QUỐC HỘINƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMKhoá XI, Kỳ họp thứ 7LUẬTGIÁO DỤCCăn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10;Luật này quy định về giáo dục.CHƯƠNG I NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNGĐiều 1. Phạm vi điều chỉnhLuật giáo dục quy định về hệ thống giáo dục quốc dân; nhà trường, cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc dân, của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân; tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động giáo dục.Điều 2. Mục tiêu giáo dụcMục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Điều 3. Tính chất, nguyên lý giáo dục1. Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng.2. Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.Điều 4. Hệ thống giáo dục quốc dân 1. Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên.2. Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:a) Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo;b) Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông;c) Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề;d) Giáo dục đại học và sau đại học (sau đây gọi chung là giáo dục đại học) đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ.Điều 5. Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục1. Nội dung giáo dục phải bảo đảm tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại và có hệ thống; coi trọng giáo dục tư tưởng và ý thức công dân; kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phù hợp với sự phát triển về tâm sinh lý lứa tuổi của người học. 2. Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.Điều 6. Chương trình giáo dục1. Chương trình giáo dục thể hiện mục tiêu giáo dục; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp, mỗi cấp học hoặc trình độ đào tạo.2. Chương trình giáo dục phải bảo đảm tính hiện đại, tính ổn định, tính thống nhất; kế thừa giữa các cấp học, các trình độ đào tạo và tạo điều kiện cho sự phân luồng, liên thông, chuyển đổi giữa các trình độ đào tạo, ngành đào tạo và hình thức giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân.3. Yêu cầu về nội dung kiến thức và kỹ năng quy định trong chương trình giáo dục phải được cụ thể hóa thành sách giáo khoa ở giáo dục phổ thông, giáo trình và tài liệu giảng dạy ở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học, giáo dục thường xuyên. Sách giáo khoa, giáo trình và tài liệu giảng dạy phải đáp ứng yêu cầu về phương pháp giáo dục.4. Chương trình giáo dục được tổ chức thực hiện theo năm học đối với giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông; theo năm học hoặc theo hình thức tích luỹ tín chỉ đối với giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học. Kết quả học tập môn học hoặc tín chỉ mà người
Xem Luật Giáo Dục 2005 / TOP 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View
Bạn đang xem chủ đề Xem Luật Giáo Dục 2005 được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung Xem Luật Giáo Dục 2005 hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Luật Giáo Dục Năm 2005 Được Sửa Đổi, Bổ Sung Năm 2009
Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng.
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT GIÁO DỤC
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10; Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục số 38/2005/QH11.
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục.
“2. Chương trình giáo dục phải bảo đảm tính hiện đại, tính ổn định, tính thống nhất, tính thực tiễn, tính hợp lý và kế thừa giữa các cấp học và trình độ đào tạo; tạo điều kiện cho sự phân luồng, liên thông, chuyển đổi giữa các trình độ đào tạo, ngành đào tạo và hình thức giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân; là cơ sở bảo đảm chất lượng giáo dục toàn diện; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế”.
“1. Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học và phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Nhà nước quyết định kế hoạch phổ cập giáo dục, bảo đảm các điều kiện để thực hiện phổ cập giáo dục trong cả nước.”
“Điều 13. Đầu tư cho giáo dục
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Đầu tư trong lĩnh vực giáo dục là hoạt động đầu tư đặc thù thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện và được ưu đãi đầu tư.
Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục; khuyến khích và bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục.
Ngân sách nhà nước phải giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục.”
“3. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình giáo dục phổ thông; duyệt và quyết định chọn sách giáo khoa để sử dụng chính thức, ổn định, thống nhất trong giảng dạy, học tập ở các cơ sở giáo dục phổ thông, bao gồm cả sách giáo khoa bằng chữ nổi, bằng tiếng dân tộc và sách giáo khoa cho học sinh trường chuyên biệt, trên cơ sở thẩm định của Hội đồng quốc gia thẩm định chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa; quy định tiêu chuẩn, quy trình biên soạn, chỉnh sửa chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa; quy định nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức hoạt động, tiêu chuẩn, số lượng và cơ cấu thành viên của Hội đồng quốc gia thẩm định chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm về chất lượng chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa.”
“2. Giáo trình giáo dục nghề nghiệp cụ thể hóa các yêu cầu về nội dung kiến thức, kỹ năng quy định trong chương trình giáo dục đối với mỗi môn học, ngành, nghề, trình độ đào tạo của giáo dục nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu về phương pháp giáo dục nghề nghiệp.
Hiệu trưởng nhà trường, Giám đốc trung tâm dạy nghề tổ chức biên soạn hoặc tổ chức lựa chọn; duyệt giáo trình giáo dục nghề nghiệp để sử dụng làm tài liệu giảng dạy, học tập chính thức trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên cơ sở thẩm định của Hội đồng thẩm định giáo trình do Hiệu trưởng nhà trường, Giám đốc trung tâm dạy nghề thành lập để bảo đảm có đủ giáo trình giảng dạy, học tập.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề theo thẩm quyền quy định việc biên soạn, lựa chọn, thẩm định, duyệt và sử dụng giáo trình giáo dục nghề nghiệp; quy định giáo trình sử dụng chung, tổ chức biên soạn và duyệt giáo trình sử dụng chung cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.”
6. Khoản 4 Điều 38 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“4. Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện trong bốn năm học đối với người có bằng tốt nghiệp đại học, từ hai đến ba năm học đối với người có bằng thạc sĩ. Trong trường hợp đặc biệt, thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ có thể được kéo dài hoặc rút ngắn theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Nghiên cứu sinh không có điều kiện theo học tập trung liên tục và được cơ sở giáo dục cho phép vẫn phải có đủ lượng thời gian học tập trung theo quy định tại khoản này để hoàn thành chương trình đào tạo trình độ tiến sĩ, trong đó có ít nhất một năm theo học tập trung liên tục.”.
7. Bổ sung khoản 5 Điều 38 như sau:
“5. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quy định cụ thể việc đào tạo trình độ kỹ năng thực hành, ứng dụng chuyên sâu cho người đã tốt nghiệp đại học ở một số ngành chuyên môn đặc biệt.”
8. Khoản 2 Điều 41 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Giáo trình giáo dục đại học cụ thể hóa yêu cầu về nội dung kiến thức, kỹ năng quy định trong chương trình giáo dục đối với mỗi môn học, ngành học, trình độ đào tạo của giáo dục đại học, đáp ứng yêu cầu về phương pháp giáo dục đại học.
Hiệu trưởng trường cao đẳng, trường đại học tổ chức biên soạn hoặc tổ chức lựa chọn; duyệt giáo trình giáo dục đại học để sử dụng làm tài liệu giảng dạy, học tập chính thức trong trường trên cơ sở thẩm định của Hội đồng thẩm định giáo trình do Hiệu trưởng thành lập để bảo đảm có đủ giáo trình giảng dạy, học tập.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định việc biên soạn, lựa chọn, thẩm định, duyệt và sử dụng giáo trình giáo dục đại học; quy định giáo trình sử dụng chung, tổ chức biên soạn và duyệt giáo trình sử dụng chung cho các trường cao đẳng và các trường đại học.”
9. Điểm b khoản 1 Điều 42 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“b) Đại học, trường đại học, học viện (gọi chung là trường đại học) đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học; đào tạo trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ khi được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép.
Viện nghiên cứu khoa học đào tạo trình độ tiến sĩ, phối hợp với trường đại học đào tạo trình độ thạc sĩ khi được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép.”
10. Khoản 2 Điều 42 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Trường đại học, viện nghiên cứu khoa học được phép đào tạo trình độ tiến sĩ khi bảo đảm các điều kiện sau đây:
a) Có đội ngũ giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ đủ số lượng, có khả năng xây dựng, thực hiện chương trình đào tạo và tổ chức hội đồng đánh giá luận án;
b) Có cơ sở vật chất, trang thiết bị bảo đảm đáp ứng yêu cầu đào tạo trình độ tiến sĩ;
c) Có kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu khoa học; đã thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu thuộc đề tài khoa học trong các chương trình khoa học cấp nhà nước hoặc thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học có chất lượng cao được công bố trong nước và ngoài nước; có kinh nghiệm trong đào tạo bồi dưỡng những người làm công tác nghiên cứu khoa học.”
11. Khoản 6 Điều 43 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“6. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quy định văn bằng công nhận trình độ kỹ năng thực hành, ứng dụng cho những người được đào tạo chuyên sâu sau khi tốt nghiệp đại học ở một số ngành chuyên môn đặc biệt.”
12. Bổ sung điểm c khoản 1 Điều 46 như sau:
“c) Trung tâm ngoại ngữ, tin học do tổ chức, cá nhân thành lập.”
13. Khoản 3 Điều 46 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“3. Trung tâm giáo dục thường xuyên thực hiện các chương trình giáo dục thường xuyên quy định tại khoản 1 Điều 45 của Luật này, không thực hiện chương trình giáo dục để cấp văn bằng giáo dục nghề nghiệp và văn bằng giáo dục đại học. Trung tâm học tập cộng đồng thực hiện các chương trình giáo dục quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 45 của Luật này. Trung tâm ngoại ngữ, tin học thực hiện các chương trình giáo dục quy định tại điểm c khoản 1 Điều 45 của Luật này về ngoại ngữ, tin học.”
14. Khoản 2 Điều 48 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân thuộc mọi loại hình đều được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục. Nhà nước tạo điều kiện để trường công lập giữ vai trò nòng cốt trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Điều kiện, thủ tục và thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập; cho phép hoạt động giáo dục, đình chỉ hoạt động giáo dục sáp nhập, chia, tách, giải thể nhà trường được quy định tại các điều 50, 50a, 50b và Điều 51 của Luật này.”
15. Điều 49 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 49. Trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân
1. Trường của cơ quan nhà nước, của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Trường của lực lượng vũ trang nhân dân có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp và công nhân quốc phòng; bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý nhà nước về nhiệm vụ và kiến thức quốc phòng, an ninh.
2. Trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân là cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân theo quy định tại Điều 36 và Điều 42 của Luật này nếu đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật giáo dục và Điều lệ nhà trường ở mỗi cấp học và trình độ đào tạo, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoạt động giáo dục và thực hiện chương trình giáo dục để cấp văn bằng, chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân.
3. Chính phủ quy định cụ thể về trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân.”
16. Điều 50 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 50. Điều kiện thành lập nhà trường và điều kiện để được cho phép hoạt động giáo dục
1. Nhà trường được thành lập khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có Đề án thành lập trường phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội và quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt;
b) Đề án thành lập trường xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, chương trình và nội dung giáo dục; đất đai, cơ sở vật chất, thiết bị, địa điểm dự kiến xây dựng trường, tổ chức bộ máy, nguồn lực và tài chính; phương hướng chiến lược xây dựng và phát triển nhà trường.
Bài viết được thực hiện bởi Công ty Luật Dương Gia
Luật Giáo Dục Và Văn Bản Pháp Quy Về Luật Giáo Dục
PHẦN THỨ NHẤT. MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tàiSau khi Luật giáo dục được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ tư thông qua ngày 2 tháng 12 năm 1998, vấn đề đặt ra là phải có kế hoạch hành động nhằm tuyên truyền, phổ biến, quán triệt Luật giáo dục trong toàn ngành và xã hội. Đồng thời phải xây dựng một hệ thống các văn bản pháp qui, hoàn thiện pháp luật về giáo dục cả về số lượng và chất lượng, tạo ra một hành lang pháp lý, đưa pháp luật vào cuộc sống. Có thể nói đây là một công tác trọng tâm của những năm trước mắt, là nhiệm vụ chiến lược quan trọng hàng đầu của ngành giáo dục trong hàng chục năm tới.Vì lí lẽ đó, việc quán triệt tinh thần và nội dung của Luật giáo dục cho đội ngũ cán bộ quản lý là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Các chuyên đề bài giảng ở Trường cán bộ quản lý giáo dục nói chung và ở Khoa cơ sở (khoa II) nói riêng đều phải đi sát với những qui định của đạo luật này. Việc nghiên cứu, tìm hiểu nội dung của luật để phục vụ cho việc giảng dạy, học tập cần phải được tiến hành hơn nữa.Đề tài này nghiên cứu, tìm hiểu về Luật giáo dục là một sự cần thiết để giải quyết những vấn đề trên, góp phần nhỏ bé để Luật giáo dục đi vào cuộc sống thực tế.2. Mục đích nghiên cứu
triển. Chính quyền thực dân Pháp vừa thi hành chính sách chia để trị, vừa thi hành chính sách ngu dân. Chúng phát triển giáo dục chỉ nhằm mục đích đào tạo ra một số ít người thừa hành như thư ký, viên chức, đốc công, cai lý. Giáo dục trung học ở Việt Nam phát triển rất chậm chạp, quy mô rất nhỏ bé. Ở một số rất ít thành phố và tỉnh lỵ lớn có các trường cao đẳng tiểu học (tương đương trung học cơ sở hiện nay) được mở ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Từ sau những năm 30 có thêm các trường tư, số học sinh có tăng thêm, nhưng chỉ chiếm 2,11% so với dân số trong đó học sinh cao đẳng tiểu học và trung học chỉ chiếm 0,01%.Trường công Trường tưSố trường Số học sinh Số trường Số học sinhTrung học 3 652Cao đẳng Tiểu học 16 5521 9 1203Tiểu học 503 58629 234 29573Sơ học 8775 486362 906 48675
Lợi Ích Giáo Dục Giới Luật Phật Giáo
Giới luật căn bản của Phật giáo (Ngũ giới) áp dụng vào đời sống hàng ngày sẽ đem lại nhiều lợi ích cho đời sống sinh hoạt tâm linh cá nhân và ổn định kết cấu và trật tự xã hội, hài hòa và phát triển bền vững sinh tồn của nhân loại. Giới luật Phật giáo còn có đầy đủ tính phổ biến rộng rãi và quy phạm đạo đức cho mọi mọi trong mọi giai tầng xã hội. Giữ gìn và hành trì giới luật Phật giáo thúc đẩy việc bảo vệ hoàn cảnh môi trường và sinh tồn của con người và phát triển kinh nghiệm sống hữu ích, nâng cao tính cộng đồng tập thể và ổn định xã hội. Chính vì thế, giới luật Phật giáo không chỉ hạn hẹp trong phạm vi tu sĩ Phật giáo hay tín đồ Phật giáo mà còn là quy phạm đạo đức xã hội tính, phổ cập với mọi người trên toàn thế giới, không ngăn ngại tôn giáo, quan điểm chính trị và triết học.
Thực hành giới luật Phật giáo (Thập thiện giới) là việc rèn luyên nhân cách đạo đức qua 3 hành vi của thân khẩu ý, làm các việc thiện và hạn trừ các việc ác, hay nói đúng hơn là làm tốt, nói lời tốt và suy nghĩ điều tốt. Đây là một việc làm tích lũy được nhiều công đức mang tính xã hội phổ biến, tạo điều kiện giúp cho các nhân và xã hội hoàn thiện tốt đẹp.
Giới luật căn bản của Phật giáo (Ngũ giới) áp dụng vào đời sống hàng ngày sẽ đem lại nhiều lợi ích cho đời sống sinh hoạt tâm linh cá nhân và ổn định kết cấu và trật tự xã hội, hài hòa và phát triển bền vững sinh tồn của nhân loại.Giới Bồ tát là một là một quá trình rèn luyện nhân cách đạo đức cá nhân của một người tu tập hướng đến quả vị giải thoát; đồng thời là nguyên tắc đạo đức không tách rời với nhân quần xã hội (Tứ nhiếp, Lục độ). Bố thí: là san sẻ cho người khó khăn, người hiểu biết bày vẻ cho người chưa biết, đây là việc giáo hóa về đạo đức, do đó tập thể và cá nhân cùng nhau hỗ trợ, làm cho đời sống sinh hoạt tập thể hướng thượng viên mãn. Ái ngữ:cùng nhau nói lời hòa nhã làm cho tập thể xã hội, cộng đồng có nền móng sinh hoạt dung hòa. Lợi hành: nghĩ và làm việc chung, có nghĩa là phục vụ xã hội. Đồng sự: cá nhân hòa nhập vào tập thể, nghĩa là dựa vào nguyên tắc sinh hoạt của tập thể và hoạt động của tập thể, đây là một biểu hiện tập thể có sức mạnh và sức mạnh của tập thể. Bốn nhiếp pháp thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả nhất, có một đặc thù sung mãn cho việc bảo vệ sinh tồn của xã hội và khắc phục tình huống khó khăn của xã hội, làm hài hòa cuộc sống quan hệ giữa người với người, và giữa người với môi trường sống, hòa giải các mâu thuẩn con người và xã hội, ổn định xã hội loạn lạc.
Lục độ cũng là một trong những tinh thần giới luật của Phật giáo. Chúng sanh luân hồi là do chúng sanh ấy suy đồi đạo đức. Tu Lục độ vạn hạnh là chuyển hóa suy đồi đạo đức tiến đến giải thoát, tạo cho xã hội hoàn thiện đạo đức. Bố thí trì giới nhẫn nhục là chuẩn tắc đạo đức của Phật giáo Đại thừa, là nguyên tắc sống của người Phật tử tại gia và xuất gia trong đời sống cộng đồng xã hội; tinh tấn, thiền định và trí huệ là phương pháp thực tiễn tu hành của Phật giáo, là nguyên tắc tu dưỡng đạo đức của Phật giáo.
Giới luật Phật giáo cũng không ngoài tinh thần từ bi và trí huệ; bi và trí là hai nền tảng cơ bản và tinh túy của tiến trình tu tập trong Phật giáo. Một mặt là thực tiễn dẹp trừ ích kỉ, phục vụ xã hội; một mặt là nhìn nhận hiểu biết thông suốt thực tướng của nhân sinh và vũ trụ, để giúp mọi người và chính mình đạt đến cảnh giới tâm linh cao cả, lợi đạo ích đời.
Giới luật Phật giáo là những nguyên tắc đạo đức thể hiện ở chính con người, tư tưởng phục vụ xã hội cộng đồng, thích ứng với sự sinh tồn và phát triển căn bản và thiết thực của con người; để thiết lập một xã hội đạo đức hoàn thiện và phát triển ổn định bền vững về cả vật chất và lí tưởng của con người.
Giới luật Phật giáo còn có đầy đủ tính phổ biến rộng rãi và quy phạm đạo đức cho mọi mọi trong mọi giai tầng xã hội.Phát huy lòng từ bi
Bản chất của Phật giáo là bình đẳng thương yêu tất cả mọi chúng sinh, và mong muốn cứu họ ra khỏi biển khổ trầm luân sanh tử. Tôn trọng sự sống, tha thứ và cứu giúp kẻ khác là trách nhiệm của hàng đệ tử đấng Giác ngộ, đó là ý nghĩa của câu “phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật”.
Trong bối cảnh thế giới đang diễn ra nhiều sự xung đột, sự sát sanh đối với động vật đến lúc báo động, chiến tranh vẫn diễn ra trên một số quốc gia, việc áp dụng và tuyên truyền rộng rãi giới luật Phật giáo cho xã hội là rất cần thiết. Người thực hành giới luật phát huy lòng từ bi, không những thương tưởng chỉ con người mà còn phổ cập đến cả muôn loài qua giới “không sát sinh”, bằng cả tâm giới đó là không giết, không bảo giết và thấy vật bị giết mà vui, mới thể hiện trọn vẹn lòng từ bi đối với vạn loại sinh linh. Lòng từ bi còn đối với cả sự sống của cỏ cây hoa lá, thân thiện môi trường.
Giữ giới và thực hành theo giới luật là một phương pháp giáo dục tích cực nhất trong mọi thời đại, nhằm cải thiện đời sống khắt nghiệt của sự xung đột tư tưởng, chủ nghĩa quốc gia và bè phái. Trong cuộc sống đời thường việc giữ giới còn mang nhiều ý nghĩa khác trong việc bảo vệ môi trường, cải tạo điều kiện sống, và lương thực cho những nước khó khăn. Hạn chế ăn thức ăn động vật là góp phần bảo vệ sinh thái, ăn chay vừa thể hiện lòng từ bi đối với chúng sanh, không tạo ác nghiệp mà còn giúp con người sống lương thiện, xã hội càng ổn định hòa bình.
Giữ gìn và hành trì giới luật Phật giáo thúc đẩy việc bảo vệ hoàn cảnh môi trường và sinh tồn của con người và phát triển kinh nghiệm sống hữu ích, nâng cao tính cộng đồng tập thể và ổn định xã hội.Thực hiện nếp sống thanh cao
Tăng sĩ phải tuân thủ những giới luật, sống thiểu dục tri túc. Tóm lại, người xuất gia còn phải tuân thủ phương châm “Tam thường bất túc”, nghĩa là ba sự ăn, mặc và ngủ không được quá thừa thãi, sung túc. Nói như thế không có nghĩa là đạo Phật chủ trương trở về cuộc sống lạc hậu. Phật giáo không bao giờ phủ nhận những giá trị của các phương tiện văn minh vật chất, nhưng đối với một người tu học thì không thể hưởng thụ thái quá, làm tăng trưởng xấu ác.
Trước nhu cầu văn minh vật chất ồ ạt, đời sống cải thiện, thức ăn vật mặc sang trọng, thế nhưng đây là điều đáng lo ngại. Của cải vật chất được làm ra cũng phải sử dụng đến nguồn khai thác, đến một ngày nào đó nguồn khai thác thiếu hụt, thiên nhiên bị tàn phá, đất dai thu hẹp và hoang hóa, thì lúc đó thiên tai, đói kém lại diễn ra. Vì vậy, sống theo tinh thần giới luật là cuộc sống tiếc kiệm, mà trong nhà chùa gọi là tích phước.
Sống biết tích phước thì kiếp sau khỏi bị đói kém nghèo khổ, sống hoang phí sẽ bị quả báo cùng cực. Xã hội văn mình, vật chất dồi dào, người Phật tử cũng phải cần tích phước, tiếc kiệm, nhất là đối với những vấn đề về năng lượng và nguồn trử lượng. Nếu sống hoang phí hưởng thụ là trái với đạo đức Phật giáo, hoặc sống khổ hạnh ép xác cũng trái với đạo đức Phật giáo, cần phải tránh xa hai cực đoan này mới có thể thành tựu được tuệ giác. Gìn giữ giới luật cũng là thực hành Pháp trung đạo, vừa kiểm thúc thiện căn, vừa tăng trưởng huệ căn; sống theo giới luật cũng là tích góp phước đức, cũng gia tăng phước huệ.
Tăng sĩ phải tuân thủ những giới luật, sống thiểu dục tri túc.Ngăn ngừa tội lỗi quá khứ, hiện tại và tương lai
Đối với Phật giáo, thời gian mở rộng cả 3 thời quá khứ, hiện tại và tương lại. Nhờ vào thực hành giới luật mà người tu học thấy được tội lỗi quá khứ và tu chỉnh hành vi hiện tại và kết quả của tương lai. Đó là tổng hợp của nội lực tu tập, nhất là đối với tuổi trẻ. Trong Toàn Tập Tâm Như Trí Thủ cố Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ đã dạy rõ, một người hành trì giới luật có thể chuyển nghiệp bất thiện quá khứ để có một cuộc sống hiện tại an lạc, nhờ hiện tại tích lũy được nhân tốt đẹp mà tương lai sẽ được quả báo tốt đẹp và tiến gần đến với mục đích giải thoát.
Vậy giới luật vượt không gian và thời gian, ai cũng có thể làm được, không phân biệt quốc gia, chức tước và tuổi tác. Giới luật Phật giáo thành tựu ở tất cả mọi hoàn cảnh. Ai thực hành được bao nhiêu thì giải thoát được bấy nhiêu. Hành trì giới luật là một chuỗi nhân quả xuyên suốt ba đời, nhân của thiện căn phước đức, quả thành tựu tuệ giác.
HT. Thích Khế Chơn
Tổng hợp các bài viết thuộc chủ đề Xem Luật Giáo Dục 2005 xem nhiều nhất, được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!