lệ ngồi nhổm hai chân cạo lọ, cặp môi thâm sịt nhành ra gần tới mang tai.
Cậu lính cơ lây hết gân guốc trên bộ mặt đỏ gay, ra sức nghiền cục xái trong cái chén mẻ.
Mấy ông hương trưởng, tộc biểu, trương tuần xúm quanh cái điếu đàn và chiếc ấm tay, kẻ hút thuốc, người phùng miệng thổi bát nước nóng.
Lí trưởng tựa lưng bên bức câu lơn, thù tiếp chánh hội, phó hội bằng mâm cỗ chỉ còn rau chuối và lá tía tô.
Thư kí, chưởng bạ lễ phép chìa đũa mời nhau gắp mấy miếng thịt mỡ khô cong các cạnh.
Lí cu, phó lí, thủ quỹ châu đầu trên lớp bát đĩa đầy nhặng xanh, gật gù nhấc chén lên lại đặt chén xuống.
Người nhà chánh tổng, người nhà lí trưởng, mấy anh tuần phu canh ngày, ken vai vây lấy rá cơm “đi hơi” và chậu nước xuýt ruồi chết nổi lều bều, soàn soạt vừa húp và vừa nuốt.
Mỗi người mỗi miệng, ai nói nấy nghe. Sự ầm ầm càng giúp sức cho sự nóng nực.
Chị Dậu về đến cổng đình, vừa thây tiếng ông lí cựu quát vang trong đình :
– Thằng Mới đâu ? Vào ti lấy thêm mấy chai rượu nữa ra đây ! Chúng tao còn uống ! Ai thôi mặc ai.
Tiếp đến tiếng ông chánh hội:
– Hãy gượm ! Rượu còn đấy, các ông cứ uống cho hết. Để nó đi mua vài đồng thuốc phiện nữa đã. Cụ chánh đợi đã lâu rồi.
Rồi đến tiếng ông hương trưởng :
– Thong thả hãy mua thuốc phiện cũng được ! Miệng tao còn chưa rửa đây. Ra giếng múc tao chậu nước !
Rồi đến tiếng ông thủ quỹ :
– Rồi hãy múc nước ! Mày đi rót một ít nước mắm vào đây cái đã !
Rồi đến lượt ông lí cựu vắt lại :
– Các ông đừng bỉ mặt nhau ! Tôi đương bảo nó đi lấy thêm rượu, các ông lại nỡ vỗ vào mặt tôi, người này sai nó việc này, người kia sai nó việc khác… Khinh nhau vừa vừa chứ !
Bạo dạn, chị Dậu bước lên cửa đình, hạ cái mê nón ở trên đầu xuống.
– Chào các cụ, chào các ông.
cả đình đổ xô trông ra. Người nhà lí trưởng tráo ngược đôi đũa chỉ vào mặt chị :
– Sưu của anh ấy đủ chưa ? Đem mà nộp đi !
Cai lệ vừa cạo hết xái trong lọ, ngẩng đầu trông lên.
– À ! Con vợ thằng gì ở xóm cuối làng phải không ? Chị ta cứng cổ lắm, lí sư lắm. Sáng nay nếu không vội đi bắt đứa khác thì tôi biếu thêm cho chị ấy vài chục quả phật thủ nữa.
Phó lí chõ vào :
– Nó là vợ thằng đĩ Dậu chứ thằng gì ? Sao ông không giã thêm cho nó một mẻ ? Ông lí tôi mời ông về đây, chỉ cần có thế.
Lí trưởng rung đùi ra bộ đắc ý :
– Tôi nói trên có cu chánh, có ông cai và đông các ông tất cả : vụ thuê này tôi làm kể cũng cứng lắm. Không cần gì hết, đứa nào trái ý, đánh luôn. Mà cũng có thế mới được. Chúng tôi làm vua làm việc, quanh năm đầu chày đít thớt, chỉ có những lúc “hồng thuỷ trướng giật” và những khi “sưu thuế giới kì” như thế này, thì mới có quyền. Tha hồ đánh, tha hồ trói, trai làng thằng nào bướng bỉnh… đánh chết vô tội vạ.
(Ngô Tất Tố, Tắt đèn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1984)
– Gợi dẫn
Trong đoạn trích, có những cảnh tương phản nào ? Việc xây dựng cảnh tương phản đó có ý nghĩa gì ?