Phân Tích Ý Nghĩa Văn Bản Chiến Thắng Mtao Mxây (Trích Đăm Săn

Phân tích ý nghĩa văn bản Chiến thắng Mtao Mxây (Trích Đăm Săn – Sử thi Tây Nguyên) Chiến thắng Mtao-Mxây (Trích Đăm Săn – Sử thi Tây Nguyên)

Sử thi là tác phẩm tự sự dân gian, có qui mô lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp, xây dựng hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hung để kể về một hoặc nhiều biến cố lớn diễn ra trong đời sống cộng đồng cư dân thời cổ đại. Sử thi thường kể về sự hình thành thế giới, sự ra đời của muôn loài, sư hình thành các dân tộc và các vùng cư trú cổ đại của họ hoặc kể về cuộc đời và sự nghiệp của các tù trưởng anh hùng. Văn bản Chiến thắng Mtao-Mxây trích trong sử thi Đăm Săn, một sử thi hùng tráng của đồng bào Tây Nguyên

Đăm săn là tác phẩm tiêu biểu cho loại sử thi anh hùng của đồng bào dân tộc Ê-Đê – Tây Nguyên. Tác phẩm tuy kể về cuộc đời của cá nhân người tù trưởng Đăm Săn nhưng qua đó có thể nhận ra hình ảnh của cả cộng đồng thị tộc Êđê trong giai đoạn lịch sử đầy biến động. Ở sử thi anh hùng, số phận của cá nhân anh hùng thống nhất cao độ với số phận của cả dân tộc.

Chiến thắng Mtao – Mxây là một đoạn trích thuộc phần giữa tác phẩm, kể chuyện Đăm Săn đánh thắng tù trưởng Mtao – Mxây và cứu được vợ.

Cảnh chiến đấu và chiến thắng của Đăm Săn:

Đăm săn khiêu chiến với thái đội quyết liệt “Ơ diêng, ơ diêng, xuống đây! Ta thách nhà ngươi đọ dao với ta đấy!“, “Ngươi không xuống ư? Ta sẽ lấy cái sàn hiên của nhà ngươi ta bổ đôi, ta sẽ lấy cái cầu thang của nhà ngươi ta chẻ ra kéo lửa, ta hun cái nhà của nhà ngươi cho mà xem “. Trước sự khiêu chiến và thái đọ của Đăm Săn, Mtao Mxây tỏ ra run sợ “Ta sợ ngươi đâm ta khi ta đang đi lắm”, “dáng tần ngần do dự, mỗi bước đắn đo”

Cuộc chiến kịch liệt giữa Đăm Săn và Mtao-Mxây diễn ra theo 4 hiệp:

Hiệp 1: Trong khi Mtao Mxây múa khiên trước, Đăm Săn vẫn giữ thái độ bình tĩnh, thản nhiên ” Đăm Săn không nhúc nhích”. Mtao Mxây múa tỏ ra kém cỏi “khiên hắn kêu lạch xạch như quả mướp khô” nhưng vẫn nói những lời huênh hoang ” Có cậu ta học cậu. Có bác ta học bác. Có thần Rồng ta học Thần rồng”

Hiệp 2: Đăm Săn múa trước “một lần xốc tới chàng vượt trội một đồi tranh… Chàng chạy vun vút qua phía đông, vun vút qua phía tây”. Trong khi đó, Mtao Mxây “bước cao bước thấp… vung dao chém phập một cái nhưng chỉ trúng cái chão cột trâu”

Hiệp 3: Được tiếp sức từ miếng trầu của Hơ Nhị, sức khỏe Đăm Săn lại tăng lên. Chàng múa giáo và đuổi theo Mtao Mxây. ngọn giáo của chàng “múa trên cao gió như bão. Ba đồi tranh bật rễ bay tung”. Chàng đâm trúng vào người Mtao Mxây nhưng không thủng.

Hiệp 4: Nhờ trời mách bảo, Đăm Săn “chộp ngay cái chày mòn ném trúng vành tau kẻ địch” khiến hắn ngã quay lăn ra đất. Mtao Mxây thất bại thảm hại. Đăm Săn “cắt đầu Mtao Mxây bêu ngoài đường”. Cuộc đọ sức kết thúc.

Qua cảnh chiến đấu và chiến thắng của Đăm Săn ta thấy: Đăm Săn là một vị anh hùng – tù trưởng tài giỏi, dũng cảm, nhân cách lí tưởng, còn Mtao Mxây là tù trưởng hugn ác, hèn nhát, yếu đuối, nhân cách tầm thường. Đăm Săn là biểu tượng cho chính nghĩa và sức mạnh của cộng đồng, còn Mtao Mxây là biểu tượng cho phi nghĩa và cái ác.

Cảnh Đăm Săn thu phục dân làng của Mtao Mxây rồi cùng họ và tôi tớ trở về:

Sau cuộc chiến, Đăm Săn kêu gọi dân làng, tôi tớ của Mtao Mxây đi theo mình “Ơ tất cả tôi tớ bằng này! Các ngươi có đi với ta không?”

Dân làng, tôi tớ của Mtao Mxây hưởng ứng, đem theo của cải đi theo Đăm Săn “Không đi sao được! Tù trưởng của chúng tôi đã chết, lúa chúng tôi đã mục, chúng tôi còn ở với ai?”, “Tôi tớ mang của cải về nhiều như ong đi chuyển nước, như vò vẽ đi chuyển hoa”.

Sự hưởng ứng, tự nguyện mang theo của cải theo Đăm Săn của dân làng và lòng trung thành tuyệt đối với chàng thể hiện sự thống nhất cao độ giữa quyền lợi, khát vọng, của cá nhân người anh hùng sử thi với quyền lợi và khát vọng của cộng đồng. Thể hiện lòng yên mến, tuân phục của tập thể cộng đồng với cá nhân người anh hùng. Đó là sự suy tôn tuyệt đối của cộng đồng với người anh hùng sử thi.

Cảnh ăn mừng Đăm Săn chiến thắng:

Đăm Săn mở lễ ăn mừng chiến thắng linh đình, đông đúc: “nhà Đăm Săn đông nghịt khách, tôi tớ chật ních nhà”. Các tù trưởng xung quanh cùng đến ăn mừng chiến thắng của Đăm Săn như ăn mừng chiến thắng của chính họ.

Nổi bật trong bữa tiệc ăn mùng là hình tượng người anh hùng – tù trưởng huyền thoại Đăm Săn: “Ngực quấn chéo một chiếc mền chiến… Chàng nằm sắp thì gãy rầm sàn, chàng nằm ngửa thì gãy xà dọc”. Nhân vật sử thi Đăm Săn thực sự có tầm vóc lịch sử khi được đặt giữa một bối cảnh rộng lớn của thiên nhiên, xã hội và con người Tây Nguyên.

Văn bản Chiến thắng Mtao Mxây có cách tổ chức ngôn ngữ phù hợp thể loại sử thi. Ngôn ngữ đối thoại được khai thác dưới nhiều góc độ. Sử dụng có hiệu quả lối song hành, đòn bẩy, thủ pháp so sánh, phóng đại, đối lập, tăng tiến… Phép so sánh, phóng đại, liệt kê khiens cho việc miêu tả vừa linh hoạt vừa hết sức sinh động, haaos dẫn.

Đoạn trích Chiến thắng mtao Mxây khẳng định sức mạnh và ngợi ca vẻ đẹp của người anh hùng Đăm Săn – một người trọng danh dự, gắn bó với hạnh phúc gia đình, thiết tha với cuộc sống bình yên, phồn vinh của thị tộc, xứng đáng là người anh hùng tầm vóc sử thi của dân tộc Ê-đê thời cổ đại.

1. Nêu khái niệm sử thi? Có mấy loại sử thi dân gian?

2. Hãy trình bày khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản Chiến thắng Mtao – Mxây.

3. Trong đoạn trích có nhắc đến việc Đăm Săn gặp ông trời, được ông bày cho cách đánh thắng Mtao Mxây. Theo em, vai trò thần linh và vai trò của con người đối với chiến đấu và chiến thắng của Đăm Săn được thể hiện như thế nào?

4. Em hãy đóng vai nhân vật Đăm Săn kể lại văn bản “Chiến thắng Mtao Mxây” từ đầu đến đoạn “…Nói rồi Đăm Săn đâm phập một cái, cắt đầu Mtao Mxây đem bêu đường”

Theo chúng tôi

Đọc Hiểu Văn Bản Chiến Thắng Mtao Mxây

Đọc hiểu văn bản Chiến thắng Mtao Mxây

Gợi dẫn 1. Thể loại Sử thi là một thể loại tự sự, thường được thể hiện bằng thơ, xuất hiện rất sớm trong lịch sử văn học “nhằm ngợi ca sự nghiệp anh hùng có tính toàn dân và có ý nghĩa trọng đại đối với dân tộc trong buổi bình minh của lịch sử.

Về kết cấu, sử thi là một câu chuyện được kể lại có đầu có đuôi với quy mô lớn… Các nhân vật chính của sử thi là những anh hùng, tráng sĩ tiêu biểu cho sức mạnh thể chất và tinh thần, cho ý chí và trí thông minh, lòng dũng cảm của cộng đồng được miêu tả khá tỉ mỉ, đầy đủ từ cách ăn mặc, trang bị, đi đứng đến những trận giao chiến với kẻ thù, những chiến công lừng lẫy và đôi khi cả những nét trong sinh hoạt đời thường của họ nữa, điều đáng chú ý là tất cả những cái này đều được miêu tả trong vẻ đẹp kì diệu khác thường. Sở dĩ như vậy là vì sử thi ra đời vào thời điểm nối tiếp sau thần thoại, tức là từ thế giới của các vị thần bắt đầu chuyển sang thế giới của con người, do đó cái nhìn đậm màu sắc thần kì nói trên đối với các nhân vật trong sử thi là không tránh khỏi…

Trong sử thi, chủ yếu mô tả hành động của nhân vật hơn là những rung động tâm hồn. Nhưng trong những câu chuyện kể, cốt truyện thường được bổ sung thêm những mô tả có tính chất tĩnh tại và những cuộc đối thoại trang trọng có tính nghi thức” ( Theo Lê Bá Hán – Trần Đình Sử,…, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, 2004).

2. Tác phẩm

ở Việt Nam có hai loại sử thi dân gian là sử thi thần thoại và sử thi anh hùng. Sử thi anh hùng miêu tả sự nghiệp và chiến công của người anh hùng trong khung cảnh những sự kiện lớn có ý nghĩa quan trọng đối với toàn thể cộng đồng. Đăm Săn là sử thi anh hùng của người Ê-đê.

Chiến tranh là một trong những đề tài trung tâm của sử thi anh hùng. Đặc điểm này được thể hiện nổi bật trong trích đoạn Chiến thắng Mtao Mxây. Chiến công và sự nghiệp anh hùng của nhân vật trung tâm trong sử thi là niềm tự hào, là lí tưởng xã hội của toàn thể cộng đồng. Hình tượng người anh hùng sử thi có ý nghĩa biểu trưng cao.

Sử thi Đăm Săn là một trong những thiên sử thi nổi tiếng được lưu truyền rộng rãi ở Tây Nguyên. Tác phẩm có bốn phần :

Phần 1 : Theo tục “nối dây” (chuê nuê)(1), Đăm Săn lấy hai chị em Hơ Nhị và Hơ Bhị (chương 1, 2).

Phần 2 : Các tù trưởng Quạ (Mtao Gơrư) và Sắt (Mtao Mxây) độc ác cướp vợ Đăm Săn và tranh giành quyền lực, mưu làm cho bộ tộc Đăm Săn suy sụp. Đăm Săn đã đánh bại hai tù trưởng để bảo vệ hạnh phúc gia đình và cuộc sống ấm no của bộ tộc (chương 3, 4, 5).

Phần 3 : Đăm Săn có khát vọng trở thành một tù trưởng hùng mạnh, vươn tới một cuộc sống phóng khoáng, chàng chặt cây smuk, cây sinh mệnh của dòng họ vợ, chinh phục thiên nhiên, đi bắt Nữ thần Mặt Trời nhưng thất bại (chương 6, 7).

Phần 4 : Đăm Săn chết, Đăm Săn – cháu ra đời lại theo con đường của cậu mình, dấn thân vào cuộc chiến đấu mới (chương 8).

3. Tóm tắt đoạn trích

Đăm Săn đột nhập vào nhà Mtao Mxây và gọi hắn ra thách đấu. Mtao Mxây do dự, được Đăm Săn nhường quyền đánh trư­ớc nhưng đư­ờng khiên của hắn không đâm trúng Đăm Săn. Đến lượt Đăm Săn rung khiên múa vun vút. Chàng đã đâm trúng đùi và ngư­ời Mtao Mxây như­ng đều không thủng. Đăm Săn thấm mệt, vừa chạy vừa ngủ và mộng thấy ông Trời, được ông Trời bày cho cách dùng cái chày mòn ném vào vành tai Mtao Mxây. Mtao Mxây ngã lăn ra đất và bị Đăm Săn cắt đầu bêu ngoài đư­ờng. Chàng kêu gọi tôi tớ, dân làng của Mtao Mxây đi theo mình. Về làng, Đăm Săn mở tiệc ăn mừng linh đình, kéo dài suốt cả mùa khô. Đăm Săn ngày càng hùng mạnh, giàu có, “danh vang đến thần, tiếng lừng khắp núi”.

4. Cách đọc và kể

Thể hiện giọng đọc và kể theo các vai : Đăm Săn, Mtao Mxây, dân làng, tôi tớ và người kể chuyện.

– Giọng Đăm Săn : quyết liệt, hùng tráng.

– Giọng Mtao Mxây : khôn khéo, mềm mỏng.

– Giọng dân làng : tha thiết.

1. Các phương thức nghệ thuật trong tác phẩm sử thi anh hùng đều tập trung tạo nên âm hưởng hùng tráng rất đặc trưng của thể loại sử thi. Dựa vào những sinh hoạt được kể trong sử thi Đăm Săn, có thể đoán bản trường ca xuất hiện từ rất lâu đời. Từ thuở các tù trưởng có đến hàng nghìn nô lệ, hàng nghìn trâu bò, vải sợi phơi đầy sào, thịt trâu, thịt bò treo đầy khắp các nhà rông. ấy là thời mà chế độ nô lệ đang rất thịnh hành ở các vùng rừng núi Tây Nguyên (ước đoán vào khoảng giữa thế kỉ XVII). Sử thi Đăm Săn mang đầy đủ những đặc điểm của một sử thi anh hùng. Thể hiện bức tranh về con người và thiên nhiên hùng vĩ nhưng người kể chuyện không chú trọng nhấn vào miêu tả. Tác phẩm tập trung phản ánh những biến cố “khá dữ dội” trong cuộc sống của đồng bào Ê-đê ; phản ánh những khát vọng lớn lao của họ trong buổi đầu lịch sử. Tư tưởng, tình cảm của nhân dân được gửi gắm trong hình tượng nhân vật Đăm Săn, người anh hùng có sức mạnh phi thường, có phẩm chất cao quý và có những chiến công lừng lẫy.

Có thể chia đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây thành 4 phần :

– Phần một (từ đầu cho đến Ngươi cứ múa đi, ơ diêng !) : Đăm Săn thách đấu Mtao Mxây.

– Phần hai (Từ Mtao Mxây rung khiên múa vậy cho đến … cắt đầu Mtao Mxây đem bêu ngoài đường) : Cuộc giao đấu giữa Đăm Săn và Mtao Mxây (gồm hai hiệp, ranh giới giữa hai hiệp đấu là đoạn Đến lúc này, Mtao Mxây bảo Hơ Nhị…).

– Phần ba (từ Đăm Săn (nói với tôi tớ Mtao Mxây) cho đến Chúng ta ra về nào !) : Đăm Săn kêu gọi dân làng và tôi tớ của Mtao Mxây đi theo mình.

– Phần bốn (còn lại) : Đăm Săn cùng dân làng làm lễ cúng thần linh và ăn mừng chiến thắng.

2. Các nhân vật tham gia vào các sự kiện và thực hiện các hành động trong câu chuyện là Đăm Săn, Mtao Mxây, Hơ Nhị – vợ của Đăm Săn, ông Trời, dân làng, tôi tớ của Đăm Săn và của Mtao Mxây. Mỗi nhân vật đều có vai trò nhất định đối với quá trình diễn biến của các sự kiện. Chẳng hạn : Đăm Săn là nhân vật trung tâm, chi phối toàn bộ diễn biến của cốt truyện ; Mtao Mxây – nguyên nhân của cuộc xung đột (cướp vợ Đăm Săn), là đối thủ của nhân vật trung tâm ; Hơ Nhị và ông Trời : giúp sức, trợ lực cho Đăm Săn, thúc đẩy cốt truyện diễn biến đến chiến thắng của Đăm Săn. Bên cạnh đó có nhân vật quần chúng làm hậu thuẫn cho nhân vật trung tâm, thể hiện thái độ và sức mạnh lí tưởng của quần chúng – cộng đồng hiện thân ở người anh hùng sử thi.

3. Cuộc chiến đấu của Đăm Săn tuy có mục đích riêng là giành lại vợ, nhưng lại có ý nghĩa và tầm quan trọng đối với lợi ích của toàn thể cộng đồng. Điều này được thể hiện qua lời nói và hành động của các nhân vật. Về lời nói : Đăm Săn kêu gọi tôi tớ của Mtao Mxây đi theo mình sau khi đã đánh thắng tù trưởng của họ, nói với dân làng và tôi tớ làm lễ cúng thần linh, ăn mừng chiến thắng.Về hành động, chi tiết miêu tả các nhân vật : Tôi tớ và dân làng của Mtao Mxây tự nguyện đi theo Đăm Săn ; cảnh dân làng ăn mừng chiến thắng,…

4. Đoạn trích thể hiện khá rỡ nét những đặc sắc của nghệ thuật sử thi. Trước hết, đó là nghệ thuật tổ chức ngôn ngữ : Ngôn ngữ người kể chuyện biến hoá linh hoạt – khi chậm rãi khoan thai, khi ào ạt mạnh mẽ,… trong các đoạn miêu tả nhà Mtao Mxây, tả chân dung Mtao Mxây, tả cuộc giao tranh giữa Đăm Săn và Mtao Mxây – nhất là những đoạn miêu tả cảnh ăn mừng sau chiến thắng của Đăm Săn. Ngôn ngữ đối thoại trong đoạn trích được khai thác triệt để từ nhiều góc độ, đã góp phần khắc hoạ rõ nét hình tượng nhân vật (trong các lời đối thoại giữa Đăm Săn với Mtao Mxây, lời của Đăm Săn nói với tôi tớ và dân làng của Mtao Mxây, đối thoại giữa Đăm Săn với dân làng của mình sau chiến thắng). Đặc biệt, trong ngôn ngữ của nhân vật có nhiều chỗ sử dụng các câu mệnh lệnh mang âm hưởng hiệu triệu, vang vọng ( ơ các con, ơ các con, hãy đi lấy rượu bắt trâu ! ; Hãy đánh lên các tiếng chiêng… ; Hãy đánh lên tất cả…) thấm đẫm chất sử thi anh hùng. Mặt khác, trong ngôn ngữ của người kể chuyện, tác giả thường xen lẫn những lời trực tiếp hướng đến người nghe ( Bà con xem… ; Thế là, bà con xem …). Dạng lời này có tác dụng lôi cuốn người nghe nhập cuộc đồng thời góp phần bộc lộ trực tiếp thái độ, sự phấn khích mang sắc thái diễn xướng của sử thi anh hùng, nó tạo ra sự giao tiếp sử thi, khơi gợi mối đồng cảm cộng đồng, giao hoà sử thi.

Việc sử dụng biện pháp tu từ so sánh và phóng đại đã tạo cho đoạn trích những hiệu quả diễn đạt ấn tượng. Chẳng hạn, miêu tả Mtao Mxây : “khiên hắn tròn như đầu cú, gươm hắn óng ánh như cái cầu vồng. Trông hắn dữ tợn như một vị thần… giữa một đám đông mịt mù như trong sương sớm” ; “Khiên hắn kêu lạch xạch như quả mướp khô”.Hoặc miêu tả Đăm Săn : “Một lần xốc tới, chàng vượt một đồi tranh. Một lần xốc tới nữa, chàng vượt một đồi lồ ô. Chàng chạy vun vút qua phía đông, vun vút qua phía tây” ; “Chàng múa trên cao, gió như bão. Chàng múa dưới thấp, gió như lốc” ; “Khi chàng múa chạy nước kiệu, quả núi ba lần rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ bay tung” ; “đôi mắt long lanh như mắt chim ghếch ăn hoa tre” ; “Bắp chân chàng to bằng cây xà ngang, bắp đùi chàng to bằng ống bễ, sức chàng ngang sức voi đực, hơi thở chàng ầm ầm tựa sấm dậy, chàng nằm sấp thì gãy rầm sàn, chàng nằm ngửa thì gãy xà dọc”…Bên cạnh đó, các phép so sánh, phóng đại trong ngôn ngữ nhân vật cũng được huy động tối đa : với Mtao Mxây “Ta như gà làng mới mọc cựa kliê, như gà rừng mới mọc cựa êchăm”,… với Đăm Săn : “Cầu cho ta được bình yên vô sự, nạn khỏi tai qua, lớn lên như sông nước, cao lên như cây rừng, không còn ai bì kịp ; Hãy đánh lên tất cả cho ở dưới vỡ toác các cây đòn ngạch… để nghe tiếng chiêng ăn đông uống vui như mừng mùa khô năm mới của ta vậy”…

Biện pháp so sánh, phóng đại tạo ra sức hấp dẫn cho sử thi, đó là cách diễn đạt, mô tả bằng hình ảnh sinh động, tạo ấn tượng về sức mạnh, vẻ đẹp thần thánh, siêu phàm đúng với tính chất hùng tráng, mang tầm vũ trụ của nhân vật và hành động của sử thi anh hùng.

5. Chiến thắng Mtao Mxây, trích đoạn trong Đăm Săn – sử thi anh hùng của người Ê-đê, kể về chiến thắng của Đăm Săn trong cuộc chiến đấu với Mtao Mxây. Cuộc chiến đấu của Đăm Săn tuy có mục đích riêng là giành lại vợ từ tay tù trưởng khác nhưng lại mang ý nghĩa và tầm quan trọng đối với lợi ích của cả cộng đồng. Chiến công của anh hùng Đăm Săn là niềm tự hào, thể hiện lí tưởng, khát vọng của toàn thể cộng đồng. Từ nghệ thuật xây dựng tình tiết, sự kiện, ngôn ngữ cho đến các biện pháp tu từ so sánh và phóng đại trong đoạn trích đều nhằm tô đậm vẻ đẹp, sức mạnh mang tầm vóc sử thi hoành tráng của hình tượng nhân vật người anh hùng Đăm Săn trong chiến công lẫy lừng. Vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng Đăm Săn là biểu tượng cho sức mạnh, ý chí của cộng đồng người Ê-đê xa xưa.

Đọc đoạn trích Đi bắt Nữ thần Mặt Trời để hiểu thêm sức mạnh, tài năng và vẻ đẹp phi thường của nhân vật Đăm Săn :

Hơ Nhị : Thế anh đi đâu nữa ?

Đăm Săn : Tôi đi vào rừng xa. Tôi đi vào rừng không cùng tận. Tôi nghỉ ban đêm. Tôi đi ban ngày.

Hơ Nhị : Sao lại muốn đi nữa ? Nếu anh muốn chiêng núm thì đã có ở nhà. Nếu anh muốn chiêng bằng thì ở nhà chưa đủ hay sao ?

Đăm Săn : Sao tôi lại đi kiếm chiêng núm ? Sao tôi lại đi kiếm chiêng bằng ? Tôi đi chơi thôi, tôi đi chơi không có việc gì.

Hơ Nhị : ớ anh ! Bao nhiêu chiêng núm đều là của anh, bao nhiêu voi đều là của anh. Anh là một tù trưởng giàu mạnh, đầu đội khăn kép, vai mang túi da. Trăm chiêng núm anh đã có. Trăm chiêng bằng anh đã có. Trăm con voi anh đã có. Rừng đầy tràn nồi đồng của anh. Đồng nước đầy tràn nồi đồng của anh. Lợn dê anh đầy sân. Tiếng tăm anh vang đến tận thần núi ; từ phía tây đến phía đông, ai cũng phải khen anh là người gan dạ, anh dũng, đến nỗi bị thương hay ngất đi cũng không lùi trước kẻ địch.

Đăm Săn : Tôi muốn đi bắt Nữ thần Mặt Trời. Như vậy mới thành tù trưởng hết sức giàu mạnh, có nhiều chiêng núm, chiêng bằng, trên đời không ai bì kịp. Người vùng núi phía tây cũng không hơn. Người vùng núi phía đông cũng không dám sánh. Lúc đó tôi đến đâu tre a lê phải cúi xuống. Tôi đến đâu tre mơ ô( 1)phải khô. Tôi đến đâu núi sẽ vỡ, suối tan. Tại sao tôi muốn đi ? Tôi nghe nói trong tất cả thần linh ở núi, từ tây sang đông, thì Nữ thần Mặt Trời là người đẹp nhất, bắp chân nàng tròn, váy nàng đẹp tuyệt vời. Đừng có mong đợi tôi. Tôi nghỉ mười ngày, tôi ngủ năm đêm, tôi tìm kiếm suốt một năm.

Rồi Đăm Săn cưỡi ngựa ra đi. Chàng khoác áo màu đen màu trắng( 2). Tay cầm lao. Gươm giắt thắt lưng. Chàng đến nhà Tang Mang.

Tang Mang : Thưa anh đi đâu ? có việc gì ?

Đăm Săn : Tôi đói đến kiếm cơm. Tôi khát đến kiếm rượu uống. Tôi đi tìm dây pam pil( 3). Tôi thèm thịt bò, thịt trâu, đến kiếm ăn.

Tang Mang : Đây cơm, đây gà rán, đây rượu cần và bây giờ anh hãy nói chuyện anh cho tôi nghe. Anh đi đâu mà vội vàng như vậy ?

Đăm Săn : Tôi vội, là vì tôi muốn bắt Nữ thần Mặt Trời. Anh ở gần rừng, anh có biết con đường đi tới chỗ nàng nuôi trâu nuôi bò không ?

Tang Mang : Anh ạ ! tôi chỉ như một đứa trẻ không biết rõ rừng. Tôi chỉ như người đàn bà không biết đường voi đi ở đâu, không biết đường tê giác ở đâu. Tôi không biết trâu bò nàng ở đâu cả.

Đăm Săn : Tôi hỏi xem anh biết không. Vì anh ở gần rừng, vì anh ở giữa đông và tây. Đi, anh giúp tôi, dẫn tôi đến chỗ trâu bò của nàng đi qua. Hãy giúp tôi tới đó.

Rồi hai người đi. Họ ngủ mười đêm trong rừng, ngủ năm ngày, đi luôn một năm. Một người cưỡi ngựa đực, một người cưỡi ngựa cái. Tiếng ngựa chạy nghe như tiếng sông than, như tiếng biển thở. Tiếng vó ngựa trùm lên tất cả rừng núi. Họ đến làng Đam Pắc Quây. Trẻ con trên sàn đứng xem. Phụ nữ đứng ngắm. Ai cũng biết danh tiếng Đăm Săn, biết anh là một tù trưởng giàu mạnh đầu đội khăn kép, vai mang túi da. Họ đến đầu làng. Họ đến tận nhà. Người đến buộc ngựa, kẻ đến xem và ngắm nghía. Chỉ hai bước họ đã đến lên nhà, giậm chân lên sàn, làm sàn lắc bảy lần qua phía đông. Đăm Săn móc dao vào phên rồi lại ngồi giữa nhà, trông dẻo như con rắn trong hang, con hùm bên bờ suối. Tiếng nói tiếng cười của chàng nghe như sấm vang sét đánh. Chẳng ở đâu có người cười nói như Đăm Săn.

Đam Pắc Quây : Hỡi các con ! Mau đưa ông một cái gối ! Mau mang chiếu tới, mau mang tới một cái chăn. Dưới trải chiếu trắng, trên trải chiếu đỏ ! Mau mang thuốc lá, thuốc thái nhỏ đựng trong một bát đồng, thuốc nguyên lá đựng trong cả thúng. Sao cho khách Đăm Săn hút mãi mãi không hết. Nấu một con gà ấp và một con gà đẻ, giã trắng gạo, nấu cơm và đưa mời khách ăn. Đi lấy rượu về, lấy rượu đựng trong chum ché tuk( 1), chiếc chum miệng rộng như miệng người Mnông, chiếc chum chạm ở trên, cẩn ở dưới, chiếc chum quai có vẽ và đóng giá ba voi. Ai đi lấy nước thì đi lấy đi. Ai đánh chiêng đánh đi. Ai cắm ống cần( 2) thì cắm đi. Cắm cần rồi mời Đăm Săn uống trước.

Đam Pắc Quây : Hỡi anh ! Bây giờ ta đã uống rượu, đã ăn gà, đã ăn cơm, tôi xin hỏi : có chuyện gì mà anh tới đây ? có ai đánh cướp nhà, có ai xâm chiếm làng, có ai bắt thanh niên hoặc phụ nữ không ?

Đăm Săn : Không phải vậy đâu. Không phải tôi đến vì chuyện nọ chuyện kia đâu. Tôi đến nghe tự miệng anh, nhờ anh cho biết chúng tôi đi bắt Nữ thần Mặt Trời được không ?

Đam Pắc Quây : ấy chết ! Đường này đầy cọp. Đường đi đầy rắn độc. Anh không thể đi đến Nữ thần Mặt Trời được đâu. Người ta đã cắm chông trên đường đi hái cà. Người ta đã cắm bẫy trên đường đi hái ớt. Tù trưởng vào chết tù trưởng. Người giàu sang vào cũng chết người giàu sang. Người gan dạ vào chết người gan dạ.

Đăm Săn : Chẳng lẽ không ai vào được sao ? Đối với người gan dạ, anh dũng đến mức không bao giờ lùi bước, dẫu sắp chết hay ngất đi cũng không lùi, thì có vào được không ? Trời bảo vệ thân thể tôi, anh không cho tôi đi, cũng mặc, tôi cứ đi. Tôi đã mang theo bùa ngải trước đây đã giúp cho tổ tiên mà thắng, mà nay cũng sẽ giúp tôi thắng. Bùa ngải này giúp cho tôi giết chết tê giác dưới hầm sâu, giết chết hùm cọp giữa rừng rậm. Nói gì thứ bò cạp giữa đường, rết trên ngọn cây. Nói gì hùm và cọp có thể gặp.

Đam Pắc Quây : ấy chết ! Dưới nước thì đỉa, trên cây thì sên, nó cắn chết. Xương người đầy bìa rừng, xương trâu xương bò đầy núi. Chỗ ấy đã chết biết bao tù trưởng khoẻ mạnh và cương quyết. Đất trong rừng là đất đen nhão như nước. Nhiều tù trưởng đã chết lún trong đất lỏng ấy. Tôi giữ anh lại thôi. Nhất định tôi không thể để anh đi. Tôi làm lễ cho anh một con lợn, một con trâu nhưng nhất định không để anh vào rừng của Trời, rừng đầy chông gai, nhiều đến nỗi con sóc có nhảy vào thì thân đã bị đâm thủng trước lúc chân sờ tới đất.

Đăm Săn : Mặc kệ ! để tôi kiếm một lối đi. Tôi sẽ tới chỗ tôi muốn ! Gặp hùm tôi sẽ giết hùm.

Đam Pắc Quây : Lúc đáng ở thì anh không ở. Lúc đáng đi thì anh không đi. Đốt một cái đuốc rồi đi vào lúc còn tối.

Đăm Săn : Khắp nơi, từ người Ê-đê vùng sông lớn, đến người Mnông vùng hạ lưu, từ tây sang đông, đứa nào cả gan dám nói Đăm Săn này không phải là một tù trưởng đầu đội khăn kép, vai mang túi da ? Ta đây không sợ.

Đam Pắc Quây : Anh chưa đi à ? ấy chết ! Tại sao chưa thắp đuốc mà đi lúc còn đêm tối. Làm sao thấy được để khỏi rơi vào rừng voi ! Khỏi rơi vào đất lỏng rừng bà Sun Y Rít.

Đăm Săn : Bây giờ quá nửa đêm rồi. Gà đã gáy tứ phía. Trời sắp sáng. Thần ánh Sáng sắp lên.

Đam Pắc Quây : ơ anh ! Anh chỉ đi theo ngựa cho đến lúc nào trời còn tối và đất còn rắn. Vì đến lúc mặt trời lên đất sẽ nhão lại, trở nên mềm lún. Người ta vẫn nói rừng Sun Y Rít như vậy đó.

Rồi Đăm Săn lên đường, đi qua rừng âm u, trèo qua núi rậm. Cỏ tranh cắt nát tay anh. Mây cắt nát chân anh. Anh không có một thứ gì ăn uống. Anh cứ đi mãi đi mãi, càng đi càng thấy rừng vắng như không có ai ở. Anh đi đến chuồng nuôi trâu, bên trên có thả diều của Trời. Chỗ đó không có ai cả, đàn ông cũng không, đàn bà cũng không. Đi mãi gặp một cái hàng rào dưới làm bằng dây đồng, trên làm bằng dây sắt. Anh thoáng thấy làng của người gìn giữ mặt trời, mặt trăng. Tới một chỗ cao, anh chặt một sườn núi, ném xuống bùn làm con đường để vượt qua ranh giới giữa trời và đất. Anh đến một nhà đơn độc, nhà vợ chồng Hơ Kung và Y Du ở với thần Mặt Trời và Mặt Trăng( 1). Người ta nghe thấy tiếng sấm sét, tiếng mưa rơi y như ngựa thở, ở đây sáng luôn luôn không có đêm tối. Anh thấy cái nhà Nữ thần Mặt Trời ở. Thang lên nhà là một cầu vồng. Cối giã gạo bằng vàng. Chày cũng bằng vàng, lúc dùng thì ánh sáng lóng lánh ngợp mắt. Anh xuống ngựa, mở yên, trèo lên thang nhà, tin cho trong nhà biết, rồi đứng ở sân biên nhìn qua nhà của thần Mặt Trời. Anh ngắm nghía nhà to, ngắm voi quanh sân nhà, trong nhà đầy chiêng núm và chiêng bằng. Tôi tớ trai và gái đông như mây. Sườn nhà thếp vàng. Tất cả nhà các tù trưởng giàu mạnh chưa có nhà nào như vậy. Anh đi qua cửa, móc dao vào phên, ngồi giữa nhà. Người nhà đi lại từ nhà sau ra nhà trước nhìn Đăm Săn như nhìn một thần linh mà danh tiếng đã vượt qua núi rừng tới thần ánh Sáng.

Nữ thần Mặt Trời : ơ các con, xem người nào lạ vào ngoài nhà.

Tôi tớ : Thưa bà, chúng tôi không biết. Người ấy mặc một cái áo da. Lông chân mượt như chuôi dao. Giọng nói như tiếng ve sầu. So với tất cả các tù trưởng không có ai giống như thế.

Nữ thần Mặt Trời thay một cái váy mới. Thấy váy đó chưa đẹp, lại thay váy khác đẹp hơn. Váy nàng nhấp nhánh như chớp sáng. Tóc nàng chải bóng che xuống hai vai. Nàng đi ra khỏi buồng, và tới đâu thì chỗ ấy sáng lên. Dáng đi như chim diều bay, như chim phượng hoàng liệng, như nước chảy êm đềm. Lúc dừng lại ngồi hay đứng, cũng đẹp không ai so tày. Tiếng nàng nghe rõ mặc dầu người chưa thấy. Cổ nàng đẹp như cổ con công. Nàng là con của Trời và Đất.

Nữ thần Mặt Trời : Anh muốn gì hỡi người dưới trần thế ?

Đăm Săn : Tôi đến đây vì muốn có người nấu cơm cho tôi ăn, dệt vải cho tôi mặc.

Nữ thần Mặt Trời : Tại sao anh lại để dao ở không, để vợ anh một mình, để tôi tớ anh ở nể.

Đăm Săn : Dao tôi cầm ở tay, rìu tôi đã có cán, và ở trên đất đàn ông, đàn bà đã vừa đôi( 1).

Nữ thần Mặt Trời : Sau lưng thì anh yêu một người mà trước mặt thì lại cười nói với người khác.

Đăm Săn : Tôi muốn có hai vợ lẽ, tôi muốn có một vợ thật đẹp và tôi hứa với nàng tôi sẽ mang nàng xuống trần để lập một gia đình chung với Hơ Nhị, Hơ Bhị.

Nữ thần Mặt Trời : Thôi ! Sao lại đi chỗ khác ! Tôi muốn ở lại quê hương của ông bà tôi, ở lại làng của tổ tiên đã sinh ra các thần Mặt Trời, Mặt Trăng. Tôi muốn ở lại xứ tôi là chỗ giáp giới giữa trời và đất.

Đăm Săn : Sao lại không đi. Tôi đã chịu khó lấp vũng đất lỏng ngập tới đầu gối, ngập tới nách, để đi đến đây.

Nữ thần Mặt Trời : Nhưng nếu tôi đi, ở trên đất lợn gà sẽ chết hết. Tê giác, trâu, bò, lừa, ngựa sẽ chết hết. Người Xiêm, người Miên cũng sẽ chết hết. Sẽ không có đất để làm nương rẫy. Cả người Ê-đê sẽ không còn nước uống, cây cối sẽ không còn ra trái. Nếu tôi đi, cây cối trong rừng rậm sẽ chết, cây cối trong rừng thưa sẽ khô héo. Lau sậy, cỏ tranh sẽ không còn cây non, không mọc lại nữa. Trên đất sẽ nắng hạn lớn, nước suối sẽ khô. Thôi người đi đi, vì chốc lát ta sẽ mọc lên đây.

Đăm Săn : Không ! Tôi không đi đâu. Với dao và nỏ tôi đã đi qua rừng, tôi đã giết tê giác dưới vực thẳm, tôi đã giết hùm trong núi cao, đã giết quạ diều trong cây trồng, giết ma quỷ trên các đường đi. Tôi đã hết lòng hết dạ để đến với nàng, vì tôi muốn ở với nàng, chỉ lúc nào nàng chịu ở với tôi thì tôi mới chịu về.

Nữ thần Mặt Trời : Thôi người đi đi ! Đi ra khỏi nhà ! Vì ta là con của Trời. Người chỉ biết ăn cơm, rửa ráy với nước lã, ta không thể nhận cùng ở chung chạ được đâu.

Đăm Săn : Tôi nghĩ tôi thương nàng, nhưng đằng sau lưng thì nàng không thương tôi, đằng trước mặt thì cười nói mà không nhận lời( 1). Thôi tôi trở về làng cũ vậy.

Nữ thần Mặt Trời : Hãy khoan đừng đi bây giờ, vì ta sắp lên và như vậy, người sẽ chết ngay.

Đăm Săn : Tôi không cần chết hay sống. Tôi muốn đi ngay.

Nói rồi anh lên ngựa đi về. Lúc đó mặt trời ló lên trên đỉnh núi. Ngựa Đăm Săn chạy hết tốc độ đến khoảng giữa rừng. Mặt trời toả ánh sáng ra tứ phía. Đất trở nên nhão. Ngựa ngập đến chân. Mặt trời lên mãi đến nửa trời ngựa vẫn còn chạy, ngập đến bụng. Mặt trời lên dần mãi đến đỉnh đầu, đất loãng ra như nước, ngựa ngập mình và cả Đăm Săn cũng ngập lún vào đất. Trước lúc lún ngập, Đăm Săn thấy con bướm bay qua.

Đăm Săn : Hỡi bướm, cứu ta với !

Bướm : Tôi không cứu được.

Đăm Săn thấy một con chuồn chuồn bay qua.

Đăm Săn : Hỡi chuồn chuồn, cứu ta với !

Chuồn chuồn : Tôi không cứu được.

Đăm Săn : Không cứu ta được thì hãy đến làng vợ ta nói rằng ta bị lún trong rừng ma, trong rừng bùn, trong rừng bà Sun Y Rít, trong rừng U Minh đen như mực.

Chuồn chuồn liền bay đi, đến nhà Hơ Nhị, Hơ Bhị…

Đóng Vai Mtao Mxây Kể Lại Đoạn Trích Chiến Thắng Mtao Mxây

Đóng vai Mtao-Mxây kể lại đoạn trích “Chiến thắng Mtao-Mxây”

Ta tuy nhà đã giàu, trâu đã nhiều, trong ngoài tôi tớ không sao đếm xuể, những gì mà các tù trưởng hùng mạnh nhất có, ta cũng đều có cả. Nhưng chỉ tiếc là chưa có được nàng Hơ Nhị xinh đẹp làm vợ ta. Thấy ta u sầu, rượu uống không nồng miệng, thịt ăn không biết ngon, bọn gia nhân xúm tụm hỏi han. Một đứa liền mách rằng: “Ngày kia, Đăm Săn sẽ cùng tôi tớ lên rẫy trỉa lúa mới và mở cuộc đi săn dài ngày, nhân cơ hội này, ngài sang bắt Hơ Nhị về là xong thôi”.

Đăm Săn là tù trưởng hùng mạnh nhưng trước sức mạnh của ta, chắc hẳn hắn cũng chẳng dám làm gì. Nghĩ vậy, ta liền gọi mấy đứa vào bàn tính ngay. Việc cướp Hơ Nhị diễn ra suôn sẻ. Nhưng không ngờ, chính hành động nông nổi ấy và đánh giá sai lầm về tù trưởng Đăm Săn, đã khiến ta phải trả giá bằng mạng sống và cơ nghiệp của mình.

Sau chuyến đi săn trở về, biết chuyện vợ bị ta bắt đi rồi, Đăm Săn đùng đùng nổi giận, ngay lập tức mang gươm giáo và tôi tớ sang đòi lại vợ. Đăm Săn cho tôi tớ vây kín nhà ta, voi gầm trước sân, ngựa hí sau nhà, khung cảnh vang dội trong thật uy dũng. Ta không xuống, hắn cứ đứng ở dưới nhà la quát, thách thức ta giao chiến. Cứ mặc hắn khua chiêng, đáng trống, tôi tớ hò hô inh ỏi, ta ở trên nhà điềm nhiên uống rượu, ăn thịt nai rừng. Thấy ta không chịu xuống, hắn đòi lấy cái sàn hiên của nhà ta bổ đôi, lấy cái cầu thang của ta chẻ ra kéo lửa, hun cái nhà của ta bằng ngọn lửa trời. Biết hắn nói là sẽ làm, ta vội bước ra, lựa lời đường mật khuyên, rồi bước xuống, còn dặn rằng hắn không được đánh sau lưng mà phải chiến đấu như một anh hùng.

Ta mang theo chiếc khiên vành to tròn như đầu cú, giắt theo thanh gươm óng ánh như cái cầu vồng. Bước chân ta uy dũng như thần, đôi mắt dữ tợn như sấm như chớp. Thấy ta bước xuống, Đăm Săn khiêu chiến: “– Ngươi múa trước đi, ơ diêng!”. Đâu chịu hạ thấp mình, ta nhường hắn múa trước nhưng hắn không chịu, lại nhường ta. Lập tức, ta rung khiên múa kiếm xông lên. Đăm Săn vẫn đứng đó, tỏ ra điềm nhiên, ngạo mạn, lại còn buông lời chê bai ta múa như gà.

Đến lượt Đăm Săn, hắn rung khiêng múa. Một lần xốc tới, hắn vượt một đồi tranh. Một lần xốc tới nữa, hắn vượt một đồi lồ ô. Hắn chạy vun vút qua phía đông, vun vút qua phía tây. Quả thật, Đăm Săn đúng là con báo, con hổ uy mãnh của núi rừng. Những đường giáo vun vút, sắc lạnh tới tấp cắt xé không gian như gió, như bão, hướng về ta lao tới. Ta chỉ kịp bỏ chạy thoát thân, bước cao bước thấp chạy hết bãi tây sang bãi đông. Đăm Săn cũng đuổi theo ta từ bãi đông sang bãi tây. Lợi dụng lúc hắn sơ ý, ta vung dao chém phập một cái, nhưng chỉ vừa trúng một cái chão cột trâu. Đăm Săn thấy thế liền cười nhạo khinh bỉ.

Tức giận, ta bảo Hơ Nhị quăng cho ta một miếng trầu. Nhưng Đăm Săn đã nhanh đớp được miếng trầu. Hắn nhai trầu, sức mạnh của hắn càng tăng lên gấp bội. Ngay lập tức hắn lại rượt đuổi ta. Đăm Săn lại múa. Hắn múa trên cao, gió như bão. Hắn múa dưới thấp, gió như lốc. Chòi lẫm đổ lăn lóc. Cây cối chết rụi. Khi hắn múa dưới thấp, vang lên tiếng đĩa khiên đồng. Khi hắn múa trên cao, vang lên tiếng đĩa khiên kênh. Khi hắn múa chạy nước kiệu, quả núi ba lần rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ bay tung. Cây giáo thần, cây giáo dính đầy những oan hồn của hắn nhằm đùi ta phóng tới, trúng nhưng không thủng. Hắn đâm vào người ta cũng không thủng. Bộ thiết giáp hộ thân của ta đâu dễ gì phá nổi. Lấy lại thế thượng phong, ta vung dao tới tấp, quyết chém cho được.  Đăm Săn lùi lại mấy bước, cật lực chống đỡ. Cây lao trên tay hắn lỗ rỗ những vết dao.

Đến lúc này, Đăm Săn đã thấm mệt, hắn vừa chạy vừa ngủ gật nhưng kì lạ là ta không thể đuổi kịp hắn. Cứ khi ta vừa bắt kịp thì hắn lại vụt lên. Rôi chẳng biết vì sao, hắn lại bật dậy như vừa tỉnh giấc. Hắn chộp lấy ngay một cái chày mòn, nhằm ta ném tới. Cái chày lao vút vào ta như từ trên trời chụp xuống. Quá bất ngờ, ta không né kịp, cái chày đập mạnh vào vành tai khiến ta chao đảo, đầu óc choáng váng. May nhờ có chiếc khiên đỡ hộ chứ không thì đầu ta đã vỡ vụn rồi. Cái giáp của ta đang mặc tức thì rơi loảng xoảng, vụn vỡ tan tành.

Không còn hộ giáp, chiếc khiên đã vỡ, thanh gươm đã gãy, ta nhanh chóng tháo chạy thoát thân. Ta tránh quanh chuồng lợn, Đăm Săn phá tan chuồng lợn. Ta tránh quanh chuồng trâu, Đăm Săn phá tan chuồng trâu. Hết đường chạy, lại quá mệt mỏi, ta ngã lăn quay ra đất. Đăm Săn đã đuổi kịp. Sợ Đăm Săn cả giận mất khôn, ta dụ dỗ: “- Ơ diêng, ơ diêng, để ta làm lễ cầu phúc cho diêng một trâu! Ta cho thêm diêng một voi”. Đăm Săn nghe vậy, mắt long lên giận dữ, gầm thét như một con hổ, ngọn giáo sáng loáng trên tay hắn cắm thẳng xuống ngực ta sâu thẳm.

Giết được ta, cướp lại được vợ, Đăm Săn kêu gọi tôi tớ của ta dắt trâu, bắt voi, cùng về với hắn. Mất tù trưởng, tôi tớ nhà ta cũng chẳng biết đi đâu, đành theo Đăm Săn tìm nơi nương tựa. Hôm ấy, đoàn người đông như bầy cà tong, đặc như bầy thiêu thân, ùn ùn như kiến mối, lũ lượt kéo theo gót Đăm Săn về làng mới. Cảnh tượng ấy thực chưa từng thấy. Thế là Đăm Săn xưa đã mạnh, nay càng thêm giàu có, chiêng lắm la nhiều, trâu, voi đông vô kể. Tôi tớ mang của cải về nhiều như ong đi chuyển nước, như vò vẽ đi chuyển hoa, như bầy trai gái đi giếng làng cõng nước, lũ lượt kéo theo gót Đăm Săn.

Về đến làng, Đăm Săn giục tôi tớ đi lấy rượu, bắt trâu để cúng thần, cáo tổ tiên, cầu sức khoẻ cho hắn mới đi đánh kẻ thù, bắt tù binh, xéo nát đất đai một tù trưởng nhà giàu về. Rượu bảy ché, trâu bảy con để dâng thần, hắn cầu cho hắn được bình yên vô sự, nạn khỏi tai qua, lớn lên như sông nước, cao lên như cây rừng, không còn ai bì kịp. Hôm ấy, nhà Đăm Săn đông nghịt khách, tôi tớ chật ních cả nhà ngoài. Các khách tù trưởng đều từ phương xa đến chúc mùng và thuần phục.

Từ đấy, danh Đăm Săn vang đến thần, tiếng lừng khắp núi, đông tây đâu đâu cũng nghe danh tiếng Đăm Săn. Từ khắp mọi miền, người ta khiêng rượu, khiêng lợn đến. Cả miền Ê-đê, Ê-ga ca ngợi Đăm Săn là một dũng tướng gan dạ, chắc chết mười mươi cũng không lùi bước.

Soạn Văn 10 Chiến Thắng Mtao Mxây Tóm Tắt

1. Bố cục văn bản

Đoạn 1: (Từ “Nhà Mtao Mxây đến sàn hiên… cắt đầu Mtao Mxây đem bêu ngoài đường”): Cuộc chiến giữa hai tù trưởng.

Đoạn 2: (Từ “Ơ nghìn chim sẻ… rồi vào làng”): Cảnh Đăm Săn cùng các nô lệ trở về làng sau chiến thắng.

Đoạn 3 (Còn lại): Cảnh nhà Đăm Săn ăn mừng chiến thắng.

2. Hướng dẫn soạn văn Chiến thắng Mtao Mxây

Câu 1: Tóm tắt diễn biến trận đánh để so sánh tài năng và phẩm chất của hai tù trưởng.

Đăm Săn đến nhà Mtao Mxây khiêu chiến nhưng Mtao Mxây còn bỡn cợt chàng mà chưa chịu giao chiến ngay.

Bước vào cuộc chiến:

Hiệp đấu thứ nhất:

Hai bên lần lượt múa khiên.

Mtao Mxây múa trước: tỏ ra yếu ớt và kém cỏi.

Đăm Săn múa khiên: tỏ ra mạnh mẽ và tài giỏi hơn.

Kết quả hiệp đấu: Mtao Mxây chạy khắp nơi để tránh đường khiên Đăm Săn múa.

Hiệp đấu thứ hai:

Đăm Săn múa khiên: sức mạnh như gió bão. Cây giáo đâm liên tiếp Mtao Mxây không ngừng.

Đăm Săn nhờ sự giúp đỡ của Ông Trời đã cắt được đầu của Mtao Mxây.

Dân làng Mtao Mxây nhất loạt theo Đăm Săn về ngôi làng mới.

Câu 2: Phân tích những câu nói và hành động của đông đảo nô lệ đối với việc thắng thua của hai tù trưởng để chỉ ra thái độ và tình cảm của cộng đồng Ê – đê đối với mục đích của cuộc chiến nói chung, đối với người anh hùng sử thi nói riêng.

Cuộc chiến giữa Đăm Săn và Mtao Mxây là cuộc chiến tranh mang tính chất thống nhất cộng đồng, không phải là một cuộc chiến tranh xâm lược nhằm mục đích tàn sát, cướp bóc và chiếm giữ. Chính vì thế mà thái độ của nô lệ ở cả hai phía đối với việc thắng thua của khai tù trưởng cũng có những nét riêng:

Ở phía Mtao Mxây: Sau khi tù trưởng của mình thất bại, đông đảo nô lệ đều tâm phục và nghe theo lời tù trưởng mạnh hơn: “Không đi sao được!… người nhà giàu cầm đầu chúng tôi nay đã không còn nữa” ⇒ từ thái độ và hành động này chứng tỏ họ luôn mơ ước được sống trong no ấm, sự giàu có và mong ước có được một người lãnh đạo dũng cảm, tài ba bảo vệ cho mình.

Ở phía Đăm Săn: Dân làng tưng bừng náo nhiệt chào đón vị anh hùng của mình mới chiến thắng trở về. Họ đi lại sửa soạn vui mừng tới tấp không chỉ để mừng buôn sóc được mở mang, được hùng mạnh và giàu có mà còn để tiếp đón những người nô lệ mới bằng sự chân thành và hòa hợp: “… Các chàng trai đi lại ngực đụng ngực… sao mà vui thế!”

Câu 3: Thái độ, cách nhìn nhận của tác giả sử thi về ý nghĩa thời đại của cuộc chiến tranh bộ tộc và về tầm vóc lịch sử của người anh hùng trong sự phát triển của cộng đồng.

Đoạn trích tuy miêu tả cuộc chiến tranh giữa các thị tộc trong thời nguyên thủy, thế nhưng lại không chú trọng miêu tả cảnh chết chóc đau thương. Trái lại, tác giả dân gian chủ yếu miêu tả cảnh chiến thắng tưng bừng của phía Đăm Săn.

Cuộc chiến mà người anh hùng sử thi Đăm Săn thực hiện không phải là cuộc chiến tranh phi nghĩa mà là cuộc chiến vì sự thống nhất và lớn mạnh của cộng đồng tộc người. Do vậy, tầm vóc của người anh hùng Đăm Săn trở thành trung tâm miêu tả, ca ngợi của toàn bộ thiên sử thi.

Câu 4: Phân tích giá trị miêu tả và biểu cảm các câu văn có dùng lối so sánh, phóng đại khi miêu tả nhân vật, khung cảnh của sự việc.

So sánh tương đồng: như gió lốc gào, như những vệt sao băng

So sánh tăng cấp: tài múa khiên của Đăm Săn, tả số lượng người ngày càng đông đảo…

So sánh tương phản: tài múa khiên của Đăm Săn và Mtao Mxây

⇒ Lối so sánh này có tác dụng làm đòn bẩy để miêu tả, đề cao nhân vật anh hùng với tầm vóc cường tráng, ý chí lớn lao.

Bài Giảng Chiến Thắng Mtao Mxây

a. Đặc điểm của sử thi: – Là tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn.

– Ngôn ngữ có vần, nhịp.

– Hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng.

– Kể về những biến cố lớn diễn ra trong đời sống cộng đồng thời cổ đại. b. Phân loại: Hai loại:

c. Hình thức diễn xướng:

Kể- hát.

2. Sử thi Đăm Săn:

– Các tù trưởng Kên Kên (Mtao Grư), Sắt (Mtao Mxây), thừa lúc Đăm Săn vắng nhà, bắt Hơ Nhị về làm vợ. Đăm Săn đánh trả và chiến thắng, giết chết chúng, giành lại vợ, đem lại sự giàu có và uy danh cho mình và cộng đồng.

b. Giá trị nội dung:

+ Chiến tranh mở rộng bờ cõi, làm nổi uy danh của cộng đồng.

+ Khát vọng chinh phục tự nhiên.

+ Cuộc đấu tranh giữa chế độ xã hội mẫu quyền với phụ quyền.

II. Đọc – hiểu văn bản chiến thắng Mtao – Mxây

1. Đọc:

2. Bố cục: 3 phần.

3. Tìm hiểu văn bản: a. Hình tượng Đăm Săn trong cuộc quyết chiến với Mtao Mxây:

– Mục đích:

+ Đòi lại vợ.

+ Bảo vệ danh dự của tù trưởng anh hùng, của bộ tộc.

+ Trừng phạt kẻ cướp, đem lại sự yên ổn cho buôn làng.

+ Là cái cớ làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các bộ tộc dẫn tới chiến tranh mở rộng bờ cõi, làm nổi uy danh cộng đồng.

– Tư thế: chủ động, tự tin, đường hoàng.

– Các chặng đấu:

+ Chặng 1: Đăm Săn khiêu chiến – Mtao buộc phải đáp lại.

+ Chặng 2: Diễn biến cuộc chiến:

– Hành động:

Chặng 1:

– Mtao Mxây bị động, sợ hãi nhưng vẫn trêu tức Đăm Săn. – Do dự, sợ hãi îí vẻ ngoài hung tợn.

– Khích Mtao múa khiên trước. – Điềm tĩnh xem khả năng của kẻ thù.

Hiệp 2:

Hiệp 3:

– Múa khiên càng nhanh, càng mạnh và đẹp, hào hùng. – Tấn công đối thủ: đâm Mtao nhưng không thủng áo giáp sắt của y.

– Hoàn toàn ở thế thua, bị động. – Bị đâm.

Hiệp 4:

– Tháo chạy vì áo giáp sắt vô dụng. – Trốn chạy quanh quẩn. – Giả dối cầu xin tha mạng. – Bị giết.

– Chi tiết ông Trời mách kế cho Đăm Săn thể hiện:

Nhận xét:

– Cuộc quyết đấu không gây cảm giác ghê rợn mà người đọc, người nghe vui say với chiến thắng oai hùng, yêu mến, cảm phục Đăm Săn.

– Mục đích của cuộc quyết đấu: Đòi lại vợ.

– Không nói đến chết chóc, không có cảnh tàn sát, đốt phá,… mà phần tiếp lại là cảnh nô lệ của Mtao Mxây nô nức theo Đăm Săn về và họ cùng mở tiệc mừng chiến thắng.

b. Hình tuợng Đăm Săn trong cuộc đối thoại, thuyết phục tôi tớ của Mtao Mxây:

– Gồm 3 nhịp hỏi- đáp.

– Mục đích: Đăm Săn kêu gọi mọi người theo mình cùng xây dựng thành một thị tộc hùng mạnh.

– Đăm Săn có uy tín lớn với cộng đồng.

* Ý nghĩa của cảnh mọi người nô nức theo Đăm Săn về: – Lòng yêu mến, sự tuân phục của tập thể cộng đồng đối với cá nhân người anh hùng.

– Sự thống nhất cao độ giữa quyền lợi, khát vọng của cá nhân người anh hùng và của cộng đồng.

c. Hình tượng Đăm Săn trong tiệc mừng chiến thắng:

– Đăm Săn tự bộc lộ qua lời nói với tôi tớ của mình:

+ Niềm vui chiến thắng.

+ Tự hào, tự tin vào sức mạnh và sự giàu có của thị tộc mình.

– Sức mạnh và vẻ đẹp dũng mãnh của Đăm Săn:

+ Uống: không biết say; Ăn: không biết no; Chuyện trò: không biết chán.

+ Đầu đội khăn nhiễu, vai mang nải hoa,…

+ Bắp đùi: to bằng cây xà ngang, to bằng ống bễ.

+ Nằm sấp thì gãy rầm sàn, nằm ngửa thì gãy xà dọc.

+ Sử dụng nhiều hình ảnh so sánh trùng điệp

+ Biện pháp phóng đại

+ Giọng văn trang trọng, hào hùng, tràn đầy cảm hứng ngợi ca, lí tưởng hoá.

III. Tổng kết bài học chiến thắng Mtao – Mxây

1. Nội dung:

– Những tình cảm cao cả nhất thôi thúc Đăm Săn chiến đấu và chiến thắng kẻ thù: trọng danh dự, gắn bó với hạnh phúc gia đình, thiết tha với cuộc sống bình yên và hạnh phúc của thị tộc.

– Sự thống nhất về lợi ích, vẻ đẹp của người anh hùng và cộng đồng.

2. Nghệ thuật:

– Ngôn ngữ: có vần, nhịp.

– Giọng điệu: trang trọng, chậm rãi.

– Một số biện pháp nghệ thuật đặc sắc: so sánh, phóng đại, liệt kê, trùng điệp.

Nhận xét