Vướng Mắc Luật Hải Quan / Top 9 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Bac.edu.vn

Doanh Nghiệp Còn Gặp Vướng Mắc Về Tìm Hiểu Pháp Luật Hải Quan

Khảo sát mới đây của VCCI với 3.500 doanh nghiệp, đã có 47% doanh nghiệp cho biết, họ từng gặp vướng mắc trong quá trình tìm hiểu pháp luật hải quan.

Nhiều thủ tục hải quan đã được cung cấp các dịch vụ công trực tuyến ở cấp độ 3 và 4 và cơ chế một cửa quốc gia cũng đang được triển khai mạnh mẽ…

Tuy nhiên, theo một khảo sát mới đây của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) được tiến hành với 3.500 doanh nghiệp đánh giá và phản hồi về hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý hải quan thì 47% doanh nghiệp được hỏi cho biết, họ từng gặp vướng mắc trong quá trình tìm hiểu pháp luật hải quan.

Mặc dù, tỉ lệ này đã giảm đáng kể so với mức 54% của năm 2023 và việc tiếp cận thông tin thủ tục hành chính của ngành hải quan là tương đối dễ dàng.

Đại diện VCCI, ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch nhận định, ngành hải quan đã có nhiều nỗ lực cải cách quan trọng theo hướng tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Bên cạnh những nỗ lực cải cách thủ tục hành chính nói chung, ngành hải quan còn là một trong những đơn vị tiên phong ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện thủ tục hành chính.

Tuy nhiên, theo ông Phòng, các quy định về kiểm tra chuyên ngành còn nhiều; trong đó, nhiều quy định không phù hợp thực tế. Thời gian kiểm tra chuyên ngành còn dài, các cơ quan phối hợp chưa tốt trong việc giải quyết các thủ tục cho doanh nghiệp. Đặc biệt, còn nhiều quy định pháp luật phức tạp nên mức độ hài lòng với kết quả phản hồi từ các cơ quan hải quan có sự khác nhau rõ rệt.

Đáng chú ý, kết quả khảo sát cho thấy, trong quá trình thực hiện thủ tục kiểm tra sau thông quan, khó khăn hàng đầu đối với doanh nghiệp là nội dung kiểm tra bị chồng chéo, trùng lặp. Thời gian kiểm tra luôn bị kéo dài hơn so với kế hoạch đã thông báo cho doanh nghiệp.

Một Số Vướng Mắc Trong Quy Định Pháp Luật Về Thẩm Quyền Điều Tra Của Cơ Quan Hải Quan

Bộ luật Hình sự 2023 (sửa đổi, bổ sung 2023), Bộ Luật Tố tụng hình sự 2023, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2023 có hiệu lực thi hành từ 01/01/2023. Theo đó, Hải quan là cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của mình mà tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm hoặc phát hiện hành vi phạm tội quy định tại các Điều 188 Tội buôn lậu, Điều 189 Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới và Điều 190 Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm của Bộ luật Hình sự, thì cơ quan Hải quan có nhiệm vụ, quyền hạn tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh và điều tra theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự.

Nhiệm vụ và quyền hạn điều tra của cơ quan Hải quan được quy định trong các trường hợp sau: Trường hợp 1: Thực hiện khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lý lịch người phạm tội rõ ràng. Các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể là: (2) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm; quyết định khởi tố, không khởi tố, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án; quyết định khởi tố, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can; (4) Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai bị hại, đương sự, người làm chứng; (5) Quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn; (6) Kết luận điều tra, đề nghị truy tố hoặc kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra; quyết định tạm đình chỉ điều tra; quyết định phục hồi điều tra, Sau khi kết thúc điều tra, cơ quan Hải quan chuyển hồ sơ vụ án đến Viện Kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án. Trường hợp 2: Thực hiện khởi tố vụ án đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiên trọng. Các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể là: (2) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm; quyết định khởi tố, không khởi tố, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án; (4) Triệu tập và lấy lời khai người làm chứng, bị hại, đương sự. Sau khi khởi tố vụ án và tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu, cơ quan Hải quan chuyển hồ sơ vụ án cho cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Qua hơn 2 năm triển khai thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, ngành Hải quan đã quán triệt, chủ động trong việc thực hiện thẩm quyền của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đối với những vi phạm có dấu hiệu tội phạm của tội danh mà cơ quan Hải quan có thẩm quyền điều tra đối vưới những vi phạm có dấu hiệu tội phạm của 3 tội danh mà cơ quan Hải quan có thẩm quyền điều tra. Tuy nhiên, qua thực tiễn công tác điều tra hình sự, có một số vướng mắc, hạn chế trong quy định của pháp luật về thẩm quyền điều tra của cơ quan Hải quan như sau: Như vậy, có nhiều hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm được phát hiện trực tiếp qua hoạt động quản lý nhà nước về hải quan, trong phạm vi địa bàn hải quan nhưng cơ quan Hải quan không có thẩm quyền điều tra ma phải chuyển hồ sơ đến cơ quan Cảnh sách điều tra để thực hiện kiến nghị khởi tố. Điều này ảnh hưởng đến tính kịp thời, tính hiệu quả trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Ba là, hạn chế trong quy định về người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của cơ quan Hải quan đối với chức danh Đội trưởng Đội Kiểm soát Hải quan, Đội trưởng Đội Kiểm soát phòng, chống ma túy. Tại các Cục Hải quan, Đội Kiểm soát Hải quan, Đội Kiểm soát phòng, chống ma túy là lực lượng chủ lực, chuyên trách trong hoạt động đấu tranh chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và kiểm soát phòng, chống ma túy. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành về cơ quan và người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của cơ quan Hải quan không có quy định đối với chức danh Đội trưởng Đội Kiểm soát Hải quan, Đội trưởng Đội Kiểm soát phòng, chống ma túy. Mặt khác, lực lượng kiểm soát hải quan, bao gồm cả lực lượng kiểm soát phòng, chống ma túy thường là lực lượng được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về công tác kiểm soát hải quan, điều tra hình sự nên khi phát sinh vụ việc, nếu không quy định cho các Đội này được thực hiện hoạt động kiểm tra, xác minh, khởi tố, điều tra vụ án theo quy định tố tụng hình sự sẽ là một bất cập lớn trong việc đào tạo, bố trí nhân sự thực hiện nhiệm vụ đấu tranh chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và đấu tranh phòng, chống ma túy. Bốn là, hạn chế về thời gian điều tra. Sau khi thực hiện khởi tố vụ án, pháp luật hiện hành quy định cho cơ quan Hải quan được tiến hành điều tra với một số hoạt động hạn chế cả về thẩm quyền và thời hạn. Trong trường hợp khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì thời hạn thực hiện các hoạt động điều tra là 01 tháng kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án để chuyển hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát có thẩm quyền đề nghị truy tố; trong trường hợp khởi tố vụ án, thì thời hạn thực hiện các hoạt động điều tra chỉ được 7 ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án để chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Trong khi đó, tại Điều 172 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể tử khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra. Như vậy, đối với 02 trường hợp nêu trên, đặc biệt với trường hợp cơ quan Hải quan thực hiện khởi tố vụ án, chuyển hồ sơ đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn 7 ngày thì thời hạn 7 ngày này đã bao gồm cả thời gian cơ quan Hải quan gửi hồ sơ đến Viện kiểm sát, đợi phía Viện kiểm sát phê chuẩn, kiểm sát hồ sơ và ban hành Quyết định chuyển hồ sơ đến cơ quan điều tra. Do vậy, quy định thời hạn điều tra chưa đảm bảo tính thực thi, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động điều tra của cơ quan Hải quan cũng như chất lượng hồ sơ vụ việc khi chuyển giao. Năm là, bất cập trong quy định về giải quyết nguồn tin tội phạm: Theo quy định tại điểm d khoản1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự, nguồn tin về tội phạm gồm: Tố giác, tin báo về tội phạm kiến nghị khởi tố của cơ quan, tổ chức, cá nhân; lời khai của người phạm tội tự thú; thông tin về tội phạm do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện. Tuy nhiên, cơ quan Hải quan chỉ có thẩm quyền điều tra trong trường hợp nhận tố giác, tin báo về tội phạm hoặc trực tiếp phát hiện hành vi phạm tội mà không có thẩm quyền điều tra đối với trường hợp kiến nghị khởi tố và trường hợp người phạm tội tự thú ngay cả với vi phạm có dấu hiệu tội phạm quy định tại các Điều 188, Điều 189 và Điều 190. Đây là bất cập trong quy định của pháp luật, làm hạn chế thẩm quyền điều tra với nguồn tin tội phạm thuộc thẩm quyền của cơ quan Hải quan, đặc biệt trong trường hợp Hải quan có thể tiếp nhận được kiến nghị khởi tố từ các cơ quan có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra khác (như Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Kiểm lâm) đối với tội phạm xảy ra trong địa bàn hoạt động hải quan. Sáu là, bất cập trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin. Hiện nay, hoạt động kiểm tra, theo quy định pháp luật hiện hành có quy định trình tự, thủ tục, thời hạn, biểu mẫu phân công thực hiện giải quyết đối với nguồn tin từ tin báo, tố giác tội phạm. Đối với nguồn tin từ việc trực tiếp phát hiện tội phạm (gồm bắt người phạm tội quả tang và phát hiện dấu hiệu tội phạm trong xử lý vi phạm hành chính) thì chưa có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, thời hạn, biểu mẫu phân công thực hiện giải quyết nguồn tin. Trong khi đó, qua thực tiễn công tác, vi phạm có dấu hiệu tội phạm cơ quan Hải quan chủ yếu trực tiếp phát hiện. Hiện pháp luật không có quy định cụ thể về biện pháp, thời hạn, biểu mẫu phân công cấp phó, cán bộ điều tra thực hiện giải quyết nguồn tin đối với bắt người phạm tội quả tang và từ vụ vi phạm hành chính. Qua số liệu thống kê các vụ án hình sự ngành Hải quan khởi tố, điều tra trong thời gian qua thì 100% vụ án hình sự do cơ quan Hải quan khởi tố đều chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra để tiếp tục điều tra. Không có vụ án nào cơ quan Hải quan thực hiện việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, điều tra và chuyển Viện kiểm sát để thực hiện truy tố. Điều đó cho thấy, thực tiễn hiện nay, hoạt động chủ yếu trong thực hiện thẩm quyền điều tra của cơ quan Hải quan chủ yếu là kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm để quyết định khởi tố vụ án. Việc áp dụng biểu mẫu phân công cấp phó, cán bộ điều tra thực hiện khởi tố, điều tra vụ án (theo Thông tư 61/2023/TT-BCA) cho giai đoạn kiểm tra, xác minh nguồn tin và bất cập, do lúc này chưa có quyết định khởi tố vụ án, nên không thể hiện đúng bản chất quy định của pháp luật về hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin. Như vậy, những vướng mắc trong quy định của pháp luật về việc hạn chế thẩm quyền điều tra của cơ quan Hải quan, hạn chế về thời hạn điều tra, hạn chế trong quy định về kiểm tra, xác minh nguồn tin tội phạm làm ảnh hưởng đến tính thực thi của pháp luật tố tụng hình sự và ảnh hưởng đến hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm của cơ quan Hải quan. Để nâng cao hiệu quả công tác điều tra hình sự của cơ quan Hải quan, các vướng mắc, hạn chế này cần được xử lý theo hướng đề xuất sử đổi bổ sung quy định của pháp luật với những nội dung: bổ sung thẩm quyền điều tra đối với Tội tàng trữ, vận chyển hàng cấm (Điều 191), Tội trốn thuế (Điều 200) và các tội có dấu hiệu định khung “qua biên giới” của hàng hóa xuất nhập khẩu; Bổ sung thẩm quyền điều tra cho cơ quan Hải quan đối với nguồn tin kiến nghị khởi tố và người phạm tội tự thú; Bổ sung quy định về kiểm tra, xác minh giải quyết nguồn tin (đối với nguồn tin từ việc trực tiếp phát hiện tội phạm trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan Hải quan) và biểu mẫu phân công cấp phó, cán bộ điều tra giải quyết nguồn tin trong những trường hợp này; Sửa đổi quy định về thời hạn điều tra sau khi khởi tố vụ án cho cơ quan Hải quan theo hướng tăng thời hạn để đảm bảo tính thực thi của quy định pháp luật trong thực hiện các hoạt động điều tra./.

                                                 Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Hải quan

Những Vướng Mắc Trong Xử Phạt Vi Phạm Hành Chính Lĩnh Vực Hải Quan

Trangtinphapluat.com giới thiệu một số tồn tại, vướng mắc của công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hải quan để bạn đọc tham khảo. 1.Vướng mắc trong việc thực hiện Luật Xử lý vi phạm hành chính

Một số quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính chưa được quy định một cách rõ ràng, chưa phù hợp với thực tế dẫn đến khó thực hiện. Cụ thể:

a) Về nguyên tắc xử phạt:

– Vi phạm hành chính nhiều lần: Điểm d khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý VPHC quy định: “Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm”.

Quy định này chưa rõ trong trường hợp ” vi phạm hành chính nhiều lần ” thì có bị xử phạt về từng lần vi phạm hay chỉ xử phạt 1 lần và áp dụng tình tiết tăng nặng “vi phạm nhiều lần”?

(Thế nào là vi phạm hành chính nhiều lần?)

– Về cách tính thời hạn trong xử phạt VPHC: Điều 8 Luật Xử lý VPHC quy định cách tính thời hạn trong xử phạt vi phạm hành chính thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự có những vướng mắc như sau trong quá trình thực hiện:

+ Thời hạn để ra quyết định xử phạt ngắn, khó đảm bảo được chất lượng trong việc ra quyết định xử phạt, trong khi vi phạm hành chính xảy ra liên tục hàng ngày ở sân bay, cửa khẩu, đặc biệt nếu vi phạm hành chính xảy ra ở thời điểm nghỉ lễ, tết (tết nguyên đán thường nghỉ dài ngày).

– Đề nghị bổ sung cụm từ “tổ chức” vào Điểm c khoản 1 Điều 6 Luật XLVPHC: ” Trường hợp xử phạt vi phạm hành chính đối với , cá nhân do cơ quan tiến hành tố tụng chuyển đến thì thời hiệu được áp dụng theo quy định tại điểm a và điểm b khoản này. Thời gian cơ quan tiến hành tố tụng thụ lý, xem xét được tính vào thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính” vì hiện nay có phát sinh trường hợp xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ chức do cơ quan tiến hành tố tụng chuyển đến nhưng chưa quy định về việc xác định thời hiệu.

– Về tình tiết tăng nặng: Điểm l khoản 1 Điều 10 Luật Xử lý VPHC quy định: “Vi phạm hành chính có quy mô lớn, số lượng hoặc trị giá hàng hóa lớn”.

Việc xác định thế nào là “quy mô lớn, số lượng hoặc trị giá hàng hóa lớn” là khó (không có căn cứ để xác định).

– Về việc sửa đổi, huỷ bỏ, ban hành mới quyết định:

Khoản 3 Điều 18 Luật Xử lý VPHC quy định: “Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, thủ trưởng cơ quan, đơn vị có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính có trách nhiệm phát hiện quyết định về xử lý vi phạm hành chính do mình hoặc cấp dưới ban hành có sai sót và phải kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới theo thẩm quyền“.Tuy nhiên, hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể trình tự, thủ tục thực hiện việc bổ sung, huỷ bỏ, ban hành quyết định mới để tránh khiếu nại, khởi kiến về thủ tục thực hiện.

(Cấp phó có được hủy bỏ quyết định xử phạt của cấp trưởng không?)

b) Các hình thức xử phạt:

– Đề nghị bỏ cụm từ “có thể” trong quy định tại Khoản 4 Điều 23 Luật XLVPHC “Mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tiền phạt tối đa của khung tiền phạt” để đảm tính thống nhất khi áp dụng mức phạt, đảm bảo thực hiện quy định về xác định tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng vì cụm từ “có thể” không mang tính bắt buộc áp dụng.

– Mức phạt tiền tối đa: Khoản 3 Điều 24 Luật Xử lý VPHC quy định: “Mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực thuế chúng tôi quy định tại các luật tương ứng”.

Luật Quản lý thuế quy định việc xử phạt VPHC đối với hành vi trốn thuế, gian lận thuế là từ 1-3 lần số tiền thuế trốn, gian lận và không phân biệt mức phạt đối với tổ chức và cá nhân (áp dụng chung cho tổ chức và cá nhân). Tuy nhiên, nếu thực hiện theo quy định của Luật Quản lý thuế nêu trên thì không thống nhất với quy định tại điểm e khoản 1 Điều 3 của Luật Xử lý VPHC (mức xử phạt đối với cá nhân bằng ½ mức xử phạt của tổ chức).

– Điều 26 Luật Xử lý VPHC quy định: “Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là việc…được áp dụng đối với vi phạm hành chính nghiêm trọng do lỗi cố ý của cá nhân, tổ chức”.

Việc xác định lỗi cố ý để tịch thu tang vật vi phạm đối với vi phạm hành chính nghiêm trọng là rất khó, dễ gây khiếu nại, khởi kiện.

– Bổ sung vào khoản 2 Điều 58 như sau: ” Trường hợp người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm không có mặt tại nơi vi phạm hoặc cố tình trốn tránh hoặc vì lý do khách quan mà không ký vào biên bản, trường hợp không xác định được đối tượng vi phạm hành chính thì biên bản phải có chữ ký của đại diện chính quyền cơ sở nơi xảy ra vi phạm hoặc của ít nhất một người chứng kiến.” Trường hợp này có phát sinh vướng mắc và Bộ Tư pháp đã có Công văn số 2659/BTP-QLXLVPHC&TDTHPL ngày 10/8/2023 để hướng dẫn trường hợp không xác định được đối tượng vi phạm hành chính.

(Hướng dẫn lập biên bản vi phạm hành chính chuẩn nhất)

– Việc quy định thẩm quyền tịch thu tang vật bị giới hạn theo thẩm quyền phạt tiền gây rất nhiều khó khăn cho quá trình thực hiện việc xử phạt VPHC đối với những vụ việc vượt quá thẩm quyền xử phạt của cấp Cục trưởng Cục HQ, Cục trưởng Cục ĐTCBL, cụ thể:

Thực tế, trong lĩnh vực hải quan những vụ việc vi phạm hành chính về hải quan đều được kiểm tra, phát hiện tại các đơn vị hải quan địa phương (Đội/Chi cục/Cục…). Vì vậy, nếu chuyển về Tổng cục để xem xét xử lý sẽ phát sinh những vướng mắc cụ thể như sau:

+ Luật Xử lý VPHC quy định thời gian ra quyết định xử phạt là 7 ngày (đối với những vụ việc đơn giản) và một trong những nguyên tắc của xử phạt vi phạm hành chính là phải xử lý nhanh chóng, kịp thời. Việc chuyển hồ sơ và tang vật từ các đơn vị Hải quan địa phương lên Tổng cục (đối với trường hợp vụ việc thuộc thẩm quyền của Tổng cục trưởng TCHQ) sẽ cần một khoảng thời gian nhất định nên sẽ ảnh hưởng đến tiến độ, thời hạn xử lý vi phạm hành chính… Từ đó, có thể ảnh hưởng đến việc giải phóng, thông quan hàng hóa, doanh nghiệp phản ứng vì phát sinh những thiệt hại về thời gian, chi phí….

+ Theo quy định tại Điều 59 Luật XLVPHC thì trước khi ra quyết định xử phạt, trường hợp cần thiết người có thẩm quyền phải tiến hành , cho doanh nghiệp được giải trình. Đối với những trường hợp ở xa Tổng cục thì việc mời doanh nghiệp đến làm việc sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp, tăng chi phí và thời gian đi lại của doanh nghiệp.

+ Vụ việc bị dồn về Tổng cục, nếu không xử lý kịp, ảnh hưởng thời gian, chất lượng trong công tác xử lý vi phạm hành chính. Mặt khác, sẽ phát sinh những hạn chế, vướng mắc về công tác phối hợp giữa các ngành chức năng để xử lý tang vật (việc này nếu thực hiện ở địa phương cấp tỉnh sẽ thuận lợi hơn).

– Chưa có hướng dẫn xác định thẩm quyền tịch thu tang vật vi phạm trong trường hợp không xác định được đối tượng vi phạm hành chính (xác định thẩm quyền tịch thu theo thẩm quyền xử phạt đối với cá nhân hay đối với tổ chức?).

– Trường hợp vụ việc vừa tịch thu tang vật trên 100 triệu đồng vừa đồng thời bị xử phạt vi phạm pháp luật về thuế th́ thẩm quyền vừa thuộc Cục trưởng Cục Hải quan vừa thuộc Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố thì hiện nay chưa có hướng dẫn.

d) Thủ tục xử phạt:

– Về việc xác định trị giá tang vật:

+ Thời hạn tạm giữ tang vật để định giá quá ngắn (24h), không đảm bảo thời gian để định giá.

– Quy định Khoản 2 Điều 65 Luật XLVPHC “Đối với trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này, người có thẩm quyền không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng có thể ra quyết định tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy tang vật vi phạm hành chính thuộc loại cấm lưu hành và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật này“ có những vướng mắc như sau:

+ Cụm từ “có thể” không mang tính bắt buộc áp dụng;

+ Việc tịch thu sung vào ngân sách nhà nước có hai cách hiểu: (1) chỉ áp dụng đối với tang vật vi phạm hành chính thuộc loại cấm lưu hành; (2) áp dụng với tất cả các loại tang vật vi phạm hành chính. Trường hợp, hiểu theo cách (1) quyết định tịch thu sung vào ngân sách nhà nước và tiêu hủy chỉ áp dụng đối với tang vật vi phạm hành chính thuộc loại cấm lưu hành thì chưa có quy định đối với trường hợp tang vật vi phạm hành chính không thuộc loại cấm lưu hành.

– Công bố công khai việc xử phạt VPHC theo quy định:

Khoản 1 Điều 72 Luật Xử lý VPHC quy định: “Trường hợp vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm; chất lượng sản phẩm, hàng hóa; dược; khám bệnh, chữa bệnh; lao động; xây dựng; bảo hiểm xã hội; bảo hiểm y tế; bảo vệ môi trường; thuế; chứng khoán; sở hữu trí tuệ; đo lường; sản xuất, buôn bán hàng giả mà gây hậu quả lớn hoặc gây ảnh hưởng xấu về dư luận xă hội thì cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có trách nhiệm công bố công khai về việc xử phạt”.

Tuy nhiên, chưa có văn bản hướng dẫn xác định thế nào là “gây hậu quả lớn hoặc gây ảnh hưởng xấu về dư luận xã hội” dẫn đến khó khăn trong quá trình thực hiện quy định này; chưa hướng dẫn hình thức công bố, công khai và kinh phí bảo đảm việc thực hiện công bố, công khai.

(Trường hợp nào được công khai quyết định xử phạt vi phạm hành chính)

đ) Áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính:

– Khoản 8 Điều 125 quy định: “Đối với vụ việc thuộc trường hợp quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều 66 của Luật này mà cần có thêm thời gian để xác minh thì người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn việc tạm giữ; việc gia hạn phải bằng văn bản, thời hạn gia hạn không được quá 30 ngày”.

Việc thực hiện quy định trên có vướng mắc như sau: Người ra quyết định tạm giữ tang vật không đồng thời là người đang giải quyết vụ việc (vì vụ việc vượt thẩm quyền, đã chuyển lên cấp trên để giải quyết). Vậy trường hợp này ai là người báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình để xin gia hạn? Hình thức văn bản gia hạn là bằng công văn hay quyết định ?

– Về thẩm quyền tạm giữ tang vật:

Khoản 3 Điều 125 Luật Xử lý quy định: “Người có thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính quy định tại Chương II Phần thứ hai của Luật này thì có thẩm quyền tạm giữ tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính”.

Theo đó, chỉ có cấp trưởng (Chi cục trưởng, Đội trưởng Đội Kiểm soát thuộc Cục Hải quan, Đội trưởng Đội Kiểm soát thuộc Cục ĐTCBL…) được quyền tạm giữ tang vật, phương tiện VPHC. Luật Xử lý không có quy định cho phép cấp trưởng giao quyền cho cấp phó thực hiện thẩm quyền tạm giữ thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính như việc giao quyền trong xử phạt VPHC và giao quyền trong việc tạm giữ người. Do vậy, gây khó khăn cho việc thực hiện biện pháp ngăn chặn tạm giữ tang vật, phương tiện VPHC trong trường hợp cấp trưởng đi vắng.

2. Tồn tại, vướng mắc trong việc thực hiện Nghị định 45/2023/NĐ-CP:

a) Về căn cứ pháp lý

Tuy nhiên, Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 và Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Quản lý thuế số 21/2013/QH12 đã được thay thế bằng Luật Quản lý thuế số 38/2023/QH14. Ngoài ra, một số văn bản khác quy định về chính sách thuế, chính sách mặt hàng, thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan, chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (đặc biệt là hàng gia công, sản xuất xuất khẩu, hàng hành lý, quà biếu, quà tặng..) có sự thay đổi tại Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2023/QH13, Luật Quản lý Ngoại thương, Nghị định 134/2023/NĐ-CP ngày 01/9/2023, Nghị định 69/2023/NĐ-CP ngày 15/5/2023, Nghị định 08/2023/NĐ-CP ngày 21/01/2023 đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 59/2023/NĐ-CP ngày 20/4/2023. Do vậy, cần thiết phải có Nghị định mới thay thế cho Nghị định xử phạt vi phạm hành chính về hải quan. Cụ thể như sau:

b) Thiếu chế tài xử phạt, cụ thể:

– Hành vi vi phạm đã được quy định trong các Nghị định xử phạt trong các lĩnh vực khác nhưng chưa được quy định thẩm quyền xử phạt cho cơ quan hải quan (hành vi vi phạm quy định về ghi nhãn hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu).

“2. Người nộp thuế khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn, không thu đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu nhưng không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 6 và khoản 7 Điều 143 của Luật này thì ngoài việc phải khai bổ sung và nộp đủ số tiền thuế, tiền chậm nộp, người nộp thuế còn bị xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế trong trường hợp sau đây: a) Người nộp thuế tự phát hiện và khai bổ sung sau thời điểm cơ quan hải quan thông báo việc kiểm tra trực tiếp hồ sơ hải quan đối với hàng hóa đang làm thủ tục hải quan hoặc sau thời hạn 60 ngày kể từ ngày thông quan và trước thời điểm cơ quan hải quan quyết định kiểm tra sau thông quan, thanh tra đối với hàng hóa đã được thông quan; b) Cơ quan hải quan phát hiện trong quá trình làm thủ tục hải quan; phát hiện khi thanh tra đối với hàng hóa đã thông quan, kiểm tra sau thông quan và cá nhân, tổ chức vi phạm đã tự nguyện khắc phục hậu quả bằng cách nộp đủ số tiền thuế phải nộp theo quy định; c) Trường hợp không thuộc quy định tại điểm a và điểm b khoản này và cá nhân, tổ chức vi phạm đã tự nguyện khắc phục hậu quả bằng cách nộp đủ số tiền thuế phải nộp.”

– Theo quy định tại Điều 138 Luật Quản lý thuế thì hành vi tại điểm a nêu trên phạt 10% tính trên số tiền thuế khai thiếu, các hành vi nêu tại điểm b,c phạt 20% tính trên số tiền thuế khai thiếu.

– Hiện hành các hành vi khai sai thuế (bị phạt 20% số tiền thuế thiếu) đang được quy định tại khoản 2 Điều 8 Nghị định 127/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 45/2023/NĐ-CP) thì chỉ có hành vi quy định tại điểm a khoản 2 Điều 8 có gắn với điều kiện cá nhân, tổ chức vi phạm đã tự nguyện nộp đủ số tiền thuế phải nộp theo quy định trước thời điểm lập biên bản vi phạm.

Do đó, cần thực hiện rà soát các quy định về khai sai thuế cho phù hợp với quy định tại Điều 142 Luật Quản lý Thuế.

– Điều 143 quy định về hành vi trốn thuế, theo đó dự thảo cần rà soát sửa đổi, bổ sung các hành vi trốn thuế cho phù hợp quy định của Luật.

d) Về vấn đề cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan

Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính được thực hiện theo Nghị định166/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ.

Theo đó, cơ bản 58 Nghị định xử phạt VPHC trong các lĩnh vực do Chính phủ ban hành không có nội dung về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính (trừ Nghị định xử phạt VPHC trong lĩnh vực hải quan và Nghị định xử phạt VPHC trong lĩnh vực thuế trên cơ sở quy định của Luật Quản lý thuế).

Do đó, nội dung về cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan là một nội dung độc lập trong cả Nghị định 127/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 45/2023/NĐ-CP) cần đưa nội dung này vào Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Quản lý thuế sẽ phù hợp hơn và thống nhất về văn bản quy định chi tiết Luật Quản lý thuế.

(mẫu kế hoạch cưỡng chế quyết định xử phạt vi phạm hành chính )

đ) Tồn tại, vướng mắc trong việc thực hiện Thông tư 155/2023/TT-BTC ngày 20/10/2023 của Bộ Tài chính

Về mẫu ấn chỉ: cần được sửa đổi, bố sung cho phù hợp với các mẫu ấn chỉ ban hành kèm theo Nghị định số 97/2023/NĐ-CP ngày 18/8/2023 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Rubi

Xử Lý Vi Phạm Hành Chính Trong Lĩnh Vực Hải Quan Còn Nhiều Vướng Mắc

Hiện nay, việc xử lý vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh vực hải quan đang gặp rất nhiều vướng mắc trong khi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan đang có chiều hướng gia tăng với hàng chục nghìn vụ bị phát hiện hàng năm. Tình trạng này không chỉ tác động trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, … mà còn tiềm ẩn nguy cơ thất thu ngân sách từ các hoạt động hải quan.

Trong thời gian qua, các hành vi VPHC trong lĩnh vực hải quan thường xảy ra trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh…

Trong năm 2023, tổng số vụ vi phạm tuy có giảm còn 15.489 vụ nhưng tổng giá trị hàng hóa vi phạm lên đến trên 416 tỷ đồng và chỉ riêng trong 6 tháng đầu năm nay, số vụ vi phạm đã lên tới 8.032 vụ. Trong đó có 3.466 vụ vụ vi phạm về thủ tục hải quan; 106 vụ vi phạm về kiểm soát hải quan; 2.458 vụ vi phạm bị xử phạt do khai sai về thuế; trốn thuế, gian lận thuế; 165 vụ vi phạm về chính sách mặt hàng và 1.532 vụ vi phạm khác.

Những vướng mắc trong quá trình xử lý vi phạm

Mặc dù số vụ vi phạm bị phát hiện hàng năm luôn ở mức cao, tuy nhiên, trong công tác xử lý VPHC lại gặp rất nhiều khó khăn.

Cụ thể, một số quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 chưa rõ ràng, thiếu phù hợp với thực tế dẫn đến khó áp dụng thực hiện. Dẫn chiếu cụ thể, quy định về nguyên tắc xử phạt “Một người thực hiện nhiều hành vi VPHC hoặc VPHC nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm”. Tuy nhiên, quy định này lại chưa làm rõ trường hợp “vi phạm hành chính nhiều lần” thì có bị xử phạt về từng lần vi phạm hay chỉ bị xử phạt 1 lần và áp dụng tình tiết tăng nặng “vi phạm nhiều lần”. Vì vậy, có thể dẫn đến việc xử lý thiếu thống nhất.

Hơn thế, việc xác định tình tiết tăng nặng “vi phạm hành chính có quy mô lớn, số lượng hoặc giá trị hàng hoá lớn” là rất khó vì không có căn cứ để xác định.

Bên cạnh đó, Luật Xử lý VPHC cũng như Nghị định 81/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý VPHC chưa quy định trình tự, thủ tục thực hiện việc bổ sung, huỷ bỏ, ban hành quyết định mới khi phát hiện quyết định về xử lý VPHC do mình hoặc cấp dưới ban hành có sai sót. Do vậy, có thể phát sinh khiếu nại, khởi kiện về thủ tục thực hiện nếu thực hiện thiếu thống nhất.

Tương tự, các quy định về: thẩm quyền xử phạt; trình tự, thủ tục xử phạt; công bố công khai việc xử phạt VPHC; áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý VPHC; … cũng còn nhiều hạn chế dẫn đến khó áp dụng trong thực tiễn.

Đồng thời, đối với các cấp được giao thẩm quyền xử phạt VPHC, cần rà soát, xây dựng phương án bố trí hệ thống tổ chức và cán bộ làm công tác tham mưu xử lý phù hợp với yêu cầu của công việc. Lựa chọn những cán bộ có đủ năng lực, am hiểu pháp luật, chuyên môn sâu, có kinh nghiệm trong thực tiễn để đảm đương công tác xử lý vi phạm.

Hải Quan Lên Tiếng Về Những Vướng Mắc Thực Hiện Nghị Định Của Chính Phủ Về Attp

Trước những phản ánh về những vướng mắc doanh nghiệp gặp khi thực hiện Nghị định 15 tại Hội nghị triển khai Nghị định số 15/2023/NQ-CP của Chính phủ về quản lý an toàn thực phẩm diễn ra tại TP. Hồ Chí Minh do VCCI và 6 Hiệp hội ngành nghề phối hợp tổ chức, Tổng cục Hải quan cho biết, ngày 2-2-2023, Chính phủ ban hành Nghị định số 15/2023/NĐ-CP/2023/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật an toàn thực phẩm, có hiệu lực kể từ ngày ký và thay thế Nghị định 38/2012/NĐ-CP ngày 25-4-2012 của Chính phủ.

Trong thời gian đầu triển khai thực hiện Nghị định 15, cơ quan quản lý nhà nước (trong đó có cơ quan hải quan) và phía doanh nghiệp đều gặp một số vướng mắc tại một số điều khoản thi hành.

Để khẩn trương tháo gỡ vướng mắc, bất cập tại Nghị định 15, ngày 2-3-2023, Tổng cục Hải quan (Cục GSQL) đã chủ trì cuộc họp với Cục An toàn thực phẩm – Bộ Y tế để trao đổi về vấn đề này. Tại cuộc họp, đại diện Bộ Y tế đề nghị Tổng cục Hải quan tổng hợp lại tất cả các vướng mắc gửi các Bộ quản lý chuyên ngành để có ý kiến trả lời.

Một số vướng mắc cần được tháo gỡ như: Cơ quan hải quan chưa nhận được danh sách các cơ quan kiểm tra nhà nước về an toàn thực phẩm nhập khẩu do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Công Thương chỉ định theo Nghị định 15; Cơ quan hải quan chưa có dữ liệu về doanh nghiệp/ mặt hàng được áp dụng phương pháp kiểm tra giảm để lựa chọn ngẫu nhiên tối đa 5% lô hàng để kiểm tra; 3 Thông báo kết quả xác nhận thực phẩm đạt yêu cầu nhập khẩu có phải là liên tiếp hay hàng hóa có phải được sản xuất trong các cơ sở áp dụng hệ thống HACCP, GMP, ISO hay không…

Để thống nhất trong cách triển khai tại các Cục Hải quan tỉnh, thành phố trên cả nước và giải quyết vướng mắc của doanh nghiệp, ngày 9-3-2023 Tổng cục Hải quan đã có công văn số 1267/TCHQ-GSQL hướng dẫn các Cục Hải quan các tỉnh, thành phố triển khai thực hiện Nghị định 15, cụ thể về sản phẩm, nguyên liệu được miễn thủ tục tự công bố sản phẩm và miễn kiểm tra nhà nước về an toàn thực phẩm; về Giấy tiếp nhận đăng ký bản công bố sản phẩm.

Để có cơ sở xác định hàng hoá nhập khẩu thuộc diện được miễn kiểm tra nhà nước về an toàn thực phẩm nhập khẩu theo quy định tại khoản 1 Điều 13 Nghị định 15/2023/ NĐ-CP ( sản phẩm đã được cấp Giấy tiếp nhận đăng ký bản công bố sản phẩm), khi làm thủ tục hải quan, người khai nộp bản chụp Giấy tiếp nhận đăng ký bản công bố sản phẩm ( có xác nhận của doanh nghiệp).

Trường hợp dữ liệu về “Giấy tiếp nhận đăng ký bản công bố sản phẩm” được Bộ quản lý chuyên ngành cấp trên Cổng thông tin một cửa quốc gia, khi kiểm tra hồ sơ hải quan, công chức hải quan tự tra cứu trên hệ thống và giải quyết thủ tục hải quan theo quy định, không yêu cầu doanh nghiệp phải nộp giấy Giấy tiếp nhận đăng ký bản công bố sản phẩm…

Trong công văn cũng nêu rõ, trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc phát sinh, đề nghị các Cục Hải quan tỉnh, thành phố tổng hợp, báo cáo Tổng cục để có hướng dẫn cụ thể.