Xử Lý Nợ Xấu Theo Nghị Quyết 42 / Top 9 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Bac.edu.vn

Tiếp Tục Xử Lý Nợ Xấu Theo Nghị Quyết 42

Theo số liệu thống kê của NHNN chi nhánh chúng tôi kể từ khi Nghị quyết 42 chính thức có hiệu lực (ngày 15/8/2023) đến hết ngày 31/5/2023, tổng số nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 đã được xử lý là 123.274 tỷ đồng. Trong số này, thu từ nguồn khách hàng trả nợ là 32.583 tỷ đồng; các TCTD nhận tài sản đảm bảo thay cho nghĩa vụ trả nợ 525 tỷ đồng; bán, phát mãi tài sản đảm bảo để thu hồi nợ 1.503 tỷ đồng; bán cho Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) 429 tỷ đồng; bán cho các tổ chức khác 5.536 tỷ đồng và xử lý theo hình thức khác trên 6.000 tỷ đồng.

Cũng theo báo cáo, việc xử lý các khoản nợ đang hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán xác định theo Nghị quyết 42 tại các TCTD ở chúng tôi hiện nay là gần 18.500 tỷ đồng. Các TCTD cũng đã xử lý được khoảng 58.165 tỷ đồng nợ xấu đã bán cho VAMC thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt.

Theo nhận xét của Sở Tư pháp chúng tôi hoạt động xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 mặc dù đạt được khá nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên quá trình xử lý vẫn diễn ra chậm và gặp nhiều vướng mắc. Việc xử lý nợ chủ yếu được các bên tiến hành theo hình thức thông thường, tức là đôn đốc khách hàng trả nợ và mua lại các khoản nợ đã bán cho VAMC. Việc xử lý nợ thông qua thủ tục rút gọn là không đáng kể. Vì vậy có thể cho rằng việc áp dụng triệt để các quy định của Nghị quyết 42 vào xử lý nợ xấu là chưa cao và chưa mang lại nhiều hiệu quả.

Đại diện Sở Tư pháp chúng tôi cho rằng, hiện nay những vướng mắc lớn nhất trong việc triển khai Nghị quyết 42 vẫn nằm ở khâu xử lý, thu giữ tài sản đảm bảo. Ông Nguyễn Hữu Hùng – Phó Giám đốc Trung tâm đấu giá chúng tôi cho rằng, thực tế kết quả những cuộc bán đấu giá thành công tài sản đảm bảo nợ chỉ chiếm khoảng 50%. Nhiều gói tài sản đảm bảo nợ xấu phải định giá, giảm giá nhiều lần, nhưng do tâm lý e ngại của nhà đầu tư nên việc bán thành công là rất khó khăn. Chưa kể thành phần tài sản đảm bảo nợ đối với nhiều khoản nợ xấu là rất phức tạp, bao gồm nhiều loại hình tài sản như xe cộ, nhà cửa, máy móc, hàng hóa nên việc định giá và hoàn thiện các hồ sơ thủ tục luôn mất nhiều thời gian, chi phí.

Quy trình rút gọn tại tòa tiếp tục phát sinh khó khăn

Ông Trần Đình Cường – Phó Giám đốc NHNN chi nhánh chúng tôi cho rằng, hiện nay việc thu giữ tài sản đảm bảo vẫn là vướng mắc chính, khiến các TCTD trên địa bàn khó tiến hành xử lý nhanh các khoản nợ xấu. Vì vậy, trong thời gian tới, nếu Nghị quyết 42 được Quốc hội xem xét “luật hóa” thì cần tính đến việc mở rộng phạm vi, quyền hạn và quy định cụ thể hơn, tạo sự chủ động nhiều hơn cho các TCTD trong khâu thu giữ tài sản đảm bảo nợ.

Kết luận tại buổi làm việc, ông Dương Quốc Anh – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho biết, chúng tôi là địa phương đầu tiên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tiến hành làm việc, ghi nhận về kết quả xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 sau 3 năm triển khai. Sắp tới đây các buổi làm việc tương tự sẽ được tổ chức tại Hà Nội và một số tỉnh thành khác.

Ông Dương Quốc Anh đánh giá cao những kết quả xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 mà hệ thống ngân hàng cũng như các cơ quan, ban, ngành tại chúng tôi đã phối hợp thực hiện được trong suốt 3 năm vừa qua. Đồng thời ghi nhận từ khi có Nghị quyết 42 nhiều TCTD trên địa bàn chúng tôi đã xử lý giảm mạnh tỷ lệ nợ xấu, đảm bảo được các chỉ tiêu an toàn vốn và lành mạnh về tài chính.

Nghị Quyết 42 Về Xử Lý Nợ Xấu

Ngoài ra, không sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật để xảy ra nợ xấu và trong quá trình xử lý nợ xấu phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

Nghị quyết sẽ có hiệu lực trong vòng 5 năm, áp dụng đối với toàn bộ nợ xấu tính đến thời điểm trước khi Nghị quyết có hiệu lực (trước ngày 15/08). Bên cạnh những ưu điểm, một số quy định của Nghị quyết vẫn gây nhiều quan ngại về khả năng thực thi và cần có Thông tư hướng dẫn thực hiện chi tiết. Do vậy, mặc dù đánh giá cao sự cần thiết của Nghị quyết đối với mục tiêu giảm lãi suất của Thủ tướng Chính phủ nói chung và tháo gỡ phần nào khó khăn trong việc xử lý nợ cho các ngân hàng nói riêng, nhiều chuyên gia cho rằng vẫn cần bổ sung thêm các văn bản nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho việc xử lý nợ.

Theo Chuyên gia tài chính, TS. Cấn Văn Lực, có rất nhiều vấn đề sẽ được giải quyết nhờ Nghị quyết về xử lý nợ xấu. Ví dụ như các khoản nợ xấu phải được mua bán theo cơ chế thị trường, đặc biệt cho phép các công ty định giá độc lập định giá nợ và tài sản thế chấp, cho phép phần chênh lệch so với sổ sách được phân bổ trong 10 năm, đặc biệt là phần tài sản đảm bảo được xử lý khá tích cực.

“Có 2 việc cần hết sức khẩn trương. Thứ nhất là rất nhiều văn bản sẽ phải được ban hành, thứ hai là phải xác định được quy mô chính xác hơn về nợ xấu,” TS. Cấn Văn Lực nói.

“Bởi vì trong Nghị quyết của Quốc hội cũng có một số tiêu chuẩn về nợ xấu rõ ràng, cụ thể hơn. Như vậy, rõ ràng đó là tín hiệu tích cực đối với hệ thống ngân hàng. Tôi tin tưởng rằng khi các bộ ngành vào cuộc xử lý rất quyết liệt thì sẽ có những kết quả tích cực, bản thân các ngân hàng cũng đang tiến hành rà soát phân loại nợ xấu.

“Điều thứ hai là đã tái lập những công ty mua bán nợ của ngân hàng. Những công ty này trước đây đã có nhưng hiện nay đã tái hoạt động. Các công ty này sẽ tham gia vào quá trình mua bán nợ. Lượng nợ xấu chiếm 10% dư nợ tín dụng sẽ tốn khoảng vài năm nữa để giải quyết xong và đưa nợ xấu xuống còn 3%”.

Nghị quyết có thể không chỉ giúp các ngân hàng giải quyết các tài sản tồn đọng không sinh lãi mà còn có thể mang lại các khoản lợi nhuận bất thường thông qua hoàn nhập dự phòng một khi khoản nợ xấu được xử lý. Do đó, theo Chuyên gia kinh tế, TS. Nguyễn Minh Phong, Nghị quyết xử lý nợ xấu chỉ có tác dụng đối với các khoản nợ xấu đến ngày 15/8, nên các nhà đầu tư chứng khoán phải chọn những ngân hàng nào có nhiều bất động sản có giải chấp trước 15/8.

Cũng theo ông Phong, để đảm bảo an toàn cho thị trường từ nay đến cuối năm, Nhà nước phải quản lý chặt nợ vay dưới chuẩn. Bên cạnh đó, cần nâng trách nhiệm của các ngân hàng có vấn đề.

Theo Ngân Giang

Xử Lý Nợ Xấu Theo Nghị Quyết 42 Còn Vướng Ở Đâu?

Riêng về kết quả xử lý nợ xấu được xác định theo Nghị quyết 42, lũy kế từ 15/8/2023 đến cuối tháng 8/2023, toàn hệ thống tổ chức tín dụng đã xử lý được 236,8 nghìn tỷ đồng (không bao gồm sử dụng dự phòng rủi ro và khoản nợ bán cho VAMC thông qua phát hành trái phiếu đặc biệt).

Trong đó, xử lý nợ xấu nội bảng đạt 137,7 nghìn tỷ đồng; xử lý các khoản nợ đang hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán xác định theo Nghị quyết 42 là 47,97 nghìn tỷ đồng; xử lý các khoản nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 đã bán cho VAMC được thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt là 51,12 nghìn tỷ đồng.

Như vậy, tính trung bình, mỗi tháng toàn hệ thống xử lý được khoảng 9,6 nghìn tỷ đồng, cao hơn 4,7 nghìn tỷ đồng so với kết quả xử lý nợ xấu trung bình trước khi Nghị quyết 42 có hiệu lực.

Bên cạnh đó, đến thời điểm cuối tháng 8/2023, các tổ chức tín dụng đã sử dụng 123,89 nghìn tỷ đồng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu nội bảng.

Khó khăn trong triển khai

Còn tại một hội nghị gần đây về Nghị quyết 42 do Ngân hàng Nhà nước tổ chức, ông Phạm Toàn Vượng, Phó Tổng giám đốc Agribank chia sẻ: “Sau 2 năm Nghị quyết 42 ra đời, Agribank đã xử lý được gần 110 nghìn tỷ đồng. Đến nay, ngân hàng đã mua lại 100% nợ xấu đã bán cho VAMC. Đây là kết quả rất lớn và vượt xa so với trước khi Nghị quyết 42 ra đời”.

Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, nợ xấu theo Nghị quyết 42 đã xử lý được một bước quan trọng nhưng vẫn gặp phải không ít khó khăn trong việc triển khai.

Cụ thể, về áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm, ngày 15/5/2023, Hội đồng Thẩm phán đã ban hành Nghị quyết số 03/2023/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm, tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu…

Tuy nhiên, hiện nay, số lượng các vụ việc xử lý nợ xấu thông qua thủ tục rút gọn tại Tòa án còn hạn chế, phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả thu hồi nợ.

Về việc hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự, hiện chưa có văn bản quy phạm pháp luật giải thích cụ thể về việc “ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án” theo quy định tại Điều 14 Nghị quyết số 42.

Do đó, việc có hoàn trả vật chứng trong vụ án hình sự là tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu hay không sẽ phụ thuộc nhiều vào quan điểm của cơ quan tiến hành tố tụng.

Đồng thời, chưa có hướng dẫn về cơ chế xác định sớm hữu hiệu trong quá trình thẩm định, để xác định tài sản nào đang tranh chấp, tài sản nào đang phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, dẫn đến cách hiểu về tài sản tranh chấp giữa các cơ quan tố tụng tại nhiều nơi, nhiều cấp khác nhau, gây khó khăn khi áp dụng các biện pháp xử lý tài sản theo Nghị quyết số 42.

Tòa án nhân dân tối cao xem xét, phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp (Tổng cục Thi hành án dân sự) sớm có văn bản chỉ đạo về việc hoàn trả các tài sản bảo đảm là vật chứng của vụ án hình sự sau khi đã hoàn tất các thủ tục xác minh chứng cứ quy định tại Nghị quyết 42.

Kết Quả Tích Cực Từ Xử Lý Nợ Xấu Theo Nghị Quyết 42

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa có Báo cáo kết quả 3 năm thực hiện Nghị quyết số 42/2023/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD).

ĐÃ XỬ LÝ GẦN 294 NGHÌN TỶ ĐỒNG NỢ XẤU XÁC ĐỊNH THEO NGHỊ QUYẾT 42

Cụ thể, về kết quả xử lý nợ xấu nội bảng, NHNN cho biết, đã chỉ đạo các TCTD sát sao, quyết liệt và đồng bộ cùng với sự chủ động, nỗ lực của các TCTD, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống các TCTD trong giai đoạn 2023-2023 đã được xử lý, kiểm soát và duy trì ở mức dưới 3%.

Cụ thể, cuối năm 2023 là 2,46%; cuối tháng 8/2023: 2,45%; cuối năm 2023: 1,99%; cuối năm 2023: 1,91%; cuối năm 2023: 1,63% và thời điểm 31/5/2023 là 1,86%. Như vậy, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của các TCTD giảm liên tục qua các năm.

Tính từ cuối năm 2023 đến 31/5/2023, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 361,2 nghìn tỷ đồng nợ xấu, trong đó, nợ xấu do các TCTD tự xử lý là 307,96 nghìn tỷ đồng (chiếm 85,26%); nợ xấu bán cho Công ty Quản lý tài sản các TCTD Việt Nam ( VAMC ) là 48,52 nghìn tỷ đồng (chiếm 13,43%); và nợ xấu bán cho tổ chức, cá nhân khác là 4,72 nghìn tỷ đồng (chiếm 1,3%).

Bên cạnh kết quả trong xử lý nợ xấu nói chung, xử lý nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 từ khi Nghị quyết có hiệu lực đến 31/5/2023 cũng đạt được kết quả bước đầu quan trọng; các hình thức xử lý nợ xấu được các TCTD vận dụng, áp dụng đa dạng, đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu.

Cụ thể, lũy kế từ 15/8/2023 đến 31/5/2023, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 293,88 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42; trong đó, xử lý nợ xấu nội bảng là 160,92 nghìn tỷ đồng (chiếm 54,76% tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 đã xử lý); Xử lý các khoản nợ đang hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán xác định theo Nghị quyết số 42 là 67,28 nghìn tỷ đồng (chiếm 22,89% tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 đã xử lý); xử lý các khoản nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 đã bán cho VAMC được thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt là 65,68 nghìn tỷ đồng (chiếm 22,35% tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 đã xử lý).

Tổng số nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 được xử lý từ 15/8/2023 đến 31/5/2023 đạt trung bình khoảng 7,15 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn 3,63 nghìn tỷ đồng/tháng so với kết quả xử lý nợ xấu nội bảng trung bình tháng từ năm 2012 – 2023 của hệ thống các TCTD trước khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực (khoảng 3,52 nghìn tỷ đồng/tháng).

TỶ TRỌNG KHÁCH HÀNG CHỦ ĐỘNG TRẢ NỢ XẤU TĂNG MẠNH

NHNN cho biết, trước khi có Nghị quyết số 42, nợ xấu của toàn hệ thống các TCTD chủ yếu được xử lý bằng dự phòng rủi ro, các biện pháp xử lý nợ xấu thông qua xử lý TSBĐ và khách hàng trả nợ còn chưa cao.

Tuy nhiên, kể từ khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực từ 15/8/2023 đến 31/5/2023, xử lý nợ xấu nội bảng xác định theo Nghị quyết số 42 chủ yếu thông qua hình thức khách hàng trả nợ là 121,4 nghìn tỷ đồng (chiếm khoảng 40,1% tổng nợ xấu nội bảng theo Nghị quyết số 42 đã xử lý), cao hơn nhiều tỷ trọng nợ xấu được xử lý do khách hàng tự trả nợ/tổng nợ xấu nội bảng đã xử lý trung bình năm từ 2012-2023 là khoảng 22,8%.

Kết quả xử lý nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 bằng hình thức khách hàng trả nợ tăng mạnh, phản ánh ý thức trả nợ của khách hàng đã cải thiện. Khách hàng chủ động và hợp tác hơn trong việc trả nợ TCTD, hạn chế tình trạng chủ tài sản cố ý chây ỳ, chống đối nhằm kéo dài thời gian xử lý.

Đây là dấu hiệu tích cực cho thấy Nghị quyết số 42 đã và đang phát huy hiệu quả, góp phần tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc và đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD.

Với VAMC, báo cáo cho biết, từ khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực, kết quả thu hồi nợ của đầu mối này đạt 91.469 tỷ đồng, bằng 60% tổng giá trị thu hồi nợ lũy kế từ năm 2013 đến 31/5/2023.

Cũng từ khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực đến 31/5/2023, VAMC đã tổ chức đấu giá thành công 15 khoản nợ với tổng giá trị trúng đấu giá đạt 1.322 tỷ đồng; đồng thời, VAMC đã thu giữ, nhận bàn giao TSBĐ của 7 khách hàng/nhóm khách hàng.

Agribank Đi Đầu Trong Việc Xử Lý Nợ Xấu Theo Nghị Quyết 42

Xử lý nợ xấu gắn với hỗ trợ khách hàng

Chưa đầy 1 tháng ngay sau ngày Quốc hội công bố Nghị quyết 42/2023/QH14 (Nghị quyết 42) về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD), ngày 20-7-2023, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Chỉ thị số 06/CT-NHNN và Kế hoạch hành động của toàn ngành về xử lý nợ xấu để triển khai Nghị quyết này.

Ngay sau khi có văn bản chỉ đạo của NHNN, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) là ngân hàng đầu tiên đưa ra chương trình hành động với những giải pháp rất cụ thể để “giải cứu” nợ xấu ngay sau khi Nghị quyết 42 được ban hành.

Với chính sách và cơ chế này, số lãi mà Agribank có thể miễn, giảm lên tới vài chục nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, Agribank thực hiện cho vay hỗ trợ khó khăn đối với tất cả khách hàng có nợ đã xử lý rủi ro, đã bán… nay có nguyện vọng, khả năng và điều kiện khôi phục sản xuất, từng bước tạo nguồn trả nợ ngân hàng.

Kết quả, sau gần 1 năm (từ ngày 15-8-2023 đến 31-7-2023), xử lý và thu hồi nợ xấu theo Nghị quyết 42 của Agribank đã đạt 57.922 tỷ đồng; Điều chỉnh giảm lãi suất cho 254.308 khách hàng có nợ đã xử lý rủi ro, nợ bán cho VAMC tại 153 chi nhánh; Phối hợp với VAMC đấu giá, bán nợ theo giá trị thị trường các khoản nợ; Tập trung mọi nguồn lực về tài chính, quyết liệt áp dụng các biện pháp thu hồi nợ sau xử lý rủi ro để tái tạo nguồn tài chính cho xử lý nợ…

Tính chung toàn ngành, chỉ trong 1 năm thực hiện Nghị quyết 42, đã có 138,29 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết này được xử lý, không bao gồm hơn 61 tỷ đồng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu nội bảng. Chỉ tính trong nửa đầu năm 2023 vừa qua, đã có trên 58 nghìn tỷ đồng nợ xấu được xử lý, trong đó chủ yếu là nợ do các tổ chức tín dụng (TCTD) tự xử lý; còn lại là bán cho Công ty Quản lý tài sản VAMC và các tổ chức, cá nhân khác một phần nhỏ.

Vướng mắc, khó khăn cần sớm được tháo gỡ

Có thể thấy, so với pháp luật hiện hành, Nghị quyết 42 đã cho phép áp dụng nhiều chính sách mới về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, tạo lập cơ sở pháp lý thuận lợi hơn cho việc xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán nợ xấu, góp phần xử lý nhanh nợ xấu của hệ thống các TCTD.

Tuy nhiên, sau 1 năm triển khai Nghị quyết này, đã xuất hiện một số vướng mắc cần tiếp tục được nghiên cứu, điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Cụ thể như: Công tác quản trị rủi ro tín dụng đã được nghiên cứu triển khai nhưng vẫn còn thiếu một số công cụ hỗ trợ quản lý rủi ro. Thông tư 13/2023/TT-NHNN của NHNN quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của Ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mới được ban hành, cần có thời gian để triển khai thực hiện.

Các khách hàng sau xử lý hầu hết gặp khó khăn về tài chính, nguồn trả nợ chủ yếu từ việc phát mại tài sản bảo đảm (TSBĐ), tuy nhiên quá trình xử lý TSBĐ lại gặp khó khăn, vướng mắc.

“Nhiều trường hợp, gia đình chỉ có duy nhất một căn nhà đem thế chấp ngân hàng để lấy vốn làm ăn nhưng không may việc kinh doanh bị thua lỗ. Khi khách hàng thua lỗ, theo pháp luật, căn nhà bị ngân hàng xiết nợ. Lúc này, nếu quyết liệt thu giữ tài sản, ngân hàng sẽ bị lên án vì đẩy người dân vào cảnh không có nơi ở. Do vậy, rất khó để giải quyết những trường hợp này một cách hợp tình hợp lý” – ông Trịnh Ngọc Khánh, Chủ tịch Hội đồng thành viên Agribank cho biết.

Nghị quyết 42 tái lập quyền thu giữ TSBĐ của bên nhận TSBĐ. Mặc dù vậy, khi khách hàng không hợp tác thì các TCTD vẫn phải khởi kiện khách hàng ra TAND có thẩm quyền để được quyền xử lý TSBĐ thông qua thi hành án.

Dù Nghị quyết 42 cũng có nội dung rút gọn quá trình tố tụng và xử lý tranh chấp tài sản đảm bảo, nhưng trên thực tế, mới chỉ có 2 trong tổng số hơn 3.000 vụ tranh chấp dân sự của Agribank tại tòa án được áp dụng trình tự rút gọn. “Có những vụ như Công ty Diệp Bạch Dương chúng tôi dư nợ gần 3.000 tỷ đồng, Phó Thủ tướng Chính phủ Trương Hòa Bình đã nhiều lần chỉ đạo nhưng khách hàng không những không bàn giao tài sản bảo đảm mà có dấu hiệu tẩu tán tài sản thế chấp, làm tăng nguy cơ thất thoát nhưng chưa được các cơ quan phụ trách giải quyết” – ông Trịnh Ngọc Khánh nói.

Bên cạnh đó, việc chưa có hướng dẫn chi tiết, cụ thể về việc nộp thuế khi xử lý TSBĐ cũng là một vướng mắc cần sớm được giải quyết. Mặt khác, tại Việt Nam, việc triển khai mua bán nợ xấu của các TCTD chưa tạo lập được một thị trường mua bán nợ thật sự chuyên nghiệp. Các nhà đầu tư có nhu cầu mua bán khoản nợ vẫn còn tâm lý e ngại nên hoạt động này chưa thật sự sôi động, chưa có nhiều thương vụ lớn, chủ yếu mới dừng lại ở việc bán nợ theo phương thức chuyển khoản nợ đã bán thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt sang bán nợ theo giá thị trường cho VAMC…

Với mục tiêu quyết liệt cùng ngành Ngân hàng xử lý nợ xấu và ngăn ngừa nợ xấu quay lại thời gian tới, đặc biệt tập trung tối đa mọi nguồn lực để xử lý thu hồi nợ sau xử lý nhằm tăng năng lực tài chính trước khi cổ phần hóa theo lộ trình vào năm 2023, Agribank đã xác định nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động này. Đó là tiếp tục tập trung mọi nguồn lực, quyết liệt sử dụng đồng bộ các giải pháp để xử lý thu hồi nợ đảm bảo theo kế hoạch đã đề ra.