Xử Lý Tài Sản Bảo Đảm Theo Nghị Quyết 42 / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Xử Lý Nợ Xấu Theo Nghị Quyết 42: Nút Thắt Là Tài Sản Đảm Bảo

Các chuyên gia cho rằng, để quá trình xử lý nợ xấu mang lại hiệu quả cao hơn, chính quyền địa phương và các cơ quan quản lý cần nhanh chóng, chủ động, tích cực tháo gỡ các vướng mắc.

Đến nay, Nghị quyết 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu (Nghị quyết 42) đã đi được hơn 1/3 chặng đường thực hiện. Dù kết quả đã đạt được là khá rõ nét, nhưng theo các chuyên gia và những người thực hiện xử lý nợ trực tiếp thì vẫn còn một số vướng mắc cần được tháo gỡ để Nghị quyết 42 phát huy hiệu quả cao hơn…

Đi vào thực chất

Chuyên gia tài chính ngân hàng Cấn Văn Lực đánh giá cách thức quản lý, theo dõi, đánh giá nợ xấu có bước tiến rõ nét làm động lực thúc đẩy xử lý nợ xấu theo hướng chủ động và thực chất hơn. Theo đó, tại Đề án 1058 về “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020,” mục tiêu đưa tỷ lệ nợ xấu gộp (gồm nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa được xử lý và nợ xấu tiềm ẩn) về mức 3% đến năm 2020 đã được đưa ra thay cho chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu thường thấy trước đây.

Cũng theo ông Lực, việc đưa ra mục tiêu tỷ lệ nợ xấu gộp đã giúp cho công tác quản lý nợ xấu tại các cơ quan quản lý cũng như tổ chức tín dụng đi vào thực chất hơn, tạo động lực và cả áp lực đối với hệ thống các tổ chức tín dụng trong việc tích cực, chủ động xử lý nợ xấu.

Chính vì vậy, tính đến cuối năm 2018, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của các tổ chức tín dụng đã giảm xuống mức 1,89% (so với mức 1,99% cuối năm 2017 và 2,46% cuối năm 2016) và tỷ lệ nợ xấu gộp khoảng 6,67% tổng dư nợ, giảm mạnh so với mức 10,08% vào cuối năm 2016 và 7,36% cuối năm 2017.

Tại buổi công bố kết quả hoạt động quý 1, bà Nguyễn Thị Hồng, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết, tính đến cuối tháng Một, ước tính toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được 204.400 tỷ đồng nợ xấu, ước đạt trên 40,1% tổng số nợ xấu được xác định theo Nghị quyết 42. Riêng năm 2018 đã xử lý được 113.400 tỷ đồng, trong đó xử lý nợ xấu nội bảng ước đạt 117.200 tỷ đồng.

Bà Hồng cho biết, kết quả xử lý nợ xấu như vậy là rất khả quan. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng đang được duy trì dưới 2%.

Các giải pháp xử lý nợ xấu được triển khai đồng bộ cùng với các biện pháp kiểm soát, phòng ngừa nợ xấu mới phát sinh, đã góp phần nâng cao chất lượng tín dụng và giảm tỷ lệ nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng.

Còn nhiều vướng mắc

Chủ tịch Hội đồng quản trị VAMC Nguyễn Tiến Đông cho biết, hiện tại, VAMC cũng như tổ chức tín dụng đang gặp một số vướng mắc trong quá trình triển khai theo Nghị quyết 42.

Đơn cử, việc giải quyết tranh chấp theo thủ tục rút gọn rất hạn chế, thứ tự ưu tiên xử lý trong vụ việc có nhiều tài sản thi hành án được hiểu và áp dụng khác nhau. Trong chuyển nhượng dự án bất động sản cũng gặp vướng mắc. Sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương vẫn chưa đồng đều do cách hiểu khác nhau, nên có nơi hỗ trợ rất tốt, nhưng có nơi vẫn chưa tích cực…

Ông Đông nhấn mạnh, giải quyết những vấn đề lớn này cần sự vào cuộc chung của toàn hệ thống để chỉnh sửa kịp thời các quy định được đặt ra như Bộ Tài chính có quy định cụ thể về nghĩa vụ thuế như thế nào, Bộ Tài nguyên và Môi trường có hướng dẫn chuyển nhượng dự án bất động sản ra sao…

Theo Nghị quyết 42, quyền thu giữ tài sản bảo đảm đi kèm với điều kiện hồ sơ thế chấp phải có thỏa thuận về điều khoản thu giữ tài sản bảo đảm, trong khi đó tính đến thời điểm Nghị quyết 42 có hiệu lực, nhiều hợp đồng thế chấp chưa có điều khoản này. Vì vậy, các tổ chức tín dụng cần đàm phán với bên vay để điều chỉnh hợp đồng.

Ngoài ra, ngay cả với những khoản vay đáp ứng được điều kiện này thì việc thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng vẫn cần đến sự hỗ trợ của cơ quan công an các cấp. Tuy nhiên, đến nay Bộ Công an vẫn chưa có văn bản hướng dẫn về cơ chế, cách thức thực hiện cưỡng chế đối với các trường hợp bên bảo đảm chống đối, không hợp tác. Do đó, việc thu giữ tài sản bảo đảm thành công hay không hiện nay phụ thuộc khá nhiều vào thiện chí của bên vay (bên bảo đảm).

Các chuyên gia cho rằng, để quá trình xử lý nợ xấu và thực hiện Nghị quyết 42 mang lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng yêu cầu đề ra, chính quyền địa phương và các cơ quan quản lý cần nhanh chóng, chủ động, tích cực tháo gỡ các vướng mắc nêu trên. Đồng thời, cần nghiêm túc thực hiện đánh giá kết quả thực hiện giữa kỳ vào thời điểm cuối năm 2019…

Tài Sản Bảo Đảm Đầu Tiên Bị Thu Giữ Theo Nghị Quyết 42

Đây là trường hợp đầu tiên VAMC thực hiện theo tinh thần Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các Tổ chức tín dụng (Nghị quyết số 42).

Ngày 21/8/2017, Công ty Quản lý Tài sản của các Tổ chức tín dụng (VAMC) đã tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm của Công ty cổ phần Sài Gòn One Tower nhằm mục đích xử lý, thu hồi nợ theo quy định của pháp luật. Đây là trường hợp đầu tiên VAMC thực hiện theo tinh thần Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các Tổ chức tín dụng (Nghị quyết số 42).

Trước đó, VAMC đã ký Hợp đồng mua nợ với một số tổ chức tín dụng đối với khoản nợ của nhóm khách hàng bao gồm: Công ty cổ phần Sài Gòn One Tower (trước đây là Công ty cổ phần Địa Ốc Sài Gòn M&C); Công ty cổ phần Đầu tư Liên Phát; Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Minh Quân; Công ty cổ phần Tân Superdeck M&C với tổng dư nợ (gốc và lãi) đến thời điểm hiện nay đã lên trên 7.000 tỷ đồng.

Mặc dù VAMC đã nhiều lần có văn bản đôn đốc, làm việc và yêu cầu nhóm khách hàng nêu trên thực hiện nghĩa vụ trả nợ nhưng khách hàng không thực hiện và cũng không có phương án trả nợ khả thi.

VAMC đã yêu cầu Công ty cổ phần Sài Gòn One Tower bàn giao tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ bảo đảm đối với toàn bộ nghĩa vụ của các khách hàng trên. Đến nay, Công ty cổ phần Sài Gòn One Tower vẫn không thực hiện bàn giao tài sản.

VAMC thu giữ tài sản đảm bảo đầu tiên theo Nghị quyết 42. Ảnh: SBV

Vì vậy, VAMC đã triển khai thu giữ tài sản bảo đảm là Dự án đầu tư Cao ốc phức hợp Sài Gòn M&C tại địa chỉ 34 Tôn Đức Thắng, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh để xử lý nhằm thu hồi nợ. Quá trình thu giữ đã tuân thủ theo đúng trình tự quy định tại Điều 7 Nghị quyết 42 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.

Trong quá trình thu giữ, VAMC đã nhận được sự phối hợp tích cực của các cơ quan chức năng cũng như chính quyền địa phương. Quá trình thu giữ tài sản bảo đảm đã diễn ra thuận lợi và đúng theo quy định của pháp luật.

Xác định đây là khoản nợ lớn, việc VAMC thực hiện thu giữ tài sản bảo đảm sẽ góp phần triển khai có hiệu quả Nghị quyết 42 để xử lý nhanh, dứt điểm nợ xấu và tài sản bảo đảm của nợ xấu thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết 42, đồng thời mang tính cảnh báo đến các khách hàng có nợ xấu nhằm nâng cao ý thức trả nợ của khách hàng cho VAMC cũng như tổ chức tín dụng.

Những Vướng Mắc Trong Thu Giữ Tài Sản Bảo Đảm Theo Nghị Quyết 42 Của Quốc Hội Và Giải Pháp Xử Lý

Nghị quyết 42 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của cá Tổ chức tín dụng ra đời đã tạo thuận lợi cho việc xử lý các khoản nợ xấu của các Tổ chức tín dụng. Nhiều Tổ chức tín dụng đã áp dụng triệt để các quy định của Nghị quyết 42 về thu giữ tài sản bảo đảm, mua bán các khoản nợ xấu, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, bán tài sản bảo đảm là các dự án bất động sản…để giảm tỷ lệ nợ xấu và tăng tỷ lệ an toàn vốn cho Tổ chức tín dụng. Bên cạnh những thuận lợi thì Nghị quyết 42 cũng bộc lộ một số bất cập cần được sửa đổi. Trong phạm vi của bài viết này chúng tôi muốn đề cập đến vướng mắc trong thu giữ tài sản theo Nghị quyết 42 của Quốc hội và kiến nghị để xử lý các vướng mắc này.

Tổ chức tín dụng được quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 7 của Nghị quyết 42 của Quốc hội. Trong các điều kiện có quy định tại Hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận khi khoản nợ quá hạn và khách hàng vay vốn không trả được nợ thì bên bảo đảm đồng ý để Tổ chức tín dụng được quyền thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý thu hồi nợ.Tuy nhiên thực tế thu giữ tài sản bảo đảm phát sinh vướng mắc như sau:

1.1.Hợp đồng bảo đảm không có thỏa thuận về việc thu giữ tài sản bảo đảm nhưng Tổ chức tín dụng và khách hàng vay vốn, bên bảo đảm có thỏa thuận tại Biên bản làm việc về việc cho khách hàng kéo dài thời hạn trả nợ nếu hết thời gian này khách hàng không trả được nợ thì Tổ chức tín dụng sẽ tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu.

1.2. Hợp đồng bảo đảm chỉ quy định khi khoản nợ quá hạn và khách hang vay vốn không trả được nợ thì Tổ chức tín dụng có quyền áp dụng tất cả các biện pháp xử lý theo quy địnhpháp luật để xử lý tài sản bảo đảm thu hồi nợ.

Hiện nay có hai quan điểm về việc xử lý vướng mắc nêu trên cụ thể:

Quan điểm 1: Không đồng ý thu giữ tài sản bảo đảm vì không tuân thủ điều kiện thu giữ theo Nghị quyết 42 của Quốc hội. Mặc dù khách hàng vay vốn, bên bảo đảm có thỏa thuận về việc thu giữ tài sản nhưng thỏa thuận này không được ghi trong Hợp đồng bảo đảm nên không đủ điều kiện thu giữ. Đối với trường hợp 1.2 do không ghi cụ thể hình thức xử lý là thu giữ tài sản bảo đảm nên cũng không đủ điều kiện thu giữ theo Nghị quyết 42 của Quốc hội.

Quan điểm 2: Đối với mục 1.1 nêu trên đồng ý thu giữ tài sản bảo đảm theo Nghị quyết 42 của Quốc hội. Đối với mục 1.2 thì không đồng ý vì thỏa thuận ghi trong hợp đồng bảo đảm không rõ ràng nên không có căn cứ xác định đủ điều kiện thu giữ theo Nghị quyết 42.

Chúng tôi đồng ý với quan điểm 2 với các lý do sau: bản chất thỏa thuận ghi trong hợp đồng bảo đảm hay ghi trong Biên bản làm việc giữa Tổ chức tín dụng, khách hàng vay vốn và bên bảo đảm đều thể hiện ý chí của bên bảo đảm về việc đồng ý để Tổ chức tín dụng thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm khi khách hàng vay vốn không trả được nợ theo thỏa thuận. Sự thỏa thuận này là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, cưỡng ép. Bên cạnh đó bên bảo đảm và Tổ chức tín dụng đã giao kết Hợp đồng bảo đảm và Hợp đồng này được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định pháp luật. Vì vậy, Tổ chức tín dụng được quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Nghị quyết 42 của Quốc hội.

Đối với mục 1.2 không đồng ý thu giữ theo Nghị quyết 42 vì thỏa thuận không chỉ rõ các biện pháp theo quy định của pháp luật gồm biện pháp thu giữ tài sản nên không có căn cứ để thu giữ tài sản bảo đảm theo Nghị quyết 42 của Quốc hội.

2.Về sự phối hợp của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn trong công tác thu giữ tài sản bảo đảm theo Nghị quyết 42 của Quốc hội.

Khoản 5 Điều 7 Nghị quyết 42 quy định như sau:

Chính quyền địa phương các cấp và cơ quan Công an nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện việc bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm theo đề nghị của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu. Trường hợp bên bảo đảm không hợp tác hoặc không có mặt theo thông báo của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu, đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm tham gia chứng kiến và ký biên bản thu giữ tài sản bảo đảm “.

Tuy nhiên thực tế vẫn còn một số Ủy ban nhân dân nơi có tài sản thu giữ chưa thật sự phối hợp, tạo điều kiện cho Tổ chức tín dụng thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Nghị quyết 42 của Quốc hội. Biểu hiện của sự không hợp tác, gây khó khăn thể hiện dưới các hình thức sau:

3.Về việc chiếm giữ tài sản bảo đảm khi thu giữ

Bên bảo đảm luôn tìm mọi cách để cản trở Tổ chức tín dụng trong việc thu giữ tài sản, biểu hiện của sự chống đối thể hiện dưới các hành vi sau:

– Sử dụng người già, trẻ em, người có công với cách mạng chiếm giữ tài sản bảo đảm, không ra khỏi tài sản bảo đảm theo yêu cầu của Tổ chức tín dụng;

Theo quy định của Nghị quyết 42 thì lực lượng Công an chỉ có trách nhiệm đảm bảo an ninh trât tự trong khi thu giữ tài sản. Như vậy đối với trường hợp bên bảo đảm không gây mất trật tự, an ninh thì lực lượng Công an cũng không thể buộc bên bảo đảm hay các đôi tượng bên bảo đảm sử dụng để chiếm giữ tài sản phải ra khỏi tài sản theo yêu cầu của Tổ chức tín dụng.

Trong trường hợp này các Tổ chức tín dụng có cách xử lý khác nhau: Có Tổ chức tín dụng dừng việc thu giữ vì đánh giá là không thu được tài sản và chuyển biện pháp khởi kiện khách hàng vay vốn, bên bảo đảm ra Tòa án để phát mại tài sản bảo đảm. Ngược lại có Tổ chức tín dụng thực hiện quyền của bên nhận thế chấp tài sản theo thỏa thuận tại Hợp đồng bảo đảm ‘ yêu cầu bên bảo đảm giao tài sản để xử lý vì bên bảo đảm không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình như thoả thuận tại Hợp đồng bảo đảm”. Tổ chức tín dụng thuê lực lượng bảo vệ chiếm giữ tài sản theo hình thức đưa người vào cùng ăn, cùng ở với bên bảo đảm, dùng lời nói, hành vi gây áp lực với bên bảo đảm buộc họ phải ra khỏi tài sản hoặc nộp tiền trả nợ. Tuy nhiên hình thưc này có thể gây rủi ro cho Tổ chức tín dụng khi lực lượng bảo vệ có hành vi trái quy định pháp luật (khóa cửa, nhốt bên bảo đảm không cho ra khỏi tài sản, gây mất trật tự trị an…). Những hành vi này có dấu hiệu tội ” Xâm phạm chỗ ở của người khác” và ” Bắt giữ người trái pháp luật ” và có thể bị xử lý hình sự.

Theo quan điểm của chúng tôi việc Tổ chức tín dụng sử dụng lực lượng bảo vệ thực hiện quyền chiếm giữ tài sản bảo đảm chỉ có thể thực hiện dược khi bên bảo đảm đồng ý bàn giao tài sản cho Tổ chức tín dụng. Trường hợp Tổ chức tín dụng đã yêu cầu bên bảo đảm bàn giao tài sản (theo quy định tại Điều 301 Bộ luật Dân sự năm 2015 và thỏa thuận tại Hợp đồng bảo đảm) mà bên bảo đảm không thực hiện và Tổ chức tín dụng đã thực hiện việc thu giữ tài sản theo Nghị quyết 42 của Quốc hội nhưng chưa chiếm giữ được tài sản thì Tổ chức tín dụng buộc phải khởi kiện ra Tòa án theo quy định tại Điều 301 Bộ luật Dân sự năm 2015 bởi lẽ:

+ Nghị quyết 42 của Quốc hội cho phép các Tổ chức tín dụng được quyền thu giữ tài sản bảo đảm, nhưng không có quy định nào cho phép Tổ chức tín dụng được quyền cưỡng chế buộc bên bảo đảm bàn giao tài sản bảo đảm đối với trường hợp bên bảo đảm không ra khỏi tài sản khi được yêu cầu.

Đối chiếu với quy định nêu trên thì mọi hành vi đưa người vào chiếm giữ tài sản bảo đảm bằng hình thức khóa cửa, hành hung chủ tài sản, gây mất trật tự tại tài sản với mục đích ép chủ tài sản phải ra khỏi tài sản bảo đảm đều là hành vi vi phạm quy định của Bộ luật Hình sự và sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.

3.Về việc di chuyển tài sản của bên bảo đảm sau khi thu giữ

Thực tế thu giữ tài sản cho thấy có một số trường hợp tài sản trống (bên bảo đảm bỏ tài sản) nhưng bên trong tài sản bảo đảm có nhiều tài sản của bên bảo đảm nhưng không thuộc tài sản thế chấp (giường, tủ, két sắt, bàn làm việc, bàn thờ…) khi Tổ chức tín dụng tiến hành thu giữ tài sản cần phải xử lý đối với các tài sản này để đảm bảo việc bàn giao tài sản cho người trúng đấu giá.

Hầu hết các Tổ chức tín dụng đều thuê Thừa phát lại và chính quyền kiểm đếm và chứng kiến kiểm đếm niêm phong các tài sản của bên bảo đảm, sau đó thông báo cho bên bảo đảm về việc di chuyển tài sản này ra khỏi tài sản bảo đảm trong thời gian nhất định (ví dụ 30 ngày kể từ ngày Tổ chức tín dụng thông báo). Sau thời hạn nêu trên nếu bên bảo đảm không di dời tài sản thì Tổ chức tín dụng sẽ thuê địa điểm và tiến hành di chuyển tài sản về địa điểm trông giữ mà Tổ chức tín dụng đã chuẩn bị. Việc di chuyển tài sản của bên bảo đảm trong nhiều trường hợp mất rất nhiều chi phí đặc biệt bảo quản các tài sản là chất lỏng, chất dễ cháy…

Để việc thu giữ tài sản bảo đảm theo Nghị quyết 42 của Quốc hội được hiệu quả đẩy nhanh quá trình xử lý thu hồi các khoản nợ xấu chúng tôi kiến nghị cần sửa đổi, bổ sung Nghị quyết 42 như sau:

Đối với điều kiện thu giữ tài sản: Nghị quyết 42 cần sửa đổi quy định tại điểm b khoản 1 Điều 7 theo hướng Tổ chức tín dụngđược quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi đáp ứng các quy định tại Điều 7 của Nghị quyết này, tuy nhiên sửa đổi cụm từ ” tại Hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về thu giữ tài sản bảo đảm” thành “có thỏa thuận về việc thu giữ tài sản bảo đảm bằng văn bản ” giữa Tổ chức tín dụng với Bên bảo đảm.

Về tổ chức thu giữ tài sản: Nghị quyết 42 cần quy định rõ Tổ chức tín dụng sau khi tiến hành đầy đủ thủ tục thu giữ tài sản bảo đảm và đã tiến hành thu giữ nhưng chưa chiếm giữ và quản lý tài sản bảo đảm do bên bảo đảm không ra khỏi tài sản bảo đảm thì phải khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền để phát mại tài sản bảo đảm thu hồi nợ cho Tổ chức tín dụng.

“Có Nghị Quyết 42 Vẫn Khó Thu Giữ Tài Sản Đảm Bảo”

Phó Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình triển khai xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 của Quốc hội cũng còn một số khó khăn nhất định. Một số bộ, ngành chưa ban hành kịp thời các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn Nghị quyết 42 nên chưa có sự triển khai đồng bộ cũng như phối hợp từ các ngành, các cấp.

Các ngân hàng vẫn đang gặp khó khăn trong việc thu giữ tài sản do khách hàng thiếu hợp tác hoặc sự phản kháng của bên bảo đảm, bên vay. Một số cơ quan chức năng ở nhiều nơi chưa phối hợp, chưa tham gia cùng ngân hàng vì chưa có hướng dẫn để phân công trách nhiệm”, Phó thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết.

Bà Nguyễn Thị Hồng, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (Ảnh: Minh Huệ)

Ngay cả, nợ xấu cho vay trong lĩnh vực bất động sản khó xử lý do việc trả nợ phụ thuộc vào việc xử lý tài sản bảo đảm. Hiện nay, mặc dù đã có Nghị quyết 42 nhưng việc xử lý tài sản bảo đảm tại ngân hàng vẫn còn gặp nhiều khó khăn.

Ví dụ, khách hàng thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng hợp tác đầu tư với chủ đầu tư để thực hiện dự án bất động sản không phải trực tiếp là chủ dự án.

„Trong khi đó, dự án lại chưa được hoàn thiện nên ngân hàng không thể áp dụng biện pháp thu giữ tài sản để xử lý. Việc xử lý phải thông qua biện pháp khởi kiện, trong trường hợp có bản án thì việc thi hành án để phát mại tài sản là quyền tài sản cũng khó khăn”, bà Hồng cho phân tích.

Một ví dụ khác, khách hàng thế chấp dự án đầu tư, tuy nhiên các dự án đầu tư chưa đầy đủ hồ sơ pháp lý, không đủ điều kiện để áp dụng Điều 10 của Nghị quyết 42 về xử lý tài sản bảo đảm là dự án bất động sản.

Đối với các tài sản bảo đảm không đủ điều kiện áp dụng biện pháp thu giữ, bán nợ hoặc áp dụng thủ tục rút gọn thì ngân hàng buộc phải khởi kiện theo trình tự thông thường. Tuy nhiên, việc này mất rất nhiều thời gian.

„Việc xử lý vụ án, xử lý tài sản thường mất nhiều thời gian, đặc biệt khi các vụ án có nhiều tính tiết phát sinh mới hoặc một trong các bên tuyên bố phá sản… Do đó, các tổ chức tín dụng khó dự báo được kế hoạch, tiến độ xử lý các khoản nợ xấu để đưa vào phương án cơ cấu lại và xử lý nợ xấu”, bà Hồng cho biết thêm.

Bên cạnh đó, điều kiện tài sản đảm bảo được xử lý phải không là tài sản tranh chấp nhưng cho đến nay chưa có hướng dẫn thế nào là tài sản đang tranh chấp. Điều này dẫn đến cách hiểu về tài sản tranh chấp giữa các cơ quan tố tụng tại nhiều nơi, nhiều cấp khác nhau, gây khó khăn khi xử lý tài sản theo Nghị quyết 42.

Để đẩy nhanh tiến trình xử lý nợ xấu, Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng đã yêu cầu các đơn vị thuộc NHNN tập trung chỉ đạo các tổ chức tín dụng triển khai hiệu quả Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020”.

Theo dõi, giám sát chặt chẽ tiến độ, kết quả thực hiện phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu đến năm 2020 của các tổ chức tín dụng; đặc biệt là việc thực hiện các giải pháp về nâng cao năng lực tài chính, chất lượng tín dụng, chuyển đổi mô hình kinh doanh, quản trị, điều hành, nâng cao năng lực cạnh tranh và các giải pháp về xử lý nợ xấu, nhất là các giải pháp theo Nghị quyết 42.

Các TCTD tổ chức triển khai quyết liệt, có hiệu quả các nội dung, giải pháp tại phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu đến năm 2020 đã được phê duyệt, đảm bảo theo đúng lộ trình đề ra.

Xây dựng kế hoạch và đẩy mạnh việc triển khai áp dụng chuẩn mực vốn Basel II, các nguyên tắc quản trị rủi ro theo thông lệ, chuẩn mực quốc tế đi đôi với việc đẩy mạnh triển khai ứng dụng công nghệ thông tin; tăng cường tính minh bạch, công khai trong hoạt động.

Tổ chức triển khai áp dụng toàn diện các biện pháp quy định tại Nghị quyết số 42 để đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu, bảo đảm thực hiện mục tiêu xử lý nợ xấu theo phương án đã được phê duyệt.

Theo báo cáo đánh giá sơ bộ bước đầu của NHNN, ước tính đến ngày 31.12/.2017 xử lý được khoảng trên 50 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42. Trong đó, riêng 6 tổ chức tín dụng được lựa chọn tập trung chỉ đạo xử lý nợ xấu, gồm Agribank, BIDV, VietinBank, ACB, Sacombank, Techcombank tính đến 30.11.2017 đã được xử lý là 20,44 nghìn tỷ đồng, bằng 51,3% nợ xấu được xử lý toàn hệ thống.​