Xung Đột Pháp Luật Là Gì / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Quy Phạm Xung Đột Là Gì

Quy phạm xung đột là quy phạm ấn định luật pháp nước nào cần áp dụng để giải quyết các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài mỗi khi có sự kiện pháp lý phát sinh cụ thể.

1. Đặc điểm quy phạm xung đột

Quy phạm xung đột sẽ không đưa ra các chế tài hay phương án để giải quyết các sự việc, mà nó chỉ là một kênh luật trung gian, chỉ định, chọn lựa luật pháp của một nước cụ thể giải quyết nên cấu trúc khá phức tạp, mang tính trừu tượng cao.

Tính điều chỉnh gián tiếp thể hiện ở chỗ quy phạm xung đột sẽ làm nhiệm vụ dẫn chiếu để tìm ra phương án giải quyết các quan hệ phát sinh.

Ví dụ về một quy phạm xung đột:

Khoản 1 Điều 766 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản, nội dung quyền sở hữu tài sản được xác định theo pháp luật của nước có tài sản”. Như vậy, xác định được tài sản ở nước nào sẽ áp dụng pháp luật nước đó.

2. Cấu trúc của một quy phạm xung đột

Phần phạm vi: là phần quy định quy phạm xung đột này được áp dụng cho loại quan hệ nào: đất đai, hôn nhân, thương mại, thừa kế,…

Phần hệ thuộc: là phần chỉ ra luật pháp nước nào sẽ được áp dụng để giải quyết quan hệ ở phần phạm vi.

Ví dụ: Điều 126 Luật Hôn nhân gia đình năm 2015: Trong việc kết hôn (phần phạm vi) giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, mỗi bên sẽ tuân theo pháp luật nước mình (phần hệ thuộc) và kết hôn.

3. Phân loại quy phạm xung đột

Quy phạm xung đột một bên: Đây là quy phạm chỉ ra quan hệ dân sự này chỉ áp dụng luật pháp của một nước cụ thể.

Quy phạm xung đột hai bên (hai chiều) đây là những quy phạm đề ra nguyên tắc chung để cơ quan tư pháp có thẩm quyền lựa chọn áp dụng luật của một nước nào đó để điều chỉnh đối với quan hệ tương ứng.

Ví dụ: Khoản 2 Điều 766 BLDS quy định: “Quyền sở hữu đối với động sản trên đường vận chuyển được xác định theo pháp luật của nước nơi có động sản được chuyển đến”.

Xung Đột Pháp Luật Về Hợp Đồng Thương Mại Quốc Tế

Posted on by Civillawinfor

VSM

Sự phát triển kinh tế kéo theo sự không ngừng bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật quốc gia cũng như quốc tế. Các nước luôn mong muốn xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất, tiến bộ và ngày càng xích lại gần nhau hơn. Tuy nhiên, bản chất của pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được đề lên thành luật do điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội quyết định đã không cho phép các quốc gia dễ dàng làm được điều đó. Sự ảnh hưởng của các tư tưởng đạo đức, văn hóa, phong tục tập quán và đặc biệt là sự phát triển không đồng đều đã tạo nên sự khác biệt trong cách tư duy của các nhà lập pháp của các quốc gia khác nhau. Xung đột pháp luật là hệ quả tất yếu của sự khác nhau về tư duy đó.

Vậy xung đột pháp luật là gì? Xung đột pháp luật về hợp đồng thương mại quốc tế được biểu hiện như thế nào và làm sao để giải quyết được những xung đột pháp luật đó? Đó là những vấn đề mà bài viết này đề cập tới, mong được sự góp ý, trao đổi của các bạn.

1. Xung đột pháp luật – một hiện tượng Xung đột pháp luật là hiện tượng phổ biến trong tư pháp quốc tế (là ngành luật điều chỉnh các mối quan hệ dân sự theo nghĩa rộng (dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động…) giữa công dân và pháp nhân của các quốc gia với nhau).

Khi tham gia vào tư pháp quốc tế, luật pháp của các quốc gia khác nhau thường có cách hiểu không giống nhau về cùng một vấn đề. Ví dụ: Một nam công dân Việt Nam muốn kết hôn với một nu công dân Anh. Lúc này, những vấn đề cần giải quyết là luật pháp nước nào sẽ điều chỉnh quan hệ hôn nhân này hay nói chính xác hơn là họ sẽ tiến hành các thủ tục kết hôn theo luật nước nào. Câu trả lời là hoặc luật của Anh hoặc luật của Việt Nam. Giả sử, hai công dân này đều thỏa mãn các điều kiện về kết hôn của pháp luật Anh và Việt Nam, lúc đó, vấn đề chọn luật nước nào không còn quan trọng. Bởi vì, luật nào thì họ cũng được phép kết hôn. Nhưng, nếu nam công dân Việt Nam mới chỉ 19 tuổi, nu công dân Anh 17 tuổi thì theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình của Việt Nam, cả hai đều chưa đủ độ tuổi kết hôn (Điều 9, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định độ tuổi kết hôn với nam – 20 tuổi, nữ – 18 tuổi). Trong khi đó, luật hôn nhân của Anh thì quy định độ tuổi được phép kết hôn đối với nam và nữ là 16 tuổi. Như vậy, đều về độ tuổi được phép kết hôn nhưng pháp luật của cả hai quốc gia đều hiểu không giống nhau. Đấy chính là xung đột pháp luật.

Từ đó, có thể hiểu, xung đột pháp luật là hiện tượng hệ thống pháp luật của hai hay nhiều nước khác nhau cùng có thể tham gia để điều chỉnh một quan hệ dân sự theo nghĩa rộng nhưng lại có cách hiểu, cách quy định không giống nhau và cơ quan có thẩm quyền lựa chọn luật phải chọn 1 trong các hệ thống pháp luật đó.

Rõ ràng, không phải lúc nào cũng có xung đột pháp luật, xung đột pháp luật chỉ là hiện tượng, tức là chỉ xuất hiện khi một quan hệ pháp luật cụ thể phát sinh và pháp luật của các quốc gia đều có thể tham gia điều chỉnh cho quan hệ đó nhưng lại có cách hiểu không giống nhau. Nguyên nhân của sự xung đột pháp luật thì có nhiều nhưng chủ yếu là do: (1) không có quy phạm pháp luật thực chất thống nhất; (2) nội dung pháp luật của các quốc gia khác nhau.

Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, trong lĩnh vực hành chính và hình sự thì không có hiệu tượng xung đột pháp luật. Vì hai ngành luật này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nguyên tắc lãnh thổ, tức là nó chỉ có tác động đối với những hành vi xảy ra trong phạm vi lãnh thổ, chứ không vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ, trừ một số trường hợp nhất định.

2. Xung đột pháp luật về hợp đồng thương mại quốc tế. Hợp đồng thương mại quốc tế là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ thương mại quốc tế. Hợp đồng thương mại quốc tế có rất nhiều loại, chẳng hạn hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hợp đồng cung ứng dịch vụ, hợp đồng chuyên giao công nghệ…(vấn đề về hợp đồng hy vọng sẽ trinh bày vào một dịp khác).

3. Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng thương mại quốc tế

Ở đây, cần nhấn mạnh rằng, sở dĩ có xung đột về hợp đồng thương mại quốc tế là do khi giao kết hợp đồng, các bên tham gia giao kết đã không dự liệu trước luật nào sẽ áp dụng cho hợp đồng. Đấy là cách hữu hiệu để không dẫn đến xung đột pháp luật. Tuy nhiên, nếu vì lý do nào đó, các bên tham gia giao kết hợp đồng không thỏa thuận, không quy định trong hợp đồng sẽ áp dụng luật nào thì khi có tranh chấp xảy ra, không biết dẫn chiếu luật pháp nước nào (nước người mua, người bán hay người thứ ba), xung đột pháp luật có thể xảy ra nếu quốc gia của 2 chủ thể ký kết hợp đồng này chưa tham gia điều ước quốc tế nào trực tiếp điều chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế.

Lúc đó, việc giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng thương mại quốc tế, có thể sử dụng những gợi ý sau:

Nếu xung đột về hình thức của hợp đồng thì cơ quan có thẩm quyền lựa chọn luật (Tòa án hoặc Trọng tài) sẽ áp dụng luật nơi giao kết hợp đồng. Tức là hợp đồng được giao kết ở đâu thì lấy luật nơi đó điều chỉnh hợp đồng.

Nếu xung đột về nội dung hợp đồng – luật nước người bán, luật nới thực hiện nghĩa vụ, luật lựa chọn…

Nếu xung đột về địa vị pháp lý của các bên ký kết hợp đồng – luật quốc tịch, luật nơi cư trú.

Xung Đột Pháp Luật Trong Hợp Đồng Thương Mại Quốc Tế (2)

Posted on by Civillawinfor

1) Xung đột trong hợp đồng thương mại: Xung đột trong hợp đồng thương mại xảy ra khi một trong các bên tham gia ký kết hợp đồng không thực hiện đúng và đủ các nghĩa vụ đã qui định trong hợp đồng, ví dụ: giao hàng sai qui cách, giao hàng chậm, nhận hàng không trả tiền. Bên kia không chịu. Hai phía đôi co, lời qua tiếng lại dẫn tới xung đột. Thông thường khi xảy ra xung đột có một vài phương pháp giải quyết:

– Đầu tiên là hòa giải. Tốt nhất là hai bên ngồi lại nói phải trái với nhau, vừa rẻ vừa đỡ phải dính vào kiện tụng. Cái này thường có ghi ở phần cuối của hợp đồng.

– Nếu hòa giải bất thành, thì hoặc là đem nhau ra tòa, hoặc ra trọng tài kinh tế. Tòa án có sức mạnh của pháp luật và là phán quyết cuối cùng. Nhưng trong nhiều trường hợp cũng đưa nhau ra trọng tài, lý do là vì: không phải đụng chạm đến pháp luật, để giữ chữ tín hai bên cũng cần tôn trọng phán quyết của trọng tài, cuối cùng nếu trọng tài phán vẫn không chấp nhận được thì mới đem nhau ra công đường.

2) Yếu tố quốc tế: Ngay hợp đồng và giao dịch thương mại nội địa đã dễ có xung đột rồi, huống hồ lại dính đến cái vấn đề quốc tế ở đây.

Yếu tố quốc tế xuất hiện khi:

– Các bên tham gia ký kết hợp đồng (pháp nhân hay thể nhân) có quốc tịch khác nhau; ví dụ: DN Việt Nam ký hợp đồng xuất khẩu với DN Trung Quốc

– Hàng hóa hay dịch vụ là đối tượng của hợp đồng nằm ngoài lãnh thổ của một trong hai bên tham gia ký kết hợp đồng; ví dụ: hai đối tác Việt Nam nhưng lại mua bán một cái nhà bên Mỹ.

– Đồng tiền thanh toán là đồng ngoại tệ đối với một trong hai bên tham gia ký kết hợp đồng; hai đối tác Việt Nam thanh toán với nhau bằng tiền Cămpuchia.

3) Dẫn chiếu pháp luật: Chính vì có yếu tố quốc tế nên đòi hỏi phải dẫn chiếu pháp luật khi có xung đột.

Ví dụ như Luật VN qui định nhà nhập khẩu phải thanh toán sau 60 ngày kể từ ngày nhận hàng nhưng Luật Mỹ lại qui định nhà nhập khẩu phải thanh toán sau 60 ngày kể từ ngày bán hết hàng nhập khẩu. Ở đây, nếu khi ký kết hợp đồng hai bên không làm chặt chẽ ngay từ đầu thì sẽ dẫn đến tranh chấp vì anh xuất khẩu (giả sử là VN) cứ đòi thanh toán trong khi anh nhập khẩu (Mỹ) lại bảo là từ từ đợi tớ bán xong đã. Lúc đó sẽ phải dẫn chiếu luật Mỹ hoặc luật VN xem ai sai ai đúng.

Một số nguyên tắc về việc dẫn chiếu:

– Qui định rõ luật dẫn chiếu trong trường hợp có xung đột ngay trong hợp đồng, lúc đó thì “NO TABLE” (KHÔNG BÀN), cứ theo hợp đồng mà luận.

– Áp dụng luật dẫn chiếu là luật tại nơi ký kết hợp đồng,

– Áp dụng luật dẫn chiếu là luật của một nước thứ ba;

– Áp dụng luật dẫn chiếu là luật nơi có trụ sở chính của một trong hai bên tham gia ký kết hợp đồng.

Nguyên Nhân Và Phạm Vi Có Xung Đột Pháp Luật Trong Tư Pháp Quốc Tế

Nguyên nhân và phạm vi có xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế: sẽ bao gồm nguyên nhân khách quan và nguyên nhân của quan, phạm vi có xung đột pháp ….

NGUYÊN NHÂN VÀ PHẠM VI CÓ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

I. NGUYÊN NHÂN VÀ PHẠM VI CÓ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT

1.1. Khái niệm xung đột pháp luật

Trước khi tìm hiểu nguyên nhân và phạm vi có xung đột pháp luật, ta tìm hiểu như thế nào là xung đột pháp luật. Hiện nay, hiểu một cách chung nhất “xung đột pháp luật là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài (quan hệ tư pháp quốc tế).”

Như vậy theo khái niệm trên, xung đột pháp luật không được hiểu là sự xung khắc hay sự khác biệt giữa hệ thống pháp luật, đó là một hiện tượng riêng có, hiện tượng đặc thù của tư pháp quốc tế, sẽ xuất hiện khi có hai hệ thống pháp luật hoặc nhiều hệ thống pháp luật cũng có thể điều chỉnh một quan hệ tư pháp quốc tế.

1.2. Nguyên nhân của hiện tượng xung đột pháp luật

Như vậy, xung đột pháp luật là hiện tượng đặc thù của tư pháp quốc tế, nó xuất phát do hai nhóm nguyên nhân:

Thứ nhất, do pháp luật các nước có sự khác nhau

Pháp luật do nhà nước xây dựng nên, phù hợp với các điều kiện chính trị, xã hội… của nước mình. Vì vậy, có rất nhiều yếu tố làm cho pháp luật của các nước trên thế giới không giống nhau, đó có thể là:

Do nguyên nhân chính trị, kinh tế, xã hội: Các quốc gia đều tồn tại dựa trên một nền tảng kinh tế nhất định với một chế độ sở hữu tương ứng. Mà chế độ sở hữu là một bộ phận của cơ sở hạ tầng, có mối quan hệ biện chứng với kiến trúc thượng tầng trong đó pháp luật là một cấu thành quan trọng. Vì vậy, dựa trên một chế độ sở hữu nhất định thì pháp luật cũng được hình thành để phản ứng một cách phù hợp và tương xứng.

Sự khác nhau giữa hệ thống pháp luật các nước còn có thể từ các nguyên nhân khác như tập quán, truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo, bởi cách giải thích pháp luật khác nhau, áp dụng pháp luật khác nhau và hơn nữa là trình độ phát triển ở các nước là không đồng đều…

Do sự khác biệt giữa các nước về kinh tế, chính trị, xã hội: theo quan điểm của triết học Mác – Lenin, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng có sự tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Do đó, đối với mỗi quốc gia sự phát triển kinh tế là khác nhau chính vì vậy dẫn đến các yếu tố về hệ thống pháp luật, chính trị là khác nhau; các nước đều có những quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo… là khác nhau do đó cũng có sự khác biệt trong sự vận động của nền kinh tế. Nếu nền kinh tế phát triển kéo theo cả một hệ thống pháp luật được xây dựng hoàn thiện, phát triển và ngược lại nếu nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển thì hệ thống pháp luật cũng có những yếu kém, hạn chế nhất định. sự dung hòa trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ tư pháp quốc tế có thể được giải quyết nếu các nước có sự phát triển tương đương về mặt kinh tế, xã hội. Chính những sự khác biệt về kinh tế, chính trị, xã hội đã tạo ra một rào cản trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết chung một vấn đề phát sinh giữa các nước.

Như vậy, nếu pháp luật các nước không có sự khác nhau thì không có hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật cũng có thể điều chỉnh quan hệ.

Thứ hai, do quan hệ tư pháp quốc tế luôn có yếu tố nước ngoài

1.2.2. Nguyên nhân chủ quan

Nguyên nhân chủ quan là do có sự thừa nhận khả năng áp dụng pháp luật nước ngoài của nhà nước . Thực tế có những quan hệ pháp luật nảy sinh, mặc dù hệ thống pháp luật của các nước là khác nhau, cũng có sự xuất hiện của yếu tố nước ngoài tức là thỏa mãn hai điều kiện của nguyên nhân khách quan nói trên, nhưng vẫn không có xung đột pháp luật. Đó là những quan hệ trong lĩnh vực công như hình sự, hành chính, dù có yếu tố nước ngoài nhưng không xảy ra hiện tượng xung đột pháp luật. Sỡ dĩ như vậy do đây là những quan hệ trong lĩnh vực công, việc áp dụng pháp luật nước ngoài có thể gây mất ổn định của an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, có thể đánh mất đi những giá trị cốt lõi, nền tảng của chính mình. Nói một cách khác, nếu thừa nhận có xung đột pháp luật trong lĩnh vực công thì đồng nghĩa với việc có thể chấp nhận pháp luật nước ngoài, và điều đó là một điều hết sức lý và không thực tiễn không chỉ đối với Việt Nam mà với tất cả các nước.

Như vậy, lý do khách quan là tiền đề quan trọng để xuất hiện hiện tượng xung đột pháp luật, lý do chủ quan là lý do quyết định có tồn tại quan hệ xung đột pháp luật hay không. Nếu lý do khách quan được đáp ứng, quan hệ lại rơi vào nhóm được nhà nước thừa nhận có thể áp dụng pháp luật nước ngoài thì xung đột pháp luật nảy sinh quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Nếu lý do khách quan thỏa mãn nhưng lại không có sự đồng ý cho áp dụng pháp luật nước ngoài trong loại quan hệ đó thì hiện tượng xung đột pháp luật cũng không thể nảy sinh như các quan hệ trong lĩnh vực luật công có yếu tố nước ngoài.

Ví dụ: Ông K là công dân Việt Nam sinh sống tại thành phố B của Bungari từ năm 1990. Đến năm 2008 ông K bị chết đột ngột và có để lại một số tài sản bao gồm: 1 ngôi nhà ở thành phố H của Việt Nam, 1 ngôi nhà tại thành phố B của Bungari và một số tiền tại nhà băng của Bungari. Như vậy trong trường hợp này hệ thống pháp luật của hai nước là Việt Nam và Bungari đều có thể được áp dụng để giải quyết quan hệ này do nội dung quan hệ đều có mối quan hệ với hai nước Việt Nam và Bungari. Vậy pháp luật nước nào sẽ được áp dụng để tòa án giải quyết vụ việc này? Hiện tượng này được gọi là xung đột pháp luật.

1.3. Phạm vị có xung đột pháp luật

Như đã trình bày ở trên, các quan hệ tư pháp quốc tế phát sinh mà hầu hết trong số đó sẽ làm phát sinh hiện tượng đặc thù của ngành luật là hiện tượng xung đột pháp luật. Tuy nhiên, một câu hỏi đặt ra là xung đột pháp luật xuất hiện trong phạm vi nào, trong tất cả các quan hệ tư pháp quốc tế hay có ngoại lệ nào không ?

Điều 678. BLDS 2015 quy định về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản như sau:

” 1. Việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

2. Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản là động sản trên đường vận chuyển được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản được chuyển đến, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

Như vậy, về nguyên tắc việc xác lập quyền của tài sản sẽ được xác lập nơi pháp luật có tài sản, tuy nhiên quyền sở hữu trí tuệ lại có ngoại lệ.

Điều 679. Quyền sở hữu trí tuệ BLDS 2015 quy định:

” Quyền sở hữu trí tuệ được xác định theo pháp luật của nước nơi đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được yêu cầu bảo hộ.”

II. QUAN ĐIỂM CÁ NHÂN VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ PHẠM VI CÓ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT

2.1. Quan điểm về nguyên nhân có hiện tượng xung đột pháp luật

Thứ hai, nguyên nhân mang tính khách quan xuất phát từ tính đa dạng, phong phú của các hệ thống pháp luật hiện nay trên thế giới. Thực tế, hiện nay trên thế giới có bao nhiêu quốc gia thì có bấy nhiêu hệ thống pháp luật khác nhau. Điều này dẫn đến hệ quả là việc áp dụng các hệ thống pháp luật khác nhau để giải quyết một quan hệ tư pháp quốc tế có thể dẫn đến các hệ quả pháp lý khác nhau.

Như vậy, có thể thấy quan điểm về nguyên nhân xuất hiện xung đột pháp luật của Ths Bùi Thị Thu cũng khá đơn giản và có phần khái quát cao.

Xét trên quan điểm cá nhân, bản thân em có một số nhận xét, ý kiến về nguyên nhân dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật như sau:

Thứ nhất, cá nhân em cho rằng trong hai nguyên nhân khách quan, chủ quan (như trình bày ở trên) dẫn đến có hiện tượng xung đột pháp luật xảy ra chỉ cần có xuất hiện nhóm nguyên nhân khách quan là có thể đủ để có hiện tượng xung đột pháp luật. Theo em không cần phải có nguyên nhân ” có sự thừa nhận khả năng áp dụng pháp luật nước ngoài của nhà nước” trong việc giải quyết xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế. Sở dĩ như vậy do nếu quốc gia đó đã thừa nhận có một ngành luật mang tên “tư pháp quốc tế”, hay ngành luật có tính chất tương đương như vậy thì cũng ngầm hiểu rằng đó là ngành luật mà đối tượng điều chỉnh của nó bao gồm các quan hệ nội dung có “tính chất dân sự” có yếu tố nước ngoài và các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài. “Yếu tố nước ngoài” là minh chứng khác biệt nhất cho sự khác biệt có thể áp dụng pháp luật nước ngoài giải quyết vụ việc có yếu tố nước ngoài, khác với việc giải quyết pháp luật nội địa. Nói cách khác nếu một quốc gia không thừa nhận có “tư pháp quốc tế” thì không thể áp dụng pháp luật nước ngoài trong giải quyết việc dân sự theo nghĩa rộng, như vậy nếu thừa nhận có “tư pháp quốc tế” tức việc áp dụng pháp luật nước ngoài của nhà nước đương nhiên đã luôn được thừa nhận để giải quyết những vụ việc mà ngành này có đối tượng điều chỉnh. Ở đây, chúng ta đang xét đến đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế là các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, như vậy việc có thể áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết một xung đột có yếu tố nước ngoài là đương nhiên.

Thứ hai, để hoàn thiện hơn về nguyên nhân có xung đột pháp luật theo em có thể bổ sung thêm nguyên nhân ” quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, thương mại và tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài không được điều chỉnh bằng quy phạm thực chất thống nhất.”

Việc xây dựng và hình thành các quy phạm thực chất thống nhất của các quốc gia khác nhau là rất cần thiết, nó làm giảm hoặc thậm chí triệt tiêu sự khác biệt trong luật pháp của các quốc gia và có tính chất đơn giản hóa và hữu hiệu hóa trong điều chỉnh các quan hệ tư pháp quốc tế. Trong những trường hợp nhất định nếu cứ áp dụng luật trong nước để điều chỉnh thì rất khó giải quyết và thậm chí có trường hợp không thể giải quyết nổi, trong khí đó các điều ước quốc tế mà trong đó có các quy phạm thực chất thống nhất, cơ quan có thẩm quyền giải quyết cũng như các bên tham gia quan hệ Tư pháp quốc tế sẽ chiếu theo đó để xem xét và giải quyết thực chất vấn đề trên cơ sở áp dụng ngay các quy phạm đó. Nó cũng loại trừ việc phải chọn luật và áp dụng luật nước ngoài nữa, mà áp dụng ngay các quy phạm điều ước đó.

Có thể nói, quy phạm thực chất đóng vai trò quan trọng trong việc hạn chế những xung đột pháp luật giữa các nước, nó là căn cứ pháp lý chung để các quốc gia làm căn cứ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Chính vì vậy, khi các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, thương mại và tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài không được điều chỉnh bằng quy phạm thực chất sẽ dẫn đến những xung đột pháp luật giữa các quốc gia.

Khách quan để nói luôn có sự khác nhau về nội dung trong pháp luật của các nước; hoặc có sự khác nhau trong việc giải thích và áp dụng những quy định giống nhau về mặt hình thức. Nguyên nhân là do sự phát triển về mặt kinh tế, chính trị, xã hội tạo ra những khác biệt trong quy định của pháp luật các nước, hay nói cách khác chính những sự khác biệt này các quốc gia sẽ phải xây dựng cho mình hệ thống pháp luật phù hợp với những quan hệ đó nhằm điều chỉnh xã hội. Có thể nói, mặc dù cùng điều chỉnh chung một vấn đề nhưng nội dung trong pháp luật của các nước có quy định khác nhau, chính điều này đã tạo nên xung đột pháp luật giữa các nước.

2.2. Quan điểm về phạm vi xung đột pháp luật

Sự hợp tác quốc tế về mọi mặt giữa các quốc gia là hiện thực tất yếu khách quan trong mọi thời đại, nhất là trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa hiện nay. Tìm hiểu về nguyên nhân và phạm vi có xung đột pháp luật góp phần lựa phương pháp giải quyết phù hợp. Việt Nam, một quốc gia đang trên đà phát triển cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Xét về cơ sở lý luận cũng như thực tiễn, tư pháp quốc tế ở các quốc gia khác nhau còn có nhiều sự khác biệt, điều này tạo ra những rào cản, hạn chế sự giao lưu, hợp tác giữa các quốc gia. Do đó, tư pháp quốc tế Việt Nam cần không ngừng củng cố và hoàn thiện hơn nữa, nhất là với việc xây dựng ra một phương pháp giải quyết xung đột pháp luật khách quan, hợp lý.

DANH MỤC TÀI LIỆU KHAM KHẢO

Giáo trình Tư pháp quốc tế, Đại học Luật Hà Nội, nxb Tư pháp, Hà Nội 2017

Bùi Thị Thu, Giáo trình Luật Tư pháp quốc tế, nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội 2010

Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an Nhân dân, năm 2009

Luật Toàn Quốc hy vọng những gì chúng tôi cung cấp nêu trên sẽ giúp cho quý khách hiểu được phần nào quy định của pháp luật về nội dungNguyên nhân và phạm vi có xung đột pháp luật. Còn bất cứ vướng mắc gì quý khách vui lòng liên hệ tới Tổng đài tư vấn luật hôn nhân miễn phí 24/7: 1900 6500 để gặp Luật sư tư vấn trực tiếp và yêu cầu cung cấp dịch vụ hoặc gửi thư về Email: lienhe@luattoanquoc.com.

Xin chân thành cảm ơn sự đồng hành của quý khách.