Xây Dựng Pháp Luật Dân Sự / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Xây Dựng Bộ Luật Dân Sự Trở Thành Luật Chung Của Hệ Thống Pháp Luật

Theo chương trình kỳ họp thứ 9, Quốc hội sẽ nghe Báo cáo kết quả lấy ý kiến nhân dân và dự kiến tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) và Báo cáo thẩm tra dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi). Đây là lần sửa đổi lớn với mục đích xây dựng Bộ luật Dân sự thực sự trở thành luật chung của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội được hình thành trên nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng và tự chịu trách nhiệm giữa các bên tham gia; qua đó ghi nhận và bảo vệ tốt hơn các quyền của cá nhân, pháp nhân trong giao lưu dân sự; góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định môi trường pháp lý cho sự phát triển kinh tế – xã hội sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành.

* Thể chế hóa đầy đủ, toàn diện các quan điểm, chủ trương của Đảng

Tại kỳ họp thứ 9, dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) được Quốc hội xem xét lần thứ 2 sau khi tổ chức lấy ý kiến nhân dân đóng góp vào 10 vấn đề lớn của dự thảo. Theo Báo cáo kết quả lấy ý kiến nhân dân và tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi), đa số ý kiến đánh giá dự thảo Bộ luật được xây dựng công phu, thể chế hóa được đầy đủ, toàn diện các quan điểm, chủ trương của Đảng đã được xác định tại Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội và Chiến lược Cải cách tư pháp; cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân, về xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa… Những vấn đề bất cập, tồn tại của thực tiễn đặt ra trong quá trình tổng kết việc thi hành Bộ luật Dân sự năm 2005 về cơ bản đều đã có phương hướng giải quyết hợp lý trong dự thảo Bộ luật.

Tuy nhiên, bên cạnh những đánh giá tích cực, cũng có nhiều ý kiến cho rằng, dự thảo bộ luật vẫn còn nhiều lỗi về mặt kỹ thuật văn bản; một số quy định có nội dung hoặc chưa rõ ràng, chưa hợp lý hoặc chưa giải quyết được triệt để các vấn đề phát sinh trong thực tiễn giao lưu dân sự.

Những vấn đề này cần được khắc phục để bảo đảm quy định của Bộ luật Dân sự thực sự trở thành những chuẩn mực pháp lý trong ứng xử của người dân, trong hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền; bảo đảm hành lang pháp lý thuận lợi, an toàn, ít rủi ro hơn cho người dân, cho các hoạt động kinh tế nói riêng và cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói chung và trong hội nhập quốc tế.

* Cần ghi nhận sở hữu toàn dân là một hình thức sở hữu độc lập

Hình thức sở hữu là một trong 10 nội dung đưa ra lấy ý kiến nhân dân. Vấn đề này tồn tại hai loại ý kiến cơ bản. Đa số ý kiến nhất trí với quy định như trong dự thảo Bộ luật, theo đó, bên cạnh sở hữu riêng, sở hữu chung thì cần ghi nhận sở hữu toàn dân là một hình thức sở hữu độc lập. Loại ý kiến này cho rằng, Bộ luật dân sự cần ghi nhận hình thức sở hữu toàn dân để phù hợp với Hiến pháp (Điều 53), phù hợp với tầm quan trọng về khách thể của sở hữu toàn dân cũng như cơ chế thực hiện quyền sở hữu này.

Loại ý kiến thứ hai đề nghị, hình thức sở hữu được quy định trong Bộ luật dân sự chỉ bao gồm sở hữu riêng và sở hữu chung. Đối với sở hữu toàn dân, việc thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân mang yếu tố chính trị – kinh tế rất phức tạp nên cần được điều chỉnh ở các luật chuyên ngành.

Chính phủ nhất trí theo loại ý kiến đa số nêu trên và cho rằng, việc Bộ luật dân sự quy định hình thức sở hữu toàn dân là cần thiết để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 trong chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu toàn dân và trong tạo cơ chế pháp lý để Nhà nước thực hiện các quyền năng của chủ thể đại diện chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân trong các quan hệ dân sự.

* Xác định chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự

Hiện có ba loại ý kiến cơ bản về chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Đa số ý kiến nhất trí với quy định như trong dự thảo Bộ luật, theo đó, chủ thể quan hệ pháp luật dân sự bao gồm cá nhân, pháp nhân, còn về hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân thì Bộ luật dân sự quy định như là những thực thể pháp lý để thông qua đó, cá nhân thay mặt, đại diện cho các thành viên tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự.

Loại ý kiến thứ hai đề nghị, dự thảo bộ luật cần tiếp tục ghi nhận hộ gia đình và tổ hợp tác là các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự như Bộ luật dân sự hiện hành vì đây là những thực thể đang tồn tại trong xã hội, tham gia vào nhiều quan hệ pháp luật dân sự, như quan hệ sử dụng đất, điện, nước…; phù hợp với các điều kiện đặc thù về kinh tế, văn hóa, xã hội, gia đình và lịch sử của nước ta. Các hạn chế, bất cập trong các quy định pháp luật về hộ gia đình, tổ hợp tác hiện nay là có thật nhưng có thể khắc phục được trong quá trình hoàn thiện pháp luật để tạo cơ sở pháp lý tốt hơn cho hộ gia đình, tổ hợp tác tồn tại và phát triển.

Chính phủ nhất trí theo loại ý kiến đa số nêu trên. Về hộ gia đình, Chính phủ cho rằng, xuất phát từ điều kiện và hoàn cảnh lịch sử của nước ta, hộ gia đình có vị trí và vai trò quan trọng trong việc tham gia sản xuất, kinh doanh nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng.

Luật đất đai (từ năm 1993 đến nay) luôn quy định hộ gia đình là chủ thể được Nhà nước giao quyền sử dụng đất. Trên cơ sở đó, Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự hiện hành đã cụ thể hóa vấn đề này bằng việc ghi nhận hộ gia đình là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự.

Tuy nhiên, thực tiễn thi hành pháp luật cho thấy, pháp luật đang điều chỉnh hộ gia đình ở trạng thái “tĩnh”, trong khi đó các quan hệ trong hộ gia đình, thành viên của hộ gia đình, người đại diện, tài sản chung, trách nhiệm pháp lý của các thành viên… thường có sự biến động (do tách, nhập, sinh, tử, kết hôn…). Điều đó đã làm phát sinh rất nhiều bất cập, hạn chế trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình.

Tổng kết thi hành Bộ luật dân sự cho thấy, hộ gia đình cũng rất ít tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự với tư cách là chủ thể của các quan hệ này. Mặt khác, thực chất đó là sự tham gia của cá nhân thành viên, vì họ (chủ hộ hoặc thành viên hộ gia đình) chính là người có quyền, nghĩa vụ dân sự và chịu trách nhiệm dân sự vô hạn bằng toàn bộ tài sản riêng của mình trong các quan hệ pháp luật dân sự mà hộ gia đình tham gia. Thực tiễn xét xử cũng cho thấy, hầu như không có nguyên đơn hoặc bị đơn là hộ gia đình.

Về tổ hợp tác, Chính phủ cho rằng, tổ hợp tác là thực thể pháp lý đã và đang tham gia giao lưu dân sự, đóng vai trò nhất định trong việc phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt góp phần xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn, miền núi, khu vực có khó khăn. Tuy nhiên, xét về phương diện chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự thì tổ hợp tác thực chất là một nhóm cá nhân liên kết và tham gia quan hệ dân sự thông qua hợp đồng.

Do đó, việc điều chỉnh pháp luật đối với thực thể này bằng chế định hợp đồng hợp tác là hợp lý, vừa phù hợp với bản chất pháp lý vừa phù hợp với thực tiễn giao lưu dân sự hiện nay. Dự thảo Bộ luật đã bổ sung hợp đồng hợp tác là một trong những loại hợp đồng thông dụng (từ Điều 520 đến Điều 528) để tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của thực thể pháp lý này trong thực tiễn.

Đồng thời, tiếp thu ý kiến Nhân dân về việc dự thảo Bộ luật cần làm rõ hơn địa vị pháp lý của cá nhân thành viên, về tài sản chung của các thành viên và trách nhiệm dân sự phát sinh trong các quan hệ pháp luật dân sự có sự tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân, Chính phủ đã chỉ đạo chỉnh lý quy định về vấn đề này theo hướng: Xác định mỗi thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể của các quan hệ pháp luật dân sự có sự tham gia của các thực thể pháp lý này.

Trường hợp hộ gia đình sử dụng đất tham gia quan hệ pháp luật dân sự thì việc xác định chủ thể được thực hiện theo quy định của Luật đất đai (Điều 102). Quy định căn cứ riêng, tách biệt về xác định tài sản chung của các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác không có tư cách pháp nhân (Điều 103)…

Các vấn đề khác về trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong việc bảo vệ quyền dân sự; quyền nhân thân của cá nhân; chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự; hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức; bảo vệ người thứ ba ngay tình trong trường hợp giao dịch dân sự bị vô hiệu; đ iều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi; lãi suất trong hợp đồng vay tài sản; thời hiệu… cũng đã được lấy ý kiến đóng góp của nhân dân.

Xây Dựng Và Hoàn Thiện Pháp Luật Về Dân Sự, Kinh Tế Theo Nghị Quyết Số 48

    Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế là một trong 06 định hướng quan trọng của Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam (theo Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị), với trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Qua 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, hệ thống pháp luật về dân sự, kinh tế đã cơ bản hoàn thiện, được bổ sung nhiều về số lượng, chất lượng, điều chỉnh khá toàn diện các quan hệ dân sự, kinh tế, tạo ra khung pháp lý quan trọng cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường, cơ bản đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

    1. Một số kết quả đạt được

    Trong 10 năm qua, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành mới, sửa đổi, bổ sung khoảng 80 luật, pháp lệnh trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, chiếm khoảng 30% tổng số luật, pháp lệnh được ban hành trong giai đoạn này. Trong đó, nổi lên ở những điểm sau:

    Thứ nhất, pháp luật về sở hữu, về quyền tự do kinh doanh Pháp luật đã dần xác định rõ các loại hình thức sở hữu(1) và không phân biệt đối xử giữa các chế độ và hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Hiến pháp năm 2013 và hàng loạt các luật được ban hành nhằm cụ thể hóa Hiến pháp trong lĩnh vực này đã thể hiện tư tưởng chủ đạo: Bảo đảm quyền tự do kinh doanh của công dân, hạn chế sự can thiệp hành chính của Nhà nước vào các quan hệ dân sự, kinh tế; xác định địa vị pháp lý của doanh nghiệp; bảo đảm quyền tự do hoạt động đầu tư, thương mại, quyền thỏa thuận, ký kết, giao dịch và thực thi hợp đồng; cơ chế cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền, khuyến khích và bảo đảm đầu tư, xóa dần ranh giới giữa đầu tư trong nước với đầu tư nước ngoài; giảm dần sự can thiệp bằng biện pháp hành chính của Nhà nước vào các quan hệ dân sự, kinh tế; dần tháo gỡ các vướng mắc, rào cản trong sản xuất, kinh doanh, phát triển lành mạnh thị trường.

    Pháp luật về hợp đồng đã được hoàn thiện theo hướng tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không trái với đạo đức xã hội, không xâm phạm trật tự công cộng, phù hợp với tập quán, thông lệ thương mại quốc tế. Bộ luật dân sự năm 2005 được coi là luật gốc quy định các vấn đề chung về hợp đồng, các loại hợp đồng, về hình thức giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, chấm dứt hợp đồng…, đã góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển của quan hệ thị trường thông qua việc ghi nhận nguyên tắc tự do hợp đồng, hạn chế sự can thiệp của các cơ quan công quyền vào hoạt động sản xuất, kinh doanh.

    Pháp luật về đầu tư đã quy định thống nhất áp dụng đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính và làm tăng tính minh bạch môi trường đầu tư của Việt Nam. Luật đầu tư năm 2014 thay thế Luật đầu tư năm 2005 đã tạo lập môi trường kinh doanh cởi mở hơn, phạm vi điều chỉnh rõ ràng hơn theo hướng bảo đảm quyền tự do kinh doanh của công dân trên cơ sở những ngành nghề mà Luật không cấm.

    Pháp luật về doanh nghiệp với việc ban hành Luật doanh nghiệp năm 2014 đã tạo hành lang pháp lý thông thoáng, như đổi mới đơn giản hóa thủ tục đăng ký kinh doanh, mô hình quản trị công ty cổ phần, đổi mới trong quản lý doanh nghiệp nhà nước…

    Pháp luật về đấu thầu đã đơn giản hóa thủ tục hành chính trong hoạt động đấu thầu; bổ sung phương pháp đánh giá mới nhằm đa dạng hóa phương pháp đánh giá để phù hợp với từng loại hình và quy mô của gói thầu, đồng thời khắc phục tình trạng bỏ thầu giá thấp nhưng không đủ năng lực, kinh nghiệm để thực hiện gói thầu…

    Pháp luật về hải quan đã có những đột phá trong việc thay đổi căn bản phương thức thực hiện thủ tục hải quan, từ phương thức truyền thống, bán điện tử sang phương thức điện tử; đẩy mạnh thực thi các giải pháp đơn giản hóa thủ tục hành chính về hải quan. Tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức hải quan; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý hải quan; tăng cường phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, gian lận thương mại…

    Pháp luật về cạnh tranh được ban hành hoặc sửa đổi trong giai đoạn này cũng đã tạo lập khuôn khổ pháp lý cho hoạt động cạnh tranh lành mạnh, kiểm soát loại bỏ những hành vi độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh,… góp phần tạo lập và duy trì một môi trường kinh doanh bình đẳng. Pháp luật phá sản với việc ban hành Luật phá sản năm 2014 thay thế Luật phá sản năm 2004 đã đưa ra những cơ hội thực tiễn cho việc duy trì hoặc tổ chức lại doanh nghiệp, phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp; đưa ra các quy trình, thủ tục giải quyết việc phá sản doanh nghiệp đơn giản, nhanh gọn hơn; góp phần hạn chế đến thấp nhất những hậu quả do phá sản gây ra, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ kinh tế trước các rủi ro xảy ra.

    Thứ hai, xây dựng pháp luật cho việc tạo lập đồng bộ các loại thị trường

    Pháp luật về các yếu tố thị trường và các loại thị trường được xây dựng ngày càng đồng bộ hơn, phù hợp với các quan hệ cung – cầu, cạnh tranh lành mạnh, sử dụng linh hoạt và có hiệu quả các công cụ chính sách vĩ mô theo các nguyên tắc của thị trường. Đối với thị trường hàng hóa dịch vụ, hàng loạt đạo luật đã được ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung để bảo đảm môi trường pháp lý thông thoáng, tự do kinh doanh, phát triển lành mạnh, bảo đảm quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà đầu tư cũng như quyền lợi người tiêu dùng(2). Đối với thị trường bất động sản, thể chế cho việc hình thành và phát triển thị trường bất động sản, đã góp phần cải cách thủ tục hành chính về quy hoạch, quản lý sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, đấu giá quyền sử dụng đất; đưa công tác quản lý, sử dụng đất đai vào nền nếp; thị trường bất động sản cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài đầu tư ở Việt Nam từng bước được mở rộng. Đối với thị trường lao động, Bộ luật lao động được sửa đổi nhiều lần qua các năm (2002, 2006, 2007, 2012); Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006; Luật việc làm năm 2013 đã tạo hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh theo hướng đa dạng hóa các hình thức tạo việc làm, cơ hội tìm việc làm, khuyến khích mở rộng thị trường lao động có hàm lượng chất xám cao; quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động được bảo đảm tốt hơn; hoàn thiện các tiêu chuẩn lao động, thiết lập quan hệ lao động giữa các chủ thể, điều chỉnh các hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, tiền lương, bảo hiểm, thời gian làm việc, kỷ luật lao động…, đồng thời, nội luật hóa các quy định trong các Công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Đối với thị trường khoa học – công nghệ, Pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cùng với pháp luật về khoa học và công nghệ góp phần hình thành và phát triển thị trường khoa học – công nghệ. Phạm vi các đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã được mở rộng phù hợp với Hiệp định TRIPS của WTO về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đối với thị trường tài chính, khuôn khổ pháp lý cho lĩnh vực kinh doanh tiền tệ – tín dụng cơ bản được hoàn thiện(3), tạo môi trường lành mạnh, bình đẳng cho hoạt động ngân hàng, chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm; khuyến khích cạnh tranh trong các hoạt động này trên nguyên tắc an toàn hệ thống.

    Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về tài chính công

    Pháp luật trong lĩnh vực tài chính công đã đáp ứng yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, quản lý ngân sách, cải cách hành chính; bảo đảm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, xử lý vi phạm trong quản lý, sử dụng ngân sách, vốn và tài sản nhà nước; quản lý, sử dụng tài nguyên trong hoạt động sản xuất kinh doanh; định hướng huy động, sử dụng vốn vay; tổ chức huy động, phân bổ sử dụng vốn vay đúng mục đích, hiệu quả, bảo đảm an toàn nợ công, an ninh tài chính; bảo đảm cơ chế đồng bộ cho quản lý, sử dụng nguồn lực dự trữ quốc gia hiệu quả. Bên cạnh đó, hành lang pháp lý về quyền tự chủ đối với cơ quan nhà nước; cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập cũng đã được xác lập đầy đủ, đồng bộ; khắc phục tình trạng ỷ lại vào ngân sách nhà nước, thúc đẩy cải cách hành chính.

    Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014, tạo cơ sở pháp lý cao cho hoạt động đầu tư và quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, phát huy vai trò nòng cốt của kinh tế nhà nước, thực hiện công khai, minh bạch và giám sát chặt chẽ mọi hoạt động trong đầu tư và quản lý vốn đã đầu tư của Nhà nước vào doanh nghiệp.

    Luật đầu tư công năm 2014 đã tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý hoạt động đầu tư và sử dụng vốn đầu tư công; chống thất thoát, lãng phí; bảo đảm tính công khai, minh bạch trong quản lý đầu tư công.

    Pháp luật về thuế, phí, lệ phí và quản lý thuế(4) đã được ban hành theo đúng lộ trình, vừa bảo đảm yêu cầu về hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, vừa đáp ứng yêu cầu cải cách hệ thống thuế theo hướng mở rộng các đối tượng chịu thuế, bao quát các nguồn thu ngân sách nhà nước, đơn giản hóa thủ tục hành chính. 

    Thứ tư, hình thành đồng bộ pháp luật về các chuyên ngành kinh tế – kỹ thuật .

    Pháp luật trong lĩnh vực xây dựng, giao thông vận tải, điện lực cũng đã được hình thành khá đồng bộ(5); thể hiện phân cấp mạnh mẽ giữa Trung ương và địa phương và làm rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành và các chủ thể tham gia, tạo động lực thúc đẩy các hoạt động đầu tư, phát triển thị trường xây dựng và thị trường bất động sản với quy mô ngày càng rộng lớn, đa dạng; có các chính sách thông thoáng, đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ giao thông công cộng; linh hoạt trong thu hút nguồn vốn đầu tư từ mọi nguồn lực xã hội, tạo lập hệ thống giao thông, kết cấu hạ tầng giao thông khá đồng bộ, có những đổi thay rõ rệt so với những năm trước đây; chính sách phát triển điện lực của Nhà nước đã thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động phát, phân phối điện, xây dựng thị trường điện cạnh tranh; hoạt động điện lực và nhiệm vụ quản lý sản xuất kinh doanh điện được phân định, quản lý và chịu sự điều tiết của Nhà nước.

    Pháp luật về nông nghiệp – nông thôn đã tập trung chủ yếu hướng tới điều chỉnh các lĩnh vực về đất đai, đầu tư, sản xuất nông nghiệp, thủy lợi, đê điều và phòng chống lụt bão; bảo vệ và phát triển rừng, thủy sản, thương mại nông lâm thủy sản, bảo vệ môi trường nông nghiệp, nông thôn; nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; khuyến nông, khuyến ngư và phát triển ngành nghề nông thôn(6) góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp – nông thôn; đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế tập thể, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản; cải thiện đời sống, vật chất, tinh thần của người dân ở hầu hết các vùng nông thôn phù hợp với các tiêu chí của mô hình Nông thôn mới.

    Thứ năm, hoàn thiện pháp luật về tài nguyên và môi trường Pháp luật về tài nguyên và môi trường(7) đã kịp thời điều chỉnh nhiều vấn đề mới phát sinh như ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh môi trường, sinh thái với các giải pháp đồng bộ, đủ mạnh, có tính đột phá; chấn chỉnh các hoạt động khai thác khoáng sản, tài nguyên nước không phù hợp với quy định của pháp luật; quản lý tổng hợp tài nguyên và môi trường biển, hải đảo; tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư từ nhiều thành phần kinh tế khác nhau đầu tư vốn, kỹ thuật công nghệ, thiết bị vào lĩnh vực hoạt động khai thác tài nguyên, khoáng sản; gắn hoạt động sản xuất, kinh doanh tài nguyên, khoáng sản với mục tiêu phát triển bền vững kinh tế – xã hội của đất nước, địa phương.

    2. Hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân

    Nhìn chung, pháp luật trong lĩnh vực dân sự, kinh tế đã cơ bản hoàn thiện, tạo lập khuôn khổ pháp lý quan trọng cho vận hành của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, đối phó linh hoạt với các thách thức, phục vụ có hiệu quả công cuộc đổi mới và phát triển của đất nước. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về dân sự, kinh tế vẫn chưa thực sự đồng bộ, chất lượng chưa cao, thiếu ổn định và tính dự báo thấp; trong lĩnh vực này vẫn còn tình trạng luật ban hành phải đợi Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành làm cho luật chậm đi vào cuộc sống, giảm hiệu lực của hệ thống pháp luật; vẫn còn có sự chồng chéo và mâu thuẫn giữa các văn bản luật cùng điều chỉnh một vấn đề làm cho việc thi hành gặp nhiều khó khăn(8), đáng lưu ý là:

    - Về chế độ sở hữu, sở hữu toàn dân còn nhiều điểm chưa rõ về mặt pháp lý, đặc biệt là đối với các tài sản thuộc sở hữu toàn dân được đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn nhà nước; chưa minh định rõ sở hữu hỗn hợp với nhiều thành phần trong nền kinh tế.

    - Chưa phân định rõ ràng, rành mạch giữa quản lý nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh (nhất là cấp bộ, ngành); thể chế chưa đầy đủ các quyền tự do kinh doanh; môi trường kinh doanh chưa thật sự bảo đảm cạnh tranh công bằng, lành mạnh giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; doanh nghiệp gia nhập, hoạt động và rút lui khỏi thị trường còn gặp nhiều vướng mắc; giá cả một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu chưa tuân theo quy luật kinh tế thị trường; quản trị doanh nghiệp còn yếu kém, chưa theo kịp chuẩn mực quốc tế…

    - Tình trạng luật khung còn nhiều; văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành trong lĩnh vực này còn chậm được ban hành hoặc không đầy đủ, có không ít quy định thiếu tính thực tế. Những vướng mắc về thủ tục hành chính – cả trong thể chế lẫn trong thực tiễn thi hành, đang là rào cản lớn đối với quá trình gia nhập thị trường, vận hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể, làm giảm đáng kể sức cạnh tranh, thu hút đầu tư trong và ngoài nước của Việt Nam.

    - Chưa ưu tiên xây dựng thể chế về sử dụng vốn nhà nước vào đầu tư kinh doanh, về đầu tư công, đặc biệt là thể chế về kiểm tra, giám sát hiệu quả sử dụng vốn nhà nước; chưa xóa bỏ triệt để cơ chế xin cho trong quản lý, phân bổ vốn nhà nước và độc quyền kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.

    - Pháp luật về tài nguyên môi trường còn phức tạp, nhiều tầng nấc, thậm chí mâu thuẫn; chưa đồng bộ, các chế tài xử lý chưa nghiêm, thiếu thiết chế thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường quốc gia và thực hiện các cam kết quốc tế, điều ước quốc tế về môi trường.

    - Pháp luật về hình thành và hoạt động của các thị trường chưa đồng bộ. Việt Nam chưa tạo ra được thị trường theo đúng nghĩa, nhất là thị trường lao động, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ…

    3. Một số đề xuất, giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế trong những năm tới

    Trên cơ sở kết quả tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, để khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn, đồng thời căn cứ vào Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020 và các phương hướng, nhiệm vụ về phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2016-2020 trong các văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng để đề ra các định hướng, nhiệm vụ xây dựng pháp luật cho giai đoạn 20162020, trong đó cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế như sau:

    - Tiếp tục cụ thể hóa các quy định về các quyền tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân trong Hiến pháp năm 2013 vào các luật chuyên ngành. Bảo đảm minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công để quyền tài sản được giao dịch thông suốt. Nâng cao năng lực các thiết chế và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp dân sự, kinh tế trong bảo vệ quyền tài sản.

    - Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về định giá, chuyển nhượng các loại tài sản đặc thù (đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản) và tài sản vô hình, tài sản trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu.

    - Hoàn thiện pháp luật về gia nhập thị trường và rút khỏi thị trường theo hướng bảo đảm quyền tự do kinh doanh với nguyên tắc công dân được kinh doanh các ngành nghề mà pháp luật không cấm; bảo đảm sự quản lý của Nhà nước đối với các chủ thể thị trường; tiếp tục đơn giản hóa thủ tục thành lập doanh nghiệp, thủ tục đầu tư; tạo cơ chế pháp lý thuận lợi, đơn giản cho việc tuyên bố phá sản, tổ chức lại doanh nghiệp.

    - Nghiên cứu xây dựng Luật về cổ phần hóa, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước theo hướng doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích; xóa bỏ cơ chế phân tán chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước cho các bộ, UBND đối với vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp.

    - Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về các thị trường, bao gồm: Thực hiện đa dạng hóa thị trường hàng hóa, dịch vụ theo hướng hiện đại, tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về thị trường bất động sản, phù hợp với quy luật cung – cầu nhằm khai thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn lực từ đất đai và tài sản, kết cấu hạ tầng trên đất; tạo môi trường pháp lý cho sự hình thành, phát triển lành mạnh thị trường lao động theo hướng đa dạng hóa các hình thức tìm việc làm, giới thiệu việc làm và tuyển chọn lao động; khuyến khích mở rộng thị trường lao động sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao; hình thành và phát triển thị trường khoa học – công nghệ phù hợp với yêu cầu của WTO và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; tiếp tục phát triển thị trường tài chính – tiền tệ theo hướng hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý cho việc áp dụng các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn pháp lý trong kinh doanh tiền tệ – tín dụng và phân bổ nguồn vốn; hoàn thiện pháp luật về thị trường chứng khoán để trở thành kênh huy động vốn và đầu tư gián tiếp an toàn, hiệu quả; hoàn thiện pháp luật về kinh doanh bảo hiểm cho phù hợp với thực tiễn và các cam kết quốc tế; thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường, bảo đảm sự công khai, minh bạch đối với các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu; bảo đảm tối đa cạnh tranh lành mạnh, hạn chế hiệu quả những hành vi lũng đoạn thị trường.

    - Hoàn thiện pháp luật về các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô bao gồm thuế, quy hoạch, các tiêu chuẩn về chất lượng, quản lý giá và các công cụ hỗ trợ quản lý vĩ mô như thống kê, đăng ký giao dịch, đăng ký tài sản, các tiêu chuẩn và quy chuẩn hướng đến kết quả và hiệu quả kinh tế – xã hội, sự liên kết tổng thể, ổn định, đơn giản và minh bạch, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, chống thất thoát, lãng phí các nguồn lực của Nhà nước và xã hội. Xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu quả, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và các cam kết quốc tế. 

    - Hoàn thiện pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, vệ sinh an toàn thực phẩm theo hướng Nhà nước can thiệp hiệu quả hơn nhằm giảm thiểu thông tin bất cân xứng, bảo vệ người yếu thế trong cạnh tranh (ví dụ người mua căn hộ, người tiêu dùng); hạn chế những yếu tố mặt trái của thị trường; tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quản lý, khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên công cộng.

Giáo Trình Pháp Luật Xây Dựng

1.1. MỤC ĐÍCH CỦA PHÁP LUẬT XÂY DỰNG

Nước ta từ khi có chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, kinh tế có tốc độ

tăng trưởng ngày càng cao, cùng với sự phát triển kinh tế đó là tốc độ tăng trưởng về

xây dựng, giá trị xây dựng hàng năm đều rất lớn, đặc biệt là việc xây dựng cơ sở hạ

tầng phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội và xây dựng các công trình nhà ở của

nhân dân. Việc quản lý Nhà nước về xây dựng tuy đã được cải tiến, đổi mới từng

bước, song tình trạng vi phạm trong xây dựng vẫn còn nhiều mang lại những hậu quả nghiêm trọng.

Để nâng cao vai trò quản lý Nhà nước và trách nhiệm của mọi người trước pháp

luật trong quá trình đầu tư xây dựng công trình, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế –

xã hội của mọi nguồn vốn đầu tư xây dựng, khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên, sử

dụng tiềm năng lao động và mọi tiềm năng khác của đất nước, đảm bảo an toàn cho

đời sống sức khỏe cho nhân dân trong một môi trường sinh thái lành mạnh với một

nền kiến trúc hài hòa thẩm mỹ, đảm bảo trật tự và công bằng xã hội. Trong những năm

động xây dựng, đó là những văn bản “Pháp luật về xây dựng”, những văn bản này

điều chỉnh các mối quan hệ trong hoạt động xây dựng trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm:

ựng theo đúng thiết kế. - Điểm dân cư nông thôn là nơi cư trú tập trung của nhiều hộ gia đình gắn kết với nhau trong sản xuất, sinh hoạt và các hoạt động xã hội khác trong phạm vi một khu vực nhất định bao gồm trung tâm xã, thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc (sau đây gọi chung là thôn) được hình thành do điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa, phong tục, tập quán và các yếu tố khác. - Sự cố công trình xây dựng là những hư hỏng vượt quá giới hạn an toàn cho phép, làm cho công trình xây dựng có nguy cơ sập đổ; đã sập đổ một phần hoặc toàn bộ công trình hoặc công trình không sử dụng được theo thiết kế. - Quy chuẩn xây dựng là các quy định bắt buộc áp dụng trong hoạt động xây dựng do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về xây dựng ban hành. - Tiêu chuẩn xây dựng là các quy định về chuẩn mực kỹ thuật, định mức kinh tế - kỹ thuật, trình tự thực hiện các công việc kỹ thuật, các chỉ tiêu, các chỉ số kỹ thuật và các chỉ số tự nhiên được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ban hành hoặc công nhận để áp dụng trong hoạt động xây dựng. Tiêu chuẩn xây dựng gồm tiêu chuẩn bắt buộc áp dụng và tiêu chuẩn khuyến khích áp dụng. 1.3.5. Nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xây dựng Tổ chức, cá nhân hoạt động xây dựng phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản sau đây: - Bảo đảm xây dựng công trình theo quy hoạch, thiết kế; bảo đảm mỹ quan công trình, bảo vệ môi trường và cảnh quan chung; phù hợp với điều kiện tự nhiên, đặc 7 điểm văn hóa, xã hội của từng địa phương; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh; - Tuân thủ quy chuẩn xây dựng, tiêu chuẩn xây dựng; - Bảo đảm chất lượng, tiến độ, an toàn công trình, tính mạng con người và tài sản, phòng, chống cháy, nổ, vệ sinh môi trường; - Bảo đảm xây dựng đồng bộ trong từng công trình, đồng bộ các công trình hạ tầng kỹ thuật; - Bảo đảm tiết kiệm, có hiệu quả, chống lãng phí, thất thóat và các tiêu cực khác trong xây dựng. 1.3.6. Loại và cấp công trình xây dựng Công trình xây dựng được phân thành 5 loại như sau: * Công trình dân dụng: - Nhà ở gồm nhà chung cư và nhà riêng lẻ; - Công trình công cộng gồm: công trình văn hóa; công trình giáo dục; công trình y tế; công trình thương nghiệp, dịch vụ; nhà làm việc; khách sạn, nhà khách; nhà phục vụ giao thông; nhà phục vụ thông tin liên lạc, tháp thu phát sóng phát thanh, phát sóng truyền hình; nhà ga, bến xe; công trình thể thao các loại. * Công trình công nghiệp gồm: công trình khai thác than, khai thác quặng; công trình khai thác dầu, khí; công trình hoá chất, hóa dầu; công trình kho xăng, dầu, khí hoá lỏng và tuyến ống phân phối khí, dầu; công trình luyện kim; công trình cơ khí, chế tạo; công trình công nghiệp điện tử - tin học; công trình năng lượng; công trình công nghiệp nhẹ; công trình công nghiệp thực phẩm; công trình công nghiệp vật liệu xây dựng; công trình sản xuất và kho chứa vật liệu nổ công nghiệp. * Công trình giao thông gồm: công trình đường bộ; công trình đường sắt; công trình đường thủy; cầu; hầm; sân bay. * Công trình thủy lợi gồm: hồ chứa nước; đập; cống; trạm bơm; giếng; đường ống dẫn nước; kênh; công trình trên kênh và bờ bao các loại. * Công trình hạ tầng kỹ thuật gồm: công trình cấp nước, thoát nước; nhà máy xử lý nước thải; công trình xử lý chất thải: bãi chứa, bãi chôn lấp rác; nhà máy xử lý rác thải; công trình chiếu sáng đô thị. Cấp công trình xây dựng được xác định theo từng loại công trình, căn cứ vào tầm quan trọng và quy mô của công trình. Bộ Xây dựng quy định cụ thể loại và cấp công trình xây dựng trong Quy chuẩn kỹ thuật về xây dựng (QCVN 03:2009/BXD Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phân loại, phân cấp công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và hại tầng kỹ thuật đô thị, ban hành kèm theo Thông tư số 33/2009/TT-BXD ngày 30 tháng 9 năm 2009). 8 1.3.7. Năng lực hành nghề xây dựng, năng lực hoạt động xây dựng - Năng lực hành nghề xây dựng được quy định đối với cá nhân tham gia hoạt động xây dựng. Năng lực hoạt động xây dựng được quy định đối với tổ chức tham gia hoạt động xây dựng. - Năng lực hành nghề xây dựng của cá nhân được xác định theo cấp bậc trên cơ sở trình độ chuyên môn do một tổ chức chuyên môn đào tạo hợp pháp xác nhận, kinh nghiệm, đạo đức nghề nghiệp. Cá nhân hoạt động thiết kế quy hoạch xây dựng, khảo sát xây dựng, thiết kế công trình, giám sát thi công xây dựng, khi hoạt động độc lập phải có chứng chỉ hành nghề phù hợp và phải chịu trách nhiệm cá nhân về công việc của mình. - Năng lực hoạt động xây dựng của tổ chức được xác định theo cấp bậc trên cơ sở năng lực hành nghề xây dựng của các cá nhân trong tổ chức, kinh nghiệm hoạt động xây dựng, khả năng tài chính, thiết bị và năng lực quản lý của tổ chức. - Tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động xây dựng trên lãnh thổ Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam phải có đủ điều kiện theo quy định và được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về xây dựng cấp giấy phép hoạt động. - Chính phủ quy định về năng lực hoạt động xây dựng của tổ chức, năng lực hành nghề xây dựng của cá nhân và việc cấp chứng chỉ hành nghề xây dựng cho cá nhân phù hợp với loại, cấp công trình. 1.3.8. Quy định chung về điều kiện năng lực của tổ chức, cá nhân - Các tổ chức, cá nhân khi tham gia hoạt động xây dựng phải có đủ điều kiện năng lực phù hợp với loại dự án; loại, cấp công trình và công việc theo quy định. - Tổ chức, cá nhân khi tham gia các lĩnh vực sau đây phải có đủ điều kiện về năng lực: + Lập dự án đầu tư xây dựng công trình; + Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình; + Thiết kế quy hoạch xây dựng; + Thiết kế xây dựng công trình; + Khảo sát xây dựng công trình; + Thi công xây dựng công trình; + Giám sát thi công xây dựng công trình; + Thí nghiệm chuyên ngành xây dựng; + Kiểm định chất lượng công trình xây dựng; + Chứng nhận đủ điều kiện bảo đảm an toàn chịu lực công trình xây dựng và chứng nhận sự phù hợp về chất lượng công trình xây dựng. 9 Năng lực của các tổ chức, cá nhân khi tham gia lĩnh vực hoạt động xây dựng nêu trên được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ hành nghề hoặc các điều kiện về năng lực phù hợp với công việc đảm nhận. - Cá nhân tham gia hoạt động xây dựng phải có văn bằng, chứng chỉ đào tạo phù hợp với công việc đảm nhận do các cơ sở đào tạo hợp pháp cấp. - Cá nhân đảm nhận chức danh chủ nhiệm đồ án thiết kế quy hoạch xây dựng, thiết kế xây dựng công trình; chủ trì thiết kế; chủ nhiệm khảo sát xây dựng; giám sát thi công xây dựng và cá nhân hành nghề độc lập thực hiện các công việc thiết kế quy hoạch xây dựng, thiết kế xây dựng công trình, giám sát thi công xây dựng phải có chứng chỉ hành nghề theo quy định. Cá nhân tham gia quản lý dự án phải có chứng nhận nghiệp vụ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình. -. Để bảo đảm chất lượng công trình xây dựng, các tổ chức, cá nhân trong hoạt động xây dựng phải có đủ điều kiện năng lực phù hợp với từng gói thầu hoặc loại công việc cụ thể. - Năng lực hoạt động xây dựng của tổ chức được xác định theo cấp bậc trên cơ sở năng lực hành nghề xây dựng của các cá nhân trong tổ chức, kinh nghiệm hoạt động xây dựng, khả năng tài chính, thiết bị và năng lực quản lý của tổ chức. Bộ Xây dựng thành lập hệ thống thông tin về năng lực và hoạt động của các tổ chức, cá nhân tư vấn xây dựng, các nhà thầu hoạt động xây dựng trong phạm vi cả nước, kể cả nhà thầu nước ngoài hoạt động xây dựng tại Việt Nam. - Các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, nhà thầu lập thiết kế kỹ thuật hoặc thiết kế bản vẽ thi công thì không được ký hợp đồng tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình với chủ đầu tư đối với công trình do mình thiết kế, nhà thầu giám sát thi công xây dựng không được ký hợp đồng với nhà thầu thi công xây dựng thực hiện kiểm định chất lượng công trình xây dựng đối với công trình do mình giám sát, trừ trường hợp được người quyết định đầu tư cho phép. - Khi lựa chọn nhà thầu để thực hiện các công việc trong hoạt động xây dựng, chủ đầu tư phải căn cứ vào các quy định về điều kiện năng lực và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những thiệt hại do việc lựa chọn nhà thầu không đủ điều kiện năng lực phù hợp với công việc. 1.3.9. Các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động xây dựng Trong hoạt động xây dựng nghiêm cấm các hành vi sau đây: - Xây dựng công trình nằm trong khu vực cấm xây dựng; xây dựng công trình lấn chiếm hành lang bảo vệ công trình giao thông, thủy lợi, đê điều, năng lượng, khu di tích lịch sử - văn hóa và khu vực bảo vệ các công trình khác theo quy định của pháp 10 luật; xây dựng công trình ở khu vực có nguy cơ lở đất, lũ quét, trừ những công trình xây dựng để khắc phục những hiện tượng này; - Xây dựng công trình sai quy hoạch, vi phạm chỉ giới, cốt xây dựng; không có giấy phép xây dựng đối với công trình theo quy định phải có giấy phép hoặc xây dựng công trình không đúng với giấy phép xây dựng được cấp; - Nhà thầu hoạt động xây dựng vượt quá điều kiện năng lực hành nghề xây dựng, năng lực hoạt động xây dựng; chọn nhà thầu không đủ điều kiện năng lực hành nghề xây dựng, năng lực hoạt động xây dựng để thực hiện công việc; - Xây dựng công trình không tuân theo quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng; - Vi phạm các quy định về an toàn tính mạng con người, tài sản và vệ sinh môi trường trong xây dựng; - Cơi nới, lấn chiếm không gian, khu vực công cộng, lối đi và các sân bãi khác đã có quy hoạch xây dựng được duyệt và công bố; - Ðưa và nhận hối lộ trong hoạt động xây dựng; dàn xếp trong đấu thầu nhằm vụ lợi, mua bán thầu, thông đồng trong đấu thầu, bỏ giá thầu dưới giá thành xây dựng công trình trong đấu thầu; - Lạm dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm pháp luật về xây dựng; dung túng, bao che cho hành vi vi phạm pháp luật về xây dựng; - Cản trở hoạt động xây dựng đúng pháp luật; - Các hành vi khác vi phạm pháp luật về xây dựng.

Pháp Luật Dân Sự Là Gì? Những Vấn Đề Quan Tâm Đến Pháp Luật Dân Sự

Pháp luật dân sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật, Quy định những Điều, quy chế nhằm giải quyết những tranh chấp, kiện tục của các tổ chức và cá nhân, người bị hại có thể được nhận bồi thường.

Pháp luật dân sự có thể giải quyết được rất nhiều vấn đề mang tính pháp lý như : Luật kinh doanh, luật gia đình, luật thể thao, những vấn đề khiếu lại, tố cáo do sai sót, mâu thuẫn…

Đối tượng của luật dân sự là những mối quan hệ về tài sản, nhân thân, trong các quá trình như sản xuất,

2. Nguồn gốc của pháp luật dân sự Việt Nam.

Pháp luật dân sự Việt Nam trong thời kỳ phong kiến nằm trong bộ luật chung được quy định tại các điều khoản, như Luật Hồng Đức , Hoàng Việt luật lệ…

Khi nước ta bị giặc Pháp xâm chiếm thì pháp luật dân sự được chia rẽ ở 3 thời kỳ như bộ luật dân sự Nam kỳ ( năm 1883), Bộ dân luật Bắc kỳ ( năm 1931), và bộ dân luật Trung kỳ ( 1936) các bộ luật dân sự trên đều được ra đời trong các hoàn cảnh khác nhau. Cho đến năm 1945 với sự chỉ huy của Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và người đứng đầu là vị lãnh tụ kính yêu của chúng ta Hồ Chí Minh đã áp dụng và sửa đổi một số nội dung trong pháp luật dân sự này cho tới ngày 10/ 7/ 1959 tòa án tối cao đã ra chỉ thị số 772/TATC ” đình chỉ việc áp dụng luật pháp cũ của phong khiến đế quốc”. Và cho ra một bộ luật dân sự ngày nay có các mảng của luật được tách ra thành các bộ luật riêng như ” Luật hôn nhân và gia đình”, các loại văn bản pháp quy, …..

Trong pháp luật dân sự được chia thành nhiều mục và các khoản khác nhau như trong bộ luật dân sự.

Xem Thêm : Hướng dẫn cách viết hồ sơ xin việc một cách nhanh nhất

3. Quan hệ pháp luật dân sự

Trong bộ luật lao động, có luật an toàn, vệ sinh lao động. An toàn lao động là gì? là phương pháp tránh các rủi do, bảo hộ sức khẻ trong quá trinh lao động. Tham khảo ngay thông tin chi tiết tại chúng tôi

Tất cả các mối quan hệ này đều rất đa dạng và rộng thể hiện ở nhiều mảng khác nhau.

Quan hệ pháp luật dân sự có đặc điểm gì?

Quan hệ pháp luật dân sự đa dangjnhuwng lại đọc lập về tài sản cũng như tổ chức, quan hệ pháp luật dân sự cũng được hiểu là các quan hệ về nhân thân, tài sản được phát sinh thường nhật đáp ứng các nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng của các hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Là những quan hệ xã hội được phát sinh trong phạm vi rộng nhằm đáp ứng cho nhu cầu của các chủ thể trong xã hội.

Được biểu hiện trong pháp luật dân sự gồm: Cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, pháp nhân và nhà nước.

Pháp luật dân sự đọc lập về các tổ chức, thể hiện khi tham gia vào pháp luật dân sự các chủ thể đều đọc lập, không lệ thuộc vào tổ chức vì vậy có thể tránh những trường hợp đổ lỗi cho nhau về trách nhiệm.

Có sự đọc lập, rành rẽ về tài sản.

Các địa vị pháp lý của chủ thể cũng không phụ thuộc vào yếu tố xã hội, được dựa trên cơ sở bình đẳng. Bình đảng cả về địa vị, thành phần xã hội, trình độ văn hóa….

Biểu hiện của quan hệ pháp luật dân sự

Quan hệ pháp luật dân sự có một số biểu hiện cơ bản như sau:

Quyền bình đẳng về tài sản, bình đẳng về mặt tổ chức, các chủ thể được bình đẳng, thực hiện nghĩa vụ, và quyền bằng chính tài sản của mình, cũng như không lệ thuộc vào mặt tổ chức, phải tự gánh chịu những thiệt hại của mình.

Trong quan hệ pháp luật dân sự thì lợi ích chủ yếu là lợi ích về mặt kinh teeslaf tiền đề của các quan hệ pháp luật dân sự. Chủ yếu là quan hệ về tài sản, mang các đặc điểm có tính chất của tiền tệ, hàng hóa, và các tính chất đền bù để làm sao tương đương với vật chất.

Các bên có mối quan hệ dân sự, có một mục đích nhất định, rõ ràng, đều hướng tới một lợi ích chung đó là lợi ích về kinh tế và lợi ích về vật chất từ các mối quan hệ về tài sản hay nhân thân…

Các biện pháp cưỡng chế cũng rất đa dạng và hợp pháp được quy định cả trong quan hệ pháp luật dân sự và pháp luật. Các biện pháp cưỡng chế có nhiều hình thức như cải chính công khai, xin lỗi… mục đích chủ yếu để khắc phục các vấn đề thuộc về các giá trị nhân thân, đời sống tinh thần…

Xem Thêm : Đề xuất tăng lương và hướng dẫn cách đề xuất tăng lương nhanh nhất

4. Đối tượng và phương pháp điều chỉnh luật dân sự

Bất cứ một bộ luật nào cũng cần phải liên tục điều chỉnh cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Pháp luật dân sự cũng vậy nhưng đối tượng điều chỉnh ở đây là những ai? Và phương pháp để điều chỉnh như thế nào? Để đi trả lời câu hỏi này chúng ta cùng đi giải quyết vấn đề ở phần bên dưới của điều chỉnh pháp luật dân sự.

Đối tượng điều chỉnh :

Đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự là các mối quan hệ về nhân thân, tài sản được phát sinh trong quá trình sản xuất, hay phân phối, lưu thông hàng hóa, tiêu dùng các sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu các thành viên trong xã hội.

Phương pháp điều chỉnh của pháp Luật dân sự :

Phương pháp điều chỉnh của pháp luật dân sự được thể hiện qua những cách thức, biện pháp mà nhà nước tác động lên các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân, làm cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi và chấm dứt theo ý chí của nhà nước, có các đặc điểm sau:

Đảm bảo được sự bình đẳng về mặt pháp lý giữa những chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự.

Đảm bảo được quyền tự định đoạt của chủ thể trong các sự việc như đưa đơn, thư từ mang tính chất kiện cáo trước tòa nhằm bảo vệ những quyền lợi cho người bị hại, như bị xâm phạm, bị tranh chấp, hoặc đang tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự khác cũng như việc thực hiện, lựa chọn các biện pháp khuôn khổ trong pháp luật dân sự đã quy định để thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự.

Bên cạnh đó cũng có thể truy cứu trách nhiệm của những người có hành vi cố tình gây thiệt hại cho người khác về mặt hình sự cũng như tài sản đền bù nếu có đủ điều kiện về các nhân chứng, vật chứng…

Xem Thêm : Đơn xin chuyển công tác là gì? Cách viết đơn xin chuyển công tác hiệu quả

5. Tư vấn pháp luật dân sự

Tư vấn pháp luật dân sự là một trong các việc làm 24h phổ biến hiện nay, tập trung vấn đề tư vấn chuyên sâu vào các quy định của pháp luật dân sự, nhằm mục đích giúp cho các cá nhân, hay tập thể, các tổ chức có thể hiểu rõ về các quyền và nghĩa vụ của mình, thông qua các quan hệ dân sự.

Hoạt động tư vấn pháp luật có vai trò quan trọng trong việc phổ biến, giao dục các quy định pháp luật, giúp các cá nhân định hướng được những hành vi, văn hóa ứng xử của mình trong các mối quan hệ xã hội tuân thủ theo khuôn khổ mà pháp luật cho phép.

Các hoạt động tư vấn pháp luật còn là một trong các hoạt động mang lại kết quảược trực tiếp, dễ nhận thấy và được đánh giá như một quá trình tư vấn. Giúp các đối tượng hiểu rõ được hoàn cảnh, vị thế của mình, để từ đó lựa chọn những cách ứng xử cho thích hợp và tuân theo pháp luật để phù hợp với đạo đức, chuẩn mực của xã hội.

Các đối tượng mà tư vấn pháp luật dân sự hướng tới là rất nhiều, đa dạng, mà ai cũng có thể trở thành đối tượng tư vấn. vì tất cả chúng ta đều phải sống, làm việc tuân thủ theo pháp luật.

Các lĩnh vực trong tư vấn pháp luật dân sự. như lĩnh vực tư vấn về các giao dịch dân sự, tư vấn về luật hôn nhân gia đình,tư vấn luật lao động, tư vấn luật kinh doanh thương mại, tư vấn pháp luật thừa kế.