Ý Nghĩa Ra Đời Luật An Ninh Mạng / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Bac.edu.vn

An Ninh Mạng Và Sự Cần Thiết Ra Đời Luật An Ninh Mạng

Vấn đề về tội phạm mạng, khủng bố qua mạng, bảo vệ an ninh quốc gia nhất là trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang trở thành vấn đề nhận được quan tâm đặc biệt của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. * Video An ninh mạng và sự cần thiết ra đời Luật An ninh mạng:

Việt Nam hiện nay đang đón nhận CNTT như một xu hướng tất yếu, đi sâu vào ngõ ngách mọi hoạt động của người dân, của doanh nghiệp và của nhà nước, do đó, cần có sự quan tâm và đầu tư đúng mức cho công tác đảm bảo an ninh, an toàn không gian mạng…

Ngày 12/5, một cuộc tấn công mạng quy mô cực lớn với khoảng 75.000 máy tính bị lây nhiễm với gần 100 quốc gia bị ảnh hưởng bởi một loại mã độc tống tiền được biết tới có tên WannaCry. Điểm đặc biệt của loại mã độc này chính là khai thác lỗ hổng trong hệ điều hành của Microsoft mà hiện có nhiều máy tính trên thế giới vẫn chưa cập nhật được bản vá mới nhất nên nguy cơ bị “dính” mã độc WannaCry, làm lây nhiễm ra hệ thống máy tính của tổ chức, doanh nghiệp đang ở trong tình trạng báo động.

Tại Việt Nam, nguy cơ này cũng rất cao khi có tới trên 50% máy tính chưa được vá lỗ hổng này.

Ông Vũ Ngọc Sơn, Phó chủ tịch phụ trách mảng phòng chống mã độc, Tập đoàn công nghệ BKAV cho biết: “Với hơn 4 triệu cái máy tính tại Việt Nam đang có chứa lỗ hổng thì có thể nói đây là 1 nguy cơ rất lớn, không chỉ với loại mã độc tống tiền này, bởi vì chúng ta biết là mã độc tống tiền thì có thể nói là mọi người rất dễ nhận ra, lây nhiễm vào máy thì có thể nó sẽ hiển thị 1 bảng báo tống tiền thì chúng ta còn nhận ra được, tuy nhiên chúng ta cũng nên nhớ rằng hoàn toàn có thể có 1 cái tổ chức của 1 quốc gia khác cũng có thể lợi dụng lỗ hổng này phát tán những phần mềm gián điệp, theo dõi người dùng.”

Còn lời nhắn cảnh báo mà hacker đã để lại sau khi tấn công các website của cảng hàng không sân bay của nước ta đó là “web của bạn vẫn có nhiều lỗ hổng”. Việc website của các cảng hàng không tê liệt, dù trong thời gian ngắn đã khiến nhiều người lo lắng. Ngày 11/3, lực lượng An ninh mạng, Bộ Công an đã tìm ra thủ phạm là hai học sinh trung học phổ thông sinh năm 2002 trú tại chúng tôi và Đồng Nai.

Vụ việc này tiếp tục cho thấy sự yếu kém trong công tác đảm bảo an toàn công nghệ thông tin của một số cơ quan, đơn vị và các doanh nghiệp tại Việt Nam.

Ông Nguyễn Khắc Lịch, Phó giám đốc trung tâm ứng cứu khẩn cấp máy tính VIệt Nam VNCERT cho biết: “Tin tặc ngày càng tấn công có chủ đích hơn. Mục đích nó lớn hơn mục đích kinh tế, thậm chí là tấn công với mục đích chính trị. Cái hệ quả nó cũng lớn hơn, thậm chí có thể là tạo ra thảm họa, ví dụ như chúng ta thấy thời gian vừa rồi có tấn công vào cả sân bay, các hệ thống viễn thông, điện lực cũng như là những cái tấn công vào các hệ thống thông tin quan trọng của quốc gia.”

Từ đầu năm 2017 tới nay, tình hình sự cố trên không gian mạng của nước ta vẫn có những diễn biến hết sức phức tạp. Trong đó, 9 lỗ hổng hệ điều hành Windows đã được phát hiện. Tính đến đầu tháng 9 năm nay, đã có 71 tên miền và 17 địa chỉ IP máy chủ điều khiển mã độc được phát hiện ra.

(Theo An Ninh TV)

Những Băn Khoăn Trước Khi Luật An Ninh Mạng Ra Đời

Dự luật An ninh mạng được trình lần đầu tại kỳ họp thứ 4 tháng 10-2017. Khi đó các đại biểu đã tranh luận nhiều về yêu cầu bắt buộc các doanh nghiệp nước ngoài khi cung cấp dịch vụ viễn thông, internet tại Việt Nam phải đặt cơ quan đại diện, máy chủ quản lý dữ liệu người dùng Việt Nam tại Việt Nam.

Bên cạnh nhận định rằng quy định này “khó khả thi, không đúng thực tiễn, gia tăng chi phí của DN, gây khó cho tiếp cận thông tin”, các đại biểu cũng lưu ý nguy cơ “trái với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên”.

Theo giải trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khi trình lại dự luật tại kỳ họp, một số đại sứ nước ngoài tại Việt Nam (Hoa Kỳ, Úc, Canada, Liên minh Châu Âu…) đã gửi thư chung đến Chủ tịch Quốc hội bày tỏ quan ngại về yêu cầu này.

Do đó, trong dự thảo trình lần hai, yêu cầu đặt máy chủ trên lãnh thổ Việt Nam đã không còn. Tuy nhiên, yêu cầu đặt cơ quan đại diện và lưu trữ dữ liệu người dùng Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam vẫn được giữ lại.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết một số quốc gia là thành viên của WTO như Hoa Kỳ, Canada, Úc, Đức, Pháp, Đan Mạch, Phần Lan, Nga, Indonesia, Trung Quốc… đều có quy định phải lưu trữ dữ liệu trong lãnh thổ quốc gia.

Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định này đáp ứng được yêu cầu bảo vệ chủ quyền quốc gia đối với dữ liệu điện tử và xử lý các tình huống, hành vi trên không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.

Bên cạnh đó là đảm bảo các yêu cầu về chủ quyền thanh toán, chống thất thu thuế, công bằng giữa các DN trong và ngoài nước…

Đại biểu Nguyễn Hữu Cầu (Nghệ An) phản biện: “DN viễn thông cũng như các DN khác, đặt văn phòng đại diện là nguyên tắc. Thực tiễn đã có 18 nước yêu cầu và Facebook, Google đã phải thực hiện”.

Ai có thẩm quyền phán xét “thông tin xấu”?

Đại biểu Nguyễn Bá Sơn (Đà Nẵng) thì chỉ ra vấn đề trong các yêu cầu DN “tạm ngừng hoặc ngừng cung cấp thiết bị số, ứng dụng mạng để bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội”, và “ngừng cung cấp dịch vụ cho khách hàng với lý do người dùng đăng tải trên không gian mạng các nội dung tuyên truyền, chống phá nhà nước, kích động, gây bạo loạn, phá rối an ninh…”

“Đề nghị nói rõ ai có thẩm quyền làm việc này, tránh tình trạng trong quá trình áp dụng luật sẽ có sự tùy tiện”, ông Sơn nói.

Đại biểu Nguyễn Lân Hiếu (An Giang) cũng trăn trở: “Mặc dù liệt kê đủ những thông tin xấu cần ngăn chặn, gỡ bỏ, nhưng trong cuộc sống hàng ngày khó có thể khẳng định đúng, sai, nhiều khi ranh giới rất mong manh. Vậy ai là người quy định, đánh giá nội dung các thông tin được coi là vi phạm? Một cá nhân, một phòng ban hay một cục, vụ của Bộ Thông tin truyền thông, Bộ Công an?”

Ông Hiếu cũng nhìn thấy nguy cơ lớn là quyền tự do cá nhân bị lạm dụng, xâm phạm trong quy định “khi có văn bản của lực lượng bảo vệ an ninh mạng, các nhà cung cấp dịch vụ trên không gian mạng phải cung cấp tất cả các thông tin khách hàng của mình”.

Tôi rất mong Quốc hội thận trọng xem xét trước khi quyết định thông qua tại kỳ họp này. Luật này có thể thay đổi rất nhiều môi trường kinh doanh, đầu tư của Việt Nam, một nền kinh tế đang hòa nhập rất mạnh với thế giới. Cần hết sức thận trọng, tránh những ví dụ không tốt đã xảy ra trên thế giới, như nước láng giềng Indonesia vừa ra một điều luật về hệ thống thông tin và giao dịch điện tử năm 2017, ngay lập tức đã gây một số hậu quả và hiện họ đang chuẩn bị sửa chữa, bổ sung.

Bộ Luật Hồng Đức Ra Đời Năm Nào? Ý Nghĩa Ra Đời Của Bộ Luật Hồng Đức

Bộ luật Hồng Đức là bộ luật ra đời dưới thời vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức (1470 – 1497), nên gọi là Bộ luật Hồng Đức và còn có tên gọi khác là Quốc triều hình luật.

Bộ luật hồng đức ra đời năm nào?

Bộ luật Hồng Đức là một thành tựu hết sức quan trọng trong lịch sử lập pháp Việt Nam so với các triều đại trước đó cũng như nhiều nước trên thế giới.

Bộ luật Hồng Đức được tìm thấy trên hai bản ị ván khắc và một bản chép tay với tiêu đề Lê triều hình sự.

Các tài liệu này đều không ghi tên tác giả niên đại, không có lời tựa… Bộ luật này được ban bố lần đầu tiên trong khoảng những năm 1470 . 1497 dưới thời vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức.

Tuy nhiên, qua nghiên cứu lịch sử, một số nhà nghiên cứu cho rằng Bộ luật này được biên soạn và San hành từ thời vua Lê Thái Tổ (1428) và không ngừng được hoàn chỉnh, trong đó, sự đóng góp của vua Lê Thánh Tông là to lớn hơn cả.

Quốc triều hình luật trong cuốn sách A.341 có 13 chương, ghi chép trong 6 quyển (5 quyển có 2 chương/quyển và 1 quyển có 3 chương), gồm 722 điều. Ngoài ra, trước khi đi vào các chương và điều thì Quốc triều hình luật còn có các đồ biểu quy định về các hạng để tang và tang phục, kích thước và các hình cụ (roi, trượng, gông, dây sắt v.v).

Chương Danh lệ: 49 điều quy định về những vấn đề cơ bản có tính chất chi phối nội dung các chương điều khác (quy định về thập ác, ngũ hình, bát nghị, chuộc tội bằng tiền v.v)

Chương Vệ cấm: 47 điều quy định về việc bảo vệ cung cấm, kinh thành và các tội về cấm vệ.

Chương Vi chế: 144 điều quy định về hình phạt cho các hành vi sai trái của quan lại, các tội về chức vụ.

Chương Quân chính: 43 điều quy định về sự trừng phạt các hành vi sai trái của tướng, sĩ, các tội quân sự.

Chương Hộ hôn: 58 điều quy định về hộ tịch, hộ khẩu, hôn nhân-gia đình và các tội phạm trong các lĩnh vực này.

Chương Điền sản: 59 điều, trong đó 32 điều ban đầu và 27 điều bổ sung sau (14 điều về điền sản mới tăng thêm, 4 điều về luật hương hỏa, 9 điều về châm chước bổ sung luật hương hỏa) quy định về ruộng đất, thừa kế, hương hỏa và các tội phạm trong lĩnh vực này.

Chương Thông gian: 10 điều quy định về các tội phạm tình dục.

Chương Đạo tặc: 54 điều quy định về các tội trộm cướp, giết người và một số tội chính trị như phản nước hại vua.

Chương Đấu tụng: 50 điều quy định về các nhóm tội đánh nhau (ẩu đả) và các tội vu cáo, lăng mạ v.v

Chương Trá ngụy: 38 điều quy định các tội giả mạo, lừa dối.

Chương Bộ vong: 13 điều quy định về việc bắt tội phạm chạy trốn và các tội thuộc lĩnh vực này.

Chương Đoán ngục: 65 điều quy định về việc xử án, giam giữ can phạm và các tội phạm trong lĩnh vực này.

Trong bộ luật Hồng Đức, các quan hệ dân sự được đề cập tới nhiều nhất là các lĩnh vực như: quan hệ sở hữu, quan hệ hợp đồng và thừa kế ruộng đất.

QTHL đã phản ánh hai chế độ sở hữu ruộng đất trong thời kỳ phong kiến là: sở hữu nhà nước (ruộng công) và sở hữu tư nhân (ruộng tư).

Trong bộ luật Hồng Đức, do đã có chế độ lộc điền-công điền tương đối toàn diện về vấn đề ruộng đất công nên trong bộ luật này quyền sở hữu nhà nước về ruộng đất chỉ được thể hiện thành các chế tài áp dụng đối với các hành vi vi phạm chế độ sử dụng ruộng đất công như: không được bán ruộng đất công (điều 342), không được chiếm ruộng đất công quá hạn mức (điều 343), không được nhận bậy ruộng đất công đã giao cho người khác (điều 344), cấm làm sai quy định phân cấp ruộng đất công (điều 347), không để bỏ hoang ruộng đất công (điều 350), cấm biến ruộng đất công thành tư (điều 353), không được ẩn lậu để trốn thuế (điều 345) v.v

Trong lĩnh vực thừa kế, quan điểm của các nhà làm luật thời Lê khá gần gũi với các quan điểm hiện đại về thừa kế. Cụ thể: Khi cha mẹ còn sống, không phát sinh các quan hệ về thừa kế nhằm bảo vệ và duy trì sự trường tồn của gia đình, dòng họ.

Thứ hai là các quan hệ thừa kế theo di chúc (các điều 354, 388) và thừa kế không di chúc (thừa kế theo luật) với các điều 374-377, 380, 388. Điều đáng chú ý là bộ luật Hồng Đức cho người con gái có quyền thừa kế ngang bằng với người con trai là một điểm tiến bộ không thể thấy ở các bộ luật phong kiến khác. Đây chính là điểm nổi bật nhất của luật pháp triều Lê.

Hình luật là nội dung trọng yếu và có tính chất chủ đạo, bao trùm toàn bộ nội dung của bộ luật. Các nguyên tắc hình sự chủ yếu của nó là:

Vô luật bất thành hình (điều 642, 683, 685, 708, 722): trong đó quy định chỉ khép tội khi trong bộ luật có quy định, không thêm bớt tội danh, áp dụng đúng hình phạt đã quy định và nó là tương tự như trong các bộ luật hình sự hiện đại.

Chiếu cố (điều 1, 3-5, 8, 10, 16, 17, 680): trong đó quy định các chiếu cố đối với địa vị xã hội, tuổi tác (trẻ em và người già cả), tàn tật, phụ nữ v.v

Chuộc tội bằng tiền (điều 6, 16, 21, 22, 24): đối với các tội danh như trượng, biếm, đồ, khao đinh, tang thất phụ, lưu, tử, thích chữ. Tuy nhiên các tội thập ác (mười tội cực kỳ nguy hiểm cho chính quyền) và tội đánh roi (có tính chất răn đe, giáo dục) không cho chuộc.

Trách nhiệm hình sự (điều 16, 35, 38, 411, 412): trong đó đề cập tới quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và việc chịu trách nhiệm hình sự thay cho người khác.

Miễn, giảm trách nhiệm hình sự (điều 18, 19, 450, 499, 553): trong đó quy định về miễn, giảm trách nhiệm hình sự trong các trường hợp như tự vệ chính đáng, tình trạng khẩn cấp, tình trạng bất khả kháng, thi hành mệnh lệnh, tự thú (trừ thập ác, giết người).

Thưởng người tố giác, trừng phạt người che giấu (điều 25, 39, 411, 504)

Phân loại theo hình phạt (ngũ hình và các hình phạt khác)

Theo sự vô ý hay cố ý phạm tội

Theo âm mưu phạm tội và hành vi phạm tội

Tính chất đồng phạm

Thập ác: Là 10 trọng tội nguy hiểm nhất như:

Qua đó có thể thấy những điểm tiến bộ trong luật Hồng Đức là một bước tiến khá căn bản trong việc cải thiện địa vị của người phụ nữ trong xã hội phong kiến thể được gía trị thời sự và cách lập pháp tiến tiến của nền lập pháp nước ta để lại kế thừa cho Luật hôn nhân gia đình hiện đại.

Luật An Ninh Mạng: Sự Cần Thiết, Mục Đích, Ý Nghĩa Và Nội Dung Cơ Bản

Ngày 12-6-2018, Kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa IV đã thông qua Luật an ninh mạng với tỷ lệ 86,86%. Để giúp cán bộ, đảng viên và nhân dân có thông tin chính xác, hiểu rõ về văn bản Luật này, Trang Thông tin điện tử tổng hợp của Ban Nội chính Trung ương xin giới thiệu một số nội dung về Luật an ninh mạng:

1. Sự cần thiết phải ban hành Luật an ninh mạng

Với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, không gian mạng trở thành một bộ phận cấu thành không thể thiếu và đóng vai trò quan trọng trong xây dựng xã hội thông tin và phát triển kinh tế tri thức. Sự phát triển bùng nổ của công nghệ mang tính đột phá như trí tuệ nhân tạo, Internet của vạn vật, máy tính lượng tử, điện toán đám mây, hệ thống dữ liệu lớn, hệ thống dữ liệu nhanh… đã làm không gian mạng thay đổi sâu sắc cả về chất và lượng, được dự báo sẽ mang lại những lợi ích chưa từng có cho xã hội loài người nhưng cũng làm xuất hiện những nguy cơ tiềm ẩn vô cùng lớn. Nhiều quốc gia đã nhận thức rõ về những mối đe dọa đối với an ninh mạng, coi đây là thách thức mới, mối đe dọa mới có tầm quan trọng và nguy hiểm cao nên đã cụ thể hóa thành các văn bản chính sách, văn bản pháp luật như luật hoặc văn bản dưới luật tại hơn 80 quốc gia, tổ chức, liên minh quốc tế như Mỹ, Anh, Đức, Hà Lan, Pháp, Canada, Hàn Quốc, NATO… nhằm tạo ra các thiết chế, cơ sở pháp lý chống lại các nguy cơ đe dọa đến an ninh quốc gia từ không gian mạng; thành lập các lực lượng chuyên trách về an ninh mạng, tình báo mạng, chiến tranh mạng, phòng chống khủng bố mạng và tội phạm mạng. Chỉ trong vòng 06 năm trở lại đây, đã có 23 quốc gia trên thế giới ban hành trên 40 văn bản luật về an ninh mạng.

Kết quả biểu quyết thông qua Luật an ninh mạng

Thực trạng trên đã đặt đất nước ta trước những nguy cơ:

Một là, sự phát triển của mạng xã hội góp phần quan trọng phát triển kinh tế – xã hội, song cũng tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động tác động, chuyển hóa chính trị, khủng bố.

Hai là, sự phát triển của trí tuệ nhân tạo đã và đang tạo ra những thành tựu khoa học công nghệ vượt trội, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội nhưng cũng được dự báo sẽ gây nên “thảm họa” nếu không được kiểm soát chặt chẽ.

Ba là, các thiết bị kết nối internet ngày càng phổ biến không chỉ mang lại những lợi ích to lớn cho cuộc sống con người, phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh mà còn có thể bị sử dụng để tiến hành các cuộc tấn công mạng quy mô lớn.

Bốn là, các cuộc tấn công mạng có chủ đích không chỉ có thể phá hoại các mục tiêu, công trình quan trọng về an ninh quốc gia mà còn chiếm đoạt thông tin, tài liệu bí mật, chiếm đoạt để sử dụng các hệ thống dữ liệu lớn, dữ liệu nhanh phục vụ các ý đồ chính trị và hoạt động phạm tội.

Thực trạng, nguy cơ trên đã đặt ra yêu cầu bức thiết phải xây dựng và ban hành văn bản luật về an ninh mạng để phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các hành vi sử dụng không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

2. Mục đích xây dựng Luật an ninh mạng

– Hoàn thiện cơ sở pháp lý ổn định về an ninh mạng theo hướng áp dụng các quy định pháp luật một cách đồng bộ, khả thi trong thực tiễn thi hành.

– Phát huy các nguồn lực của đất nước để bảo đảm an ninh mạng, phát triển lĩnh vực an ninh mạng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân và bảo đảm quốc phòng, an ninh.

– Bảo vệ chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trên không gian mạng, xây dựng môi trường không gian mạng lành mạnh.

– Triển khai công tác an ninh mạng trên phạm vi toàn quốc, đẩy mạnh công tác giám sát, dự báo, ứng phó và diễn tập ứng phó sự cố an ninh mạng, bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; đảm bảo hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.

– Nâng cao năng lực tự chủ về an ninh mạng, hoàn thiện chính sách nghiên cứu, phát triển chiến lược, chia sẻ thông tin về an ninh mạng.

– Mở rộng hợp tác quốc tế về an ninh mạng trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi, phù hợp với pháp luật trong nước và điều ước quốc tế mà nước ta tham gia ký kết.

3. Nội dung cơ bản của Luật an ninh mạng

Luật an ninh mạng gồm 07 chương, 43 điều, quy định những nội dung cơ bản về bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; phòng ngừa, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng; triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng và quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Để bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, Luật an ninh mạng đã dành 01 chương (Chương III) quy định đầy đủ các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, xử lý nhằm loại bỏ các nguy cơ đe dọa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật, bao gồm: phòng ngừa, xử lý thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng; làm nhục, vu khống; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; phòng, chống gián điệp mạng, bảo vệ thông tin bí mật nhà nước, bí mật công tác, thông tin cá nhân trên không gian mạng; phòng ngừa, xử lý hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự; phòng, chống tấn công mạng; phòng, chống khủng bố mạng; phòng, chống chiến tranh mạng; phòng ngừa, xử lý tình huống nguy hiểm về an ninh mạng; đấu tranh bảo vệ an ninh mạng. Đây là hành lang pháp lý vững chắc để người dân có thể yên tâm buôn bán, kinh doanh hay hoạt động trên không gian mạng.

Chương IV của Luật an ninh mạng tập trung quy định về triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng một cách đồng bộ, thống nhất từ Trung ương tới địa phương, trọng tâm là các cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị, quy định rõ các nội dung triển khai, hoạt động kiểm tra an ninh mạng đối với hệ thống thông tin của các cơ quan, tổ chức này. Cơ sở hạ tầng không gian mạng quốc gia, cổng kết nối mạng quốc tế cũng là một trong những đối tượng được bảo vệ trọng điểm. Với các quy định chặt chẽ, sự tham gia đồng bộ của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân, việc sử dụng thông tin để vu khống, làm nhục, xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác sẽ được xử lý nghiêm minh. Các hoạt động nghiên cứu, phát triển an ninh mạng, phát triển công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, ứng dụng nhằm bảo vệ an ninh mạng, nâng cao năng lực tự chủ về an ninh mạng và bảo vệ trẻ em trên không gian mạng cũng được quy định chi tiết trong Chương này.

Hiện nay, dữ liệu của nước ta trên không gian mạng đã và đang bị sử dụng tràn lan với mục đích lợi nhuận mà Nhà nước chưa có đủ hành lang pháp lý để quản lý, thậm chí là bị sử dụng vào các âm mưu chính trị hoặc vi phạm pháp luật. Để quản lý chặt chẽ, bảo vệ nghiêm ngặt dữ liệu của nước ta trên không gian mạng, Luật an ninh mạng đã quy định doanh nghiệp trong và ngoài nước cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng internet và các dịch vụ giá trị gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam có hoạt động thu thập, khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra phải lưu trữ dữ liệu này tại Việt Nam trong thời gian theo quy định của Chính phủ.

Nguồn nhân lực bảo vệ an ninh mạng là một trong những yếu tố quyết định sự thành bại của công tác bảo vệ an ninh mạng. Chương V Luật an ninh mạng đã quy định đầy đủ các nội dung bảo đảm triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng, xác định lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng, ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực an ninh mạng chất lượng cao, chú trọng giáo dục, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức về an ninh mạng.

Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân cũng được quy định rõ trong Luật an ninh mạng, tập trung vào trách nhiệm của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng được bố trí tại Bộ Công an, Bộ Quốc phòng. Theo chức năng, nhiệm vụ được giao, các bộ, ngành chức năng, ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện đồng bộ các biện pháp được phân công để hướng tới một không gian mạng ít nguy cơ, hạn chế tối đa các hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng.

Mặc dù được chuẩn bị kỹ lưỡng, được đa số Đại biểu Quốc hội tán thành, nhưng do đây là đạo luật có quy định về phòng ngừa, đấu tranh, xử lý trực tiếp các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia trên không gian mạng nên vẫn còn có những ý kiến băn khoăn về nội dung Luật. Một số đối tượng chống đối đã có hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc với những luận điệu như “chống lại loài người”, “bịt miệng dân chủ”, “đàn áp bất đồng chính kiến”, “tạo rào cản kinh doanh”, “tăng chi phí cho doanh nghiệp”, “thêm giấy phép con”, “lạm quyền”, “cấm sử dụng Facebook, Google”. Đây là những thông tin hoàn toàn bịa đặt, xuyên tạc, với mục đích cản trở hoặc gây tâm lý hoang mang, nghi ngờ trong quần chúng nhân dân đối với chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về an ninh mạng. Luật an ninh mạng không có những quy định nêu trên, không tạo rào cản, không tăng thủ tục hành chính, không cấp giấy phép con và không cản trở hoạt động bình thường, đúng luật của các tổ chức, cá nhân.

4. Ý nghĩa, tác dụng của Luật an ninh mạng

Luật an ninh mạng được thông qua có ý nghĩa, tác dụng sau đây:

Bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được giao cho lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng, trực tiếp là lực lượng An ninh mạng thuộc Bộ Công an, lực lượng Tác chiến Không gian mạng thuộc Bộ Quốc phòng. Để bảo đảm phù hợp với hệ thống pháp luật trong nước, Luật an ninh mạng cũng giao Chính phủ quy định cụ thể việc phối hợp giữa Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban Cơ yếu Chính phủ, các bộ, ngành chức năng trong việc thẩm định, đánh giá, kiểm tra, giám sát, ứng phó, khắc phục sự cố đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.

– Hệ thống thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân được bảo vệ trước hoạt động tấn công mạng theo quy định của Luật an ninh mạng.

– Các hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được bảo vệ tương xứng với tầm quan trọng đối với an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.

– Quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân được bảo vệ trước các hành vi tấn công mạng.

– Luật an ninh mạng cũng quy định cụ thể cơ chế phối hợp phòng, chống tấn công mạng của các bộ, ngành chức năng, xác định trách nhiệm cụ thể của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Ban Cơ yếu Chính phủ trong phòng, chống tấn công mạng.