Vướng Mắc Khi Thực Hiện Nghị Quyết 42 / Top 3 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Kiến Nghị Vướng Mắc Nghị Quyết 42

Biện pháp xử lý cũng đa dạng hơn trước khi có nghị quyết của Quốc hội, đặc biệt nghị quyết đã cho phép các thành phần kinh tế tham gia vào quá trình xử lý nợ xấu ngân hàng. Trong 2 năm qua NHNN Việt Nam đã phối hợp với các bộ, ngành hữu quan ra nhiều văn bản chỉ đạo nhằm hỗ trợ các ngân hàng xử lý nợ xấu.

Tuy nhiên, theo phản ánh của các ngân hàng ở chúng tôi nhiều bộ, ngành, địa phương triển khai Nghị quyết 42 còn chưa đầy đủ dẫn đến không thống nhất trong cách xử lý thủ tục thu hồi nợ xấu cho ngân hàng. Trong đó có thủ tục hợp thức hóa cấp giấy chứng nhận phần diện tích đất trên đất chênh lệch so với giấy chứng nhận và diện tích đất thế chấp ngân hàng.

Ví như, thời điểm DN vay vốn thế chấp 1 ha, nhưng đến khi rơi vào nợ xấu số đất lại nở ra 1,2 ha. Nguyên do chủ đất đã mua thêm, nhưng phần mua thêm chưa phải đất thổ cư nên chính quyền cơ sở không chứng nhận cho ngân hàng thu hồi tài sản đảm bảo vì còn có phần đất nông nghiệp dính vào tài sản đảm bảo nợ vay.

Chưa kể các hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp của ngân hàng trước đây gần như không thể hiện được nội dung thỏa thuận cụ thể được quyền thu giữ tài sản đảm bảo hoặc có thỏa thuận nhưng sử dụng các thuật ngữ chung chung như TCTD được quyền phát mãi, quyền định đoạt… trong khi chưa có văn bản hướng dẫn nội dung quyền thu giữ tài sản đảm bảo được hiểu như thế nào là đầy đủ.

Việc bán nợ xấu và tài sản đảm bảo, theo ACB, Nghị quyết 42 không điều chỉnh giá thị trường được xác định trên cơ sở nào, đơn vị nào đủ năng lực, thẩm quyền xác định giá trị thị trường. TCTD có được tự xác định giá trị thị trường của khoản nợ, giá thỏa thuận của các bên mua bán có được xem là giá thị trường?

Một đại diện Sacombank cho biết, hoạt động mua bán nợ xấu của TCTD cho các tổ chức, cá nhân chưa có nhiều do bên mua nợ còn e ngại thủ tục xử lý nợ trên thực tế gặp nhiều khó khăn về thời gian, chi phí. Thực tế đến nay cũng không nhiều tổ chức, cá nhân có tiềm lực tài chính mạnh để hoạt động mua bán nợ xấu theo giá thị trường.

Theo NHNN chi nhánh chúng tôi các TCTD trên địa bàn mong muốn cần có hướng dẫn cụ thể Điểm b, Khoản 2, Điều 7 của Nghị quyết 42/2017/QH14. Trong đó, Điểm b, tại hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền thu giữ tài sản đảm bảo của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản đảm bảo theo quy định của pháp luật. Trong đó, giải thích rõ thỏa thuận về quyền thu giữ tài sản đảm bảo theo hợp đồng bảo đảm là như thế nào để có cơ sở cho TCTD áp dụng đúng quy định. Cần có văn bản hướng dẫn rõ việc xác định tài sản như thế nào là không tranh chấp theo Nghị quyết 42/2014/QH14.

Từ đó, có quy định cơ quan thuế và cơ quan đăng ký có trách nhiệm cập nhật, đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đảm bảo xử lý nợ xấu, kể cả trường hợp tài sản đảm bảo sau khi xử lý không đủ thanh toán nợ cho ngân hàng thì ngân hàng bên mua trúng đấu giá vẫn không phải đóng thuế thu nhập cá nhân hoặc thuế chuyển quyền sử dụng đất.

Hải Nam

Nguồn:

Tháo Gỡ Khó Khăn, Vướng Mắc Trong Triển Khai Nghị Quyết Số 42

Thông tin tại cuộc họp cho biết, sau khi Nghị quyết số 42/2017/QH14 có hiệu lực, kết quả xử lý nợ xấu của ngành ngân hàng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.

Trước khi có Nghị quyết số 42, nợ xấu của toàn hệ thống chủ yếu được xử lý bằng dự phòng rủi ro, các biện pháp xử lý nợ xấu thông qua xử lý tài sản bảo đảm và khách hàng tự trả nợ còn chưa cao.

Tuy nhiên, kể từ khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực đến nay, tỷ trọng nợ xấu xử lý bằng hình thức khách hàng tự trả nợ/tổng nợ xấu nội bảng theo Nghị quyết số 42 đã xử lý cao hơn nhiều.

Phát biểu tại cuộc họp, Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Kim Anh ghi nhận sự nỗ lực, cố gắng của các TCTD đối với công tác xử lý nợ xấu nói chung và xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42 nói riêng thời gian vừa qua.

Theo Phó Thống đốc, mặc dù công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu nói chung và xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42 nói riêng thời gian qua đã đạt được kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những khó khăn, vướng mắc, đòi hỏi sự chung sức, nỗ lực của toàn hệ thống chính trị, đặc biệt là sự phối hợp của các Bộ, ngành, địa phương.

Để đảm bảo công tác xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42 được triển khai có hiệu quả trên thực tế, các khó khăn, vướng mắc về cơ bản sẽ được xử lý, các TCTD và VAMC cũng đề xuất một số giải pháp, kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Tại cuộc họp, đại diện Vụ Pháp chế, Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng cũng giải đáp và tiếp thu đối với các khó khăn, vướng mắc và đề xuất của các TCTD, VAMC đưa ra tại cuộc họp.

Đối với các khó khăn, vướng mắc, đề xuất của TCTD chưa hợp lý và các khó khăn, vướng mắc của TCTD đã được NHNN, các Bộ, ngành xử lý, Vụ Pháp chế, Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng và VAMC sẽ cùng trao đổi cung cấp thêm thông tin cho TCTD về vấn đề này.

Phó Thống đốc yêu cầu các TCTD rà soát nội dung báo cáo, để có đề xuất, kiến nghị phù hợp nhằm phối hợp, đồng hành với NHNN tiếp tục triển khai có hiệu quả xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42 trong thời gian tới, đồng thời bày tỏ tin tưởng, cùng với sự nỗ lực, quyết liệt của cả hệ thống, ngành Ngân hàng sẽ đạt được mục tiêu về xử lý nợ xấu nhằm góp phần giữ vững sự phát triển ổn định, an toàn, bền vững của hệ thống ngân hàng.

Những Vướng Mắc Khi Áp Dụng Nghị Quyết 1037/2006/Nq

Ngày 27/7/2006, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 1037/2006/ NQ-UBTVQH11 quy định về giao dịch dân sự về nhà ở xác lập trước 01/07/1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia.

Sự kiện này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với những người tham gia giao dịch có yếu tố nước ngoài mà phát sinh tranh chấp, quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm, bởi vì trước đây họ là những chủ thể chưa được cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết do Nghị quyết 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 24-08-1998 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định. Đến nay họ đã có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi cho mình..

Những quy định của Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 là cơ sở pháp lý nhằm giải quyết các vướng mắc trong giao dịch dân sự về nhà ở xác lập trước ngày 1-7-1991 có yếu tố nước ngoài còn tồn đọng cho đến nay.

Nghiên cứu Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH! thì thấy các giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1991 có yếu tố nước ngoài được NQ điều chỉnh có 2 nội dung giao dịchthực tế phát sinh tranh chấp nhiều nhất là mượn nhà ở, ở nhờ nhà ở và mua bán nhà ở.

Đối với nội dung mượn nhà ở, ở nhờ nhà ở, Nghị quyết 1037 quy định về thời hạn, cách thức, hình thức thay đổi, chấm dứt giao dịch các trường hợp cụ thể như sau:

Với trường hợp bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở là người Việt Nam định cư ở nước ngoài; bên mượn, bên ở nhờ nhà ở thường trú tại Việt Nam .

Trường hợp thời hạn cho mượn, cho ở nhờ nhà ở theo hợp đồng đã hết trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thì bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở được lấy lại nhà ở, trừ trường hợp có thoả thuận khác nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên mượn, bên ở nhờ nhà ở biết trước ít nhất sáu tháng.

Trường hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực mà thời hạn cho mượn, cho ở nhờ nhà ở theo hợp đồng vẫn còn thì bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở được lấy lại nhà ở kể từ ngày hết thời hạn cho mượn, cho ở nhờ, trừ trường hợp có thoả thuận khác nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên mượn, bên ở nhờ nhà ở biết trước ít nhất sáu tháng.

Trường hợp thời hạn cho mượn, cho ở nhờ nhà ở không được xác định trong hợp đồng thì bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở được lấy lại nhà ở, trừ trường hợp có thoả thuận khác nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên mượn, bên ở nhờ nhà ở biết trước ít nhất sáu tháng; trong trường hợp bên mượn, bên ở nhờ nhà ở không có chỗ ở khác hoặc không có điều kiện tạo lập chỗ ở khác thì các bên thoả thuận việc tiếp tục cho mượn, cho ở nhờ nhà ở; nếu thoả thuận được thì các bên phải ký kết hợp đồng mượn nhà ở theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005; nếu không thoả thuận được thì bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở được lấy lại nhà ở nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên mượn, bên ở nhờ nhà ở biết trước ít nhất hai mươi bốn tháng.

Với trường hợp bên cho mượn bên cho ở nhờ nhà ở thường trú tại Việt Nam, bên mượn, bên ở nhờ nhà ở là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, nhưng nhà ở đó đang do người khác thường trú tại Việt Nam sử dụng thì hợp đồng mượn, ở nhờ nhà ở giữa bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở và bên mượn, bên ở nhờ nhà ở chấm dứt; bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở và người đang sử dụng nhà ở có thể thoả thuận việc tiếp tục cho mượn nhà ở, cho ở nhờ nhà ở; nếu thoả thuận được thì các bên phải ký kết hợp đồng mượn nhà ở theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005; nếu không thoả thuận được thì bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở được lấy lại nhà ở nhưng phải thông báo bằng văn bản cho người đang sử dụng nhà ở biết trước ít nhất mười hai tháng.

Với trường hợp bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở và bên mượn, bên ở nhờ nhà ở đều là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, nhưng nhà ở đó đang do người khác thường trú tại Việt Nam sử dụng thì hợp đồng giữa bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở và bên mượn, bên ở nhờ nhà ở chấm dứt. Quan hệ hợp đồng giữa chủ sở hữu là bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở và người đang sử dụng nhà ở đó được thực hiện theo quy định tại Điều 10 của Nghị quyết 1037.

Đối với nội dung giao dịch mua bán nhà ở, NQ 1037 phân loại chủ thể tham gia hợp đồng mua bán nhà bao gồm:

Bên mua nhà ở là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, bên bán nhà ở thường trú tại Việt Nam và bên bán nhà ở là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, bên mua nhà ở thường trú tại Việt Nam hoặc bên mua nhà ở và bên bán nhà ở đều là người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Bên mua nhà ở là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, bên bán nhà ở thường trú tại Việt Nam, Nghị quyết 1037 lại phân biệt thành 4 trường hợp:không tranh chấp, có tranh chấp, chưa thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, hợp đồng có điều kiện như sau:

Trường hợp không có tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất thì các bên phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu.

Trường hợp có tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất thì giải quyết như sau:

Nếu bên mua đã trả đủ tiền mà bên bán chưa giao nhà ở thì các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng và phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu;

Nếu bên mua chưa trả đủ tiền mà bên bán đã giao nhà thì bên mua phải trả cho bên bán khoản tiền còn thiếu tính theo giá trị của nhà ở đó theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán và các bên phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu;

Nếu bên mua chưa trả đủ tiền mà bên bán chưa giao nhà thì bên bán phải giao nhà cho bên mua và bên mua phải trả cho bên bán khoản tiền còn thiếu tính theo giá trị của nhà ở đó theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán và các bên phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu.

Trường hợp thủ tục chuyển quyền sở hữu đã hoàn tất nhưng bên bán chưa giao nhà ở hoặc bên mua chưa trả đủ tiền thì các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, trừ trường hợp có thoả thuận khác; nếu bên mua chưa trả đủ tiền thì phải trả cho bên bán khoản tiền còn thiếu tính theo giá trị của nhà ở đó theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán.

Trường hợp hợp đồng mua bán nhà ở có điều kiện mà điều kiện đó đã xảy ra hoặc đã được thực hiện thì được giải quyết theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 13 Nghị quyết 1037.

– Với bên bán nhà ở là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, bên mua nhà ở thường trú tại Việt Nam hoặc bên mua nhà ở và bên bán nhà ở đều là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, Nghị quyết tiếp tục phân biệt thành 3 trường hợp không tranh chấp, có tranh chấp, chưa thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng như sau:

Trường hợp không có tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất thì các bên phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu.

Trường hợp có tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất thì quyền và nghĩa vụ của các bên được giải quyết như đối với trường hợp vớibên mua nhà ở là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, bên bán nhà ở thường trú tại Việt Nam.

Trường hợp thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà ở đã hoàn tất nhưng bên bán chưa giao nhà ở hoặc bên mua chưa trả đủ tiền thì quyền và nghĩa vụ của các bên được giải quyết như đối với trường hợp vớibên mua nhà ở là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, bên bán nhà ở thường trú tại Việt Nam..

Nghị quyết còn nêu rõ việc giải quyết đối với bên không thực hiện nghĩa vụ trong các trường hợp nếu trên mà có lỗi, gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005.

Nghị quyết 1037 ban hành đã giải quyết được những vướng mắc trong giải quyết tranh chấp về nhà ở có yếu tố nước ngoài. Xuất phát từ những tồn tại trong thực tế các trường hợp giao dịch về nhà ở có yếu tố nước ngoài trước ngày 1 tháng 7 năm 1991, Nghị quyết đã quy định rất chặt chẽ đối với từng trường hợp cụ thể, nhằm giải quyết triệt để những bất cập trong pháp luật trước đây và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người tham gia giao dịch.. Tuy nhiên những quy định của Nghị quyết vẫn còn những vướng mắc, hạn chế nhất định, hiện nay chưa có văn bản nào hướng dẩn để thực hiện cụ thể. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu công tác xét xử khi giải quyết các tranh chấp dân sự về nhà ở có yếu tố nước ngoài, đòi hỏi Toà án nhân dân tối cao cần sớm phải có những hướng dẩn cụ thể để việc áp dụng pháp luật một cách thống nhất trên cả nước khi giải quyết tranh chấp các giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01-07-1991.

Trước hết đối với việc thông báo đòi nhà đối với nội dung giao dịch cho mượn ,cho ở nhờ theo Nghị quyết 1037. Nghị quyết này không quy định hình thức và nội dung thông báo đòi nhà, cơ sở hợp pháp của việc thông báo và không xác định thông báo bắt đầu thời điểm nào? Thời điểm Nghị quyết 1037 có hiệu lực hay từ lúc phát sinh tranh chấp? Do vậy, để tính hiệu lực của thông báo đòi nhà do các đương sự xác lập là có cơ sở, không còn là vướng mắc cản trở việc giải quyết tranh chấp, Toà án nhân dân tối cao cần hướng dẩn một cách cụ thể các vấn đề này, và nêu rõ sự phân biệt đối với các vụ án tranh chấp giao dịch về nhà ở được xác lập trước ngày 01-07-1991 có yếu tố nước ngoài mà tòa án các cấp đã thụ lý hoặc đã chuẩn bị xét xử sơ thẩm, chuẩn bị xét xử phúc thẩm…, sau đó phải tạm đình chỉ theo Nghị quyết 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 24-08-1998 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, nay lý do tạm đình chỉ không còn khi Nghị quyết 1037 có hiệu lực, Tòa án tiếp tục đưa vụ án ra giải quyết, hoặc những trường hợp trước đây bên đòi nhà đã qua hòa giải ở cơ sở, Ủy ban Nhân dân các cấp giải quyết theo thủ tục hành chính do pháp luật dân sự chưa quy định thì không yêu cầu đương sự phải tiến hành thủ tục thông báo.

Nghị quyết 1037 xác định giải quyết tranh chấp đối với người tham gia giao dịch về nhà ở như người mua nhà, người bán nhà là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, nhưng chưa đề cập đến việc tham gia giao dịch của người thứ ba ngay tình trong giao dịch mua bán nhà ở có yếu tố nước ngoài xác lập trước ngày 01-07-1991 là chưa bảo đảm được quyền lợi của đương sự khi họ được chuyển giao nhà ở một cách hợp pháp, được cơ quan có thẩm quyền chứng thực.

Đối với các giao dịch dân sự về nhà ở nêu trên, mặc dù Nghị quyết 1037 đã dẫn chiếu áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2005 giải quyết hậu quả của hợp đồng dân sự vô hiệu. Tuy nhiên việc áp dụng các quy định pháp luật này đối với người thứ ba ngay tình chưa hợp lý vì các giao dịch này xảy ra quá lâu; đương sự đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, và thực tế vào thời điểm này các thủ tục giao dịch dân sự nhà ở không rõ ràng. Nếu áp dụng máy móc theo Bộ luật Dân sự năm 2005 là không bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp người thứ ba ngay tình, vì họ đã chiếm hữu nhà ở rất lâu, buộc họ trả lại nhà thì số tiền họ được hoàn lại không đảm bảo họ có được chổ ở ổn định trong tình hình bất động sản hiện nay. Do đó, Tòa án nhân dân Tối cao nên hướng dẫn như sau :

– Về nguyên tắc áp dụng quy định hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu theo Bộ luật dân sự năm 2005 nếu giao dịch đó vi phạm điều cấm pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội, dù tài sản đó đã được chuyển giao cho người thứ ba trong bất kỳ thời gian nào.

– Những trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu khác thì giao dịch với người thứ ba ngay tình vẫn có giá trị pháp lý (các bên giao dịch trả lại tiền cho nhau), và nên tạo điều kiện thuận lợi cho người thứ ba ngay tình làm thủ tục đứng tên sở hữu nhà ở.

Trong các trường hợp tranh chấp dân sự về nhà ở có yếu tố nước ngoài xác lập trước ngày 01-07-1991, thì tài liệu chứng minh chủ thể tham gia giao dịch dân sự là đối tượng được Nghị quyết 1037 điều chỉnh, để Toà án có căn cứ chấp nhận, hoặc không chấp nhận yêu cầu của đương sự trong các nội dung giao dịch đòi nhà ở, tranh chấp mua bán nhà ở…là rất cần thiết, nên việc đánh giá chứng cứ để xác định tư cách tham gia tố tụng các đương sự trong vụ án rất quan trọng. Thế nhưng hiện nay, vấn đề đánh giá về những chứng cứ, giấy tờ, tài liệu ấy vẫn còn nằm trong ý thức chủ quan của Thẩm phán, chứ chưa được quy định cụ thể trong pháp luật về nhà ở để làm căn cứ giải quyết tranh chấp theo Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11. Trong đó vấn đề xác minh đương sự tham gia tố tụng có thuộc các đối tượng được pháp luật nhà ở cho phép sở hữu nhà hay không,cũng góp phần thúc đẩy việc giải quyết vụ án đúng các quy định pháp luật. Những vướng mắc về đối tượng của Điều 126 Luật Nhà ở mà Toà án nhân dân tối cao cần hướng dẩn chủ yếu tập trung vào các vấn đề như phải giải thích thuật ngữ “sinh sống ổn định tại Việt Nam”, thuật ngữ “có nhu cầu hoạt động thường xuyên tại Việt Nam” có tiêu chí như thế nào? Rồi “đối tượng cư trú từ sáu tháng trở lên” là như thế nào? Và vừa qua, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Điều 126 của Luật nhà ở và Điều 121 của Luật đất đai quy định mới về người Việt Nam định cư ở nước ngoài, khi về nước có thời gian cư trú 3 tháng tại Việt Nam thì được sở hữu nhà ở..thì việc áp dụng pháp luật về đối tượng được giải quyết theo Nghị quyết 1037 về tranh chấp về nhà ở là tính 3 tháng liên tục hay là tổng thời gian cư trú 3 tháng trong 1 năm?

Bên cạnh đó Tòa án Nhân dân Tối cao cũng cần hướng dẫn thêm việc giải quyết tranh chấp giao dịch dân sự về nhà ở mà từ khi Nghị quyết 1037 được ban hành chưa đề cập đến như sau :

“-Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam: Theo quy định tại Điều 121 Luật Đất đai 2003, Điều 126 Luật Nhà ở 2005, K4 Điều 65 Nghị định 90/2006/NĐ-CP ngày 9-6-2006 của Chính Phủ thì với những đối tượng thuộc các văn bản trên được quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Do đó, các đối tượng này nếu thời điểm khi họ gửi tiền về để mua nhà ở tại Việt Nam nhưng lại nhờ người khác đứng tên hộ thì họ chưa thuộc diện được sở hữu nhà tại Việt Nam, nhưng khi tranh chấp xảy ra, họ đã thuộc diện được sở hữu nhà tại Việt Nam, thì khi giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu nhà ở giữa họ và với người Việt Nam đứng tên hộ, Tòa án cần công nhận cho người Việt Nam định cư tại nước ngoài thuộc diện nói trên được sở hữu nhà gắn liền với quyền sử dụng đất mà họ đã nhờ người đứng tên hộ.

-Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà theo pháp luật không thuộc diện được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam: Tòa án nên áp dụng Bộ luật Dân sự 2005, Luật Đất đai 2003, Luật Nhà ở làm căn cứ nhận định giao dịch giữa người Việt Nam định cư ở nước ngoài với người Việt Nam trong nước về việc mua và đứng tên hộ trong hợp đồng mua bán nhà là giao dịch vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật. Vì vậy, khi giải quyết tranh chấp, Tòa án không công nhận cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam .”

Giao dịch dân sự về nhà ở không chỉ là một vấn đề phổ biến mà còn là một vấn đề hết sức đa dạng và phức tạp. Do vậy, đòi hỏi phải xây dựng một hành lang pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích cho các chủ thể tham gia. Đáp ứng yêu cầu này, pháp luật Việt Nam đã có những quy định điều chỉnh, đồng thời không ngừng phát triển và hoàn thiện nó. Đồng thời, những hướng dẩn kịp thời, phù hợp với thực tế của Toà án nhân dân tối cao trong thời gian đến, chắc chắn sẽ tháo gở được những vướng mắc và bất cập vẫn chưa được giải quyết triệt để tại các văn bản pháp luật ban hành trước đây, khi giải quyết các tranh chấp nhà ở có yếu tố nước ngoài được xác lập trước ngày 01-07-1991.

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TANND TPHCM

Tháo Gỡ Vướng Mắc Thực Hiện Luật Đầu Tư Công

(HNM) – Trong ngày làm việc cuối cùng của phiên họp thứ 27 (ngày 20-9), Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công. Các đại biểu cho rằng, sau hơn 3 năm đi vào cuộc sống, Luật Đầu tư công đã bộc lộ những hạn chế, vướng mắc, chủ yếu ở khâu thực hiện, nhưng chỉ cần sửa đổi một số điều chứ không sửa đổi toàn diện luật này.

Trường Mầm non Thịnh Liệt (huyện Thanh Trì), một trong những công trình đầu tư công hiệu quả của Hà Nội. Ảnh: Bá Hoạt

Đề xuất điều chỉnh 18 vấn đề chính sách

Trình bày tờ trình, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, sau hơn 3 năm thực hiện Luật Đầu tư công đã đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng trong quá trình thực hiện còn một số hạn chế, vướng mắc. Cụ thể, do lần đầu tiên xây dựng, ban hành và thực hiện Luật Đầu tư công nên không tránh khỏi những hạn chế về kinh nghiệm thực tiễn. Một số quy định trong luật quá cứng nhắc hoặc chưa đầy đủ nên dẫn tới tình trạng các quy định không đáp ứng được yêu cầu thực tiễn; một số điểm chưa thống nhất giữa Luật Đầu tư công với các luật khác như: Luật Ngân sách nhà nước, Luật Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Quy hoạch…

Tuy nhiên, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu cho rằng, trong những năm gần đây, tác động của đầu tư công đã đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam ổn định ở mức cao và góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, cân đối ngân sách, do đó, chỉ nên chọn 5-7 điều bất cập để sửa.

Đồng tình với khó khăn nêu ra trong tờ trình và thống nhất quan điểm những gì đang vướng mắc thì phải sửa, song Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nêu rõ: “Luật Đầu tư công có khó khăn, nhưng những bất cập trong luật chỉ là một phần, còn phần nhiều hơn là do tổ chức thực hiện luật chưa nghiêm. Tôi đồng ý cái cứng nhắc thì rà soát lại, cái gì thiếu, chưa đồng bộ thì sửa đổi, còn những gì không phải do luật mà do công tác điều hành thì không sửa”.

Chủ tịch Quốc hội dẫn chứng, có những dự án đã có chủ trương đầu tư, bố trí vốn nhưng vẫn chưa giao vốn như: Sân bay Long Thành, đường cao tốc… Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh việc vốn ít, không đủ cân đối thì đâu phải do luật.

Ở góc độ khác, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội Phan Thanh Bình cho rằng, có 3 vấn đề làm hạn chế việc thực hiện đầu tư công, đó là: Chưa quen làm theo cách thức mới; chuẩn bị không đầy đủ dẫn đến đội giá; khối lượng công việc quá lớn. Theo đại biểu, qua theo dõi có thể thấy các dự án trung hạn 5 năm nay mới triển khai được khoảng 30%. Đại biểu đề nghị cần giữ nguyên tắc giám sát chặt chẽ về ngân sách nhà nước, giữ kế hoạch trung hạn 5 năm, bố trí đủ nguồn lực và phải nỗ lực thực hiện bằng được.

Không để tình trạng luật vừa ban hành đã phải sửa

Bệnh viện K – cơ sở Tân Triều được đầu tư đã mang lại hiệu quả cao trong việc khám và điều trị bệnh. Ảnh: Mạnh Hà

Trình bày Báo cáo thẩm tra sơ bộ, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải nêu rõ, dự thảo luật có nhiều điều khoản giao Chính phủ quy định chi tiết. Qua rà soát cho thấy, trong số 106 điều luật thì có gần 30 điều luật quy định giao Chính phủ hướng dẫn. Trong đó, nhiều nội dung quan trọng không thuộc thẩm quyền hướng dẫn và việc này dễ làm phát sinh vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện.

Nội dung được nhiều đại biểu quan tâm là Điều 7 dự thảo luật quy định dự án quan trọng quốc gia là dự án sử dụng vốn đầu tư công từ 30.000 tỷ đồng trở lên. Tuy nhiên, theo tờ trình của Chính phủ thì mới chỉ nêu mức này tương đương 0,6% GDP mà chưa đưa ra cơ sở điều chỉnh, đánh giá tác động.

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho rằng, việc sửa đổi này là chưa đủ căn cứ vì việc điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư chỉ áp dụng trong trường hợp có biến động lớn về chỉ số giá tiêu dùng. Trong khi đó, 3 năm qua, tính từ thời điểm áp dụng luật, chỉ số giá tiêu dùng không biến động lớn. Hơn nữa, quy định hiện hành về xác định mức vốn của dự án quan trọng quốc gia là từ 10.000 tỷ đồng trở lên đã được tính toán, bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam và với khả năng cân đối nguồn vốn của ngân sách nhà nước… Do đó, đại biểu đề nghị giữ nguyên tiêu chí về tổng mức đầu tư như luật hiện hành.

Tương tự, về phân loại kế hoạch đầu tư công, Chính phủ đề xuất bổ sung quy định về kế hoạch đầu tư công trung hạn 3 năm thực hiện theo phương thức cuốn chiếu. Tuy nhiên, một số thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội không tán thành vì cho rằng không cần thiết và không mang tính khả thi. Các đại biểu đề nghị giữ quy định của luật hiện hành là chỉ có kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm và kế hoạch hằng năm.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nhấn mạnh quan điểm đồng ý sửa đổi Luật Đầu tư công, nhưng chỉ sửa đổi phần vướng mắc, không sửa đổi toàn diện. Chỉ rõ những vướng mắc có nguyên nhân là do thực hiện không đúng quy định của pháp luật, cùng với đó, các cơ quan, tổ chức, cá nhân chưa làm hết trách nhiệm của mình, Chủ tịch Quốc hội đề nghị bổ sung chế tài xử lý đối với các trường hợp không thực hiện đúng quy định của pháp luật, chỉ trừ trường hợp thực sự khó khăn, bất khả kháng, thiên tai, địch họa…