Ý Nghĩa Văn Bản An Dương Vương / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Bài Văn Mẫu Phân Tích Ý Nghĩa Và Giá Trị Truyện An Dương Vương Và Mị C

Đề bài: Anh/chị hãy Phân tích ý nghĩa và giá trị truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ để thấy được quan niệm của ông cha ta gửi gắm qua câu chuyện.

Bài văn Phân tích ý nghĩa và giá trị truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ

Bài văn mẫu Phân tích ý nghĩa và giá trị truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ

Truyền thuyết là những tác phẩm tự sự dân gian, kể về sự vật, sự việc có tính lịch sử theo xu hướng lý tưởng hóa. Những nhân vật trong đó thường được miêu tả, xây dựng cùng với sự ngưỡng mộ, tôn vinh của nhân dân ta dành cho họ. Đồng thời, qua những truyền thuyết, nhân dân lao động cũng gửi gắm vào đó những lời khen chê, phê phán cùng ước mơ, suy nghĩ, khát vọng của mình. Truyền thuyết An Dương Vương, Mị Châu – Trọng Thủy được lấy cảm hứng từ vị vua An Dương Vương của đất u Lạc xưa. Câu chuyện chứa đựng những giá trị, ý nghĩa và bài học sâu sắc trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

Quần thể di tích thành Cổ Loa vẫn giữ được một phần tới tận ngày nay sau hàng trăm năm vật đổi sao dời. Di tích ấy là dấu tích tồn tại, minh chứng cho sự phát triển của triều đại đất nước u Lạc mà đứng đầu là vua là An Dương Vương. Truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ” viết về sự hình thành của đất nước u Lạc, cùng những năm tháng bảo vệ và xây dựng đất nước của vua An Dương Vương. Câu chuyện còn nói về bi kịch mất nước, vì chủ quan khinh địch An Dương Vương đã để mất nước rơi vào tay giặc.

An Dương Vương vốn họ Thục, tên Phán, là một vị vua tài giỏi, có tầm nhìn xa trông rộng, có một vai trò vô cùng to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. An Dương Vương không chỉ tài năng mà còn biết coi trọng hiền tài, biết nhìn xa trông rộng, xây thành trì để chống quân thù.

Sau khi chiếm được nước Văn Lang, An Dương Vương cho đổi tên nước thành u Lạc rồi bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng thành trì phòng bị quân xâm lược. Chính ông là người đã cho xây dựng thành Cổ Loa – một công trình kiến trúc kiên cố, độc đáo bậc nhất của đất nước ta. An Dương Vương là người có tầm nhìn sâu rộng, ông hiểu rõ, thành trì có kiên cố, có vững chãi thì độc lập mới được giữ vững, nhân dân mới được bình yên. Thế nhưng, trong thời gian xây dựng thành Cổ Loa cứ “đắp tới đâu lở tới đó”, mất nhiều thời gian mà chưa được bao nhiêu. Vậy nên, nhà vua mới “lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần”, mong có được sự giúp đỡ của thánh thần để mau chóng xây thành. Đến khi có cụ già ở phương Đông xuất hiện, báo với vua sẽ có sứ thần tới giúp, An Dương Vương đã đón mời cụ vào điện hỏi han, rồi y lời cụ mà thực hiện. Nếu không phải người biết trọng hiền tài giúp nước thì làm sao An Dương Vương có thể tin tưởng một người không biết từ đâu đến như thế được? Đến khi được sứ thần Thanh Giang giúp đỡ xây xong, thành của vua trở thành một tòa thành kiên cố “rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc”. Câu chuyện không chỉ giải thích nguyên nhân tại sao lại có di tích thành Cổ Loa mà còn đưa ra lời giải thích về việc ai đã cho xây dựng một tòa thành kiên cố để chống giặc ngoại xâm.

An Dương Vương không chỉ là người xây dựng thành trì vững chãi để phòng ngừa quân thù mà ông còn là một vị vua có tầm nhìn chiến lược khi luôn có tinh thần cảnh giác cao độ trước kẻ thù. Sau khi sứ thần Thanh Giang giúp ông xây dựng được thành Cổ Loa, khi tiễn thần về cõi tiên, ông đã mở lời với thần rằng: “Sau này có giặc lấy gì mà chống?” Đây là một tinh thần cảnh giác cao độ, biết lo lắng cho sự an nguy của quốc gia. Chính vì vậy, thần Kim Quy mới rút vuốt của mình và dặn An Dương Vương chế ra Nỏ thần có thể đánh bại cả ngàn quân địch. Chính nhờ uy lực của Nỏ thần, An Dương Vương mới chiến thắng được Triệu Đà, buộc hắn phải cầu hòa và tạo nên mối tơ duyên giữa Mị Châu – Trọng Thủy. Qua đó, có thể thấy, truyền thuyết An Dương Vương, Mị Châu, Trọng Thủy đã lí giải một cách kì ảo hoá nguồn gốc của của Nỏ thần, thứ vũ khí giúp An Dương Vương giành chiến thắng trong mọi trận chiến với kẻ thù phương Bắc.

Thế nhưng, đến cuối cùng, An Dương Vương lại mất nước vào tay của kẻ thù. Tuy vậy, trước khi chết, trước lời buộc tội của thần Kim Quy với con gái của mình, ông đã thẳng tay “rút gươm chém Mị Châu” mà không hề do dự. Ở đây, An Dương Vương đã biết đặt nghĩa vụ, trách nhiệm đối với đất nước lên trên tình nghĩa cha con. Mặc dù, tình phụ tử là vô cùng thiêng liêng, sâu sắc, nhưng với tinh thần, trách nhiệm của mình đối với non sông, ông đã chọn nghĩa vụ với đất nước, với Tổ quốc.

Truyền thuyết An Dương Vương, Mị Châu, Trọng Thủy đã khẳng định vai trò của vị vua An Dương Vương trong công cuộc xây dựng và giữ gìn đất nước ta. Ông không chỉ có công lập ra một quốc gia u Lạc tự chủ, mà còn có công đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi lãnh thổ đất nước ta. Đến cuối cùng, mặc dù đã để mất nước, nhưng ông vẫn được người dân kính trọng, ngợi ca. Bằng những chi tiết kì ảo vua An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc, theo chân Rùa Vàng xuống biển – một cuộc sống bất tử, những người dân lao động muốn bày tỏ sự kính trọng, trân trọng của mình dành cho ông, tự hào rằng ông là người đã xây nên thành trì kiên cố, chế được nỏ thần, đánh đuổi quân xâm lược.

Câu chuyện không chỉ là lời giải thích cho nguyên nhân hình thành di tích thành Cổ Loa, cho những trận chiến thắng lợi vẻ vang của An Dương Vương mà nó còn là lời giải thích cho nguyên nhân để mất đi đất nước của ông và những bài học lịch sử về sự việc này.

Kể từ khi có được Nỏ thần, An Dương Vương trăm trận trăm thắng, không còn mối lo ngại về nạn giặc ngoại xâm. Thế nhưng, chính vì sự chủ quan, ỷ lại vào Nỏ thần đã khiến ông mắc mưu của hai cha con Triệu Đà. Triệu Đà cầu hòa với An Dương Vương, ngỏ ý muốn kết thân bằng việc gả con trai mình cho con gái của An Dương Vương. Nếu như ngày trước, chắc hẳn An Dương Vương sẽ luôn chủ động, không hề lơ là trước lời kết thân, thế nhưng, quá tự tin trước sức mạnh của Nỏ thần, cho rằng Triệu Đà sẽ phải e sợ trước sức mạnh đó nên ông đã chủ quan, mất cảnh giác. Để đến cuối cùng, An Dương Vương mắc phải mưu kế hiểm ác của cha con Triệu Đà, mất đi Nỏ thần, dẫn đến việc thất bại, nước mất nhà tan. Truyền thuyết là lời giải thích cho sự thất bại của An Dương Vương trong công cuộc giữ nước. Mặc dù là một vị vua tài giỏi nhưng chỉ một phút chủ quan, mất cảnh giác trước kẻ thù đã khiến quyền lợi của quốc gia, dân tộc trong phút hiểm nguy. An Dương Vương đã mắc phải những sai lầm vô cùng nghiêm trọng. Ông mơ hồ với bản chất của một kẻ thù ngoan cố, tham lam, độc ác, luôn mang trong mình suy nghĩ hiếu chiến. Kết tình thông gia với một kẻ như vậy, phải chăng An Dương Vương phải luôn đề phòng, dù kẻ đó có là con rể của mình thì hắn vẫn là con trai của kẻ thù. Ông đã để kẻ địch trà trộn vào trong hàng ngũ, cướp đi báu vật quốc gia, đây là nguyên nhân sâu xa khiến đất nước phải chịu cảnh lầm than.

Không chỉ vậy, đến khi giặc đến ngoài thành, ông vẫn ngoan cố, ỷ lại vào nỏ thần mà rằng: “Đà không sợ nỏ thần hay sao?”. Một vị vua tưởng chừng như biết lo xa, biết phòng bị bằng cách xây thành, chế nỏ, vậy mà giờ đây lại ỷ lại, quân giặc tới nơi lại chẳng hề phòng bị.

Hơn thế nữa, khi nói về Mị Châu, thân là công chúa của một nước, lạ cả tin, ngây thơ, tiếp tay cho kẻ thù cướp nước. Nàng đã đặt cả vận mệnh dân tộc vào một tình yêu mù quáng, tự tiện dâng báu vật của quốc gia vào tay kẻ thù. Vốn biết nghĩa phu thê mặn nồng là thế, nhưng tình nghĩa quốc gia, vận mệnh của cả dân tộc chẳng lẽ lại kém hay sao? Để đến khi Nỏ thần bị tráo mất bởi chính người mà mình tin tưởng, nàng vẫn chẳng hề hay biết, vẫn đơn thuần tin vào tình yêu với Trọng Thuỷ, nàng rắc lông ngỗng đánh dấu đường cho Trọng Thủy tìm theo dấu vết của hai cha con: “Thiếp có áo gấm lông ngỗng, thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ bứt lông mà rắc ở ngã ba đường làm dấu”. Phải nói rằng, không chỉ sự lơ là, thiếu cảnh giác, tin tưởng người không đúng của An Dương Vương đã gây nên cảnh nước mất nhà tan mà đó còn là lỗi của Mị Châu – một cô công chúa quá ngây thơ, cả tin, không biết đặt nghĩa vụ với quốc gia lên trước tình yêu của mình.

Tóm lại, câu chuyện là lời cảnh tỉnh, là bài học lịch sử sâu sắc dành cho chúng ta trong công cuộc dựng xây và bảo vệ đất nước. Đó là không bao giờ được mất cảnh giác, lơ là với kẻ thù, luôn đề cao tinh thần cảnh giác cao độ và đặt quyền lợi, lợi ích của quốc gia lên trên tình cảm riêng tư.

Truyền thuyết An Dương Vương, Mị Châu, Trọng Thủy không chỉ là lời giải thích cho sự hình thành của thành Cổ Loa, cho nguyên nhân mất nước của An Dương Vương cùng với bài học lịch sử trong việc dựng nước và giữ nước mà đó còn là lời giải thích cho sự tích về ngọc trai và giếng Trọng Thủy. Tương truyền, máu của Mị Châu chảy xuống biển Đông, “trai sò ăn phải đều biến thành hạt châu”, đó như là lời tri ân của nhân dân đối với một cô công chúa tội nghiệp, vì ngây thơ mà làm mất đi cả một quốc gia. Rồi Trọng Thủy – một kẻ gián điệp, gián tiếp gây nên cái chết cho vợ, khi đi tắm ở giếng, “tưởng thấy bóng dáng Mị Châu, bèn lao đầu xuống giếng mà chết”. Đây là cái kết cho những kẻ gian trá, giả dối, mượn lòng tin của kẻ khác để đạt được mục đích của mình.

Thế nhưng, chúng ta luôn thấy được một sự nhân đạo vô cùng cao cả của nhân dân dành cho những con người trong câu chuyện này. Mặc dù cả Mị Châu và Trọng Thủy đều phải chết để đền tội cho tội lỗi của mình, nhưng nhân dân lao động vẫn để họ được gặp lại nhau khi mà “người đời sau mò được ngọc ở biển Đông, lấy nước giếng này mà rửa thì thấy trong sáng hơn”. Câu chuyện cũng là lời giải thích cho sự tích ngọc trai và nước giếng Trọng Thủy.

An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy không chỉ là một câu chuyện truyền thuyết đơn thuần mà nó còn chứa đựng những ý nghĩa và giá trị sâu xa. Nó không chỉ là lời giải thích cho di tích thành Cổ Loa chín vòng, mà còn là khẳng định vai trò của vị vua An Dương Vương trong sự ra đời và suy vong của nhà nước u Lạc. Nó cũng khẳng định về nguyên nhân mất nước cùng với bài học lịch sử trong công cuộc dựng nước và giữ nước, đồng thời là bài học về tinh thần cảnh giác trước kẻ thù, ngụ trong câu chuyện về tình yêu đôi lứa.

Tìm Hiểu Văn Bản: Truyện An Dương Vương Và Mị Châu

– Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy là một trong những truyền thuyết tiêu biểu trong chuỗi truyền thuyết về Âu Lạc và An Dương Vương của kho tàng văn học dân gian phong phú của dân tộc ta. Nó là kết quả của sự đóng góp của nhiều thế hệ, nhiều tầng lớp người Việt Nam, từ người nông dân thời cổ tới các trí thức tân học đầu thế kỉ XX đến nay, người thì hình dung ra tình huống đầu tiên, người góp thêm sự việc, chi tiết, người chỉnh lí và biên soạn lại.

– Cũng giống như các tác phẩm văn học dân gian khác, truyền thuyết này có nhiều dị bản. Tình huống dị bản đặc sắc do người xã Cổ Loa (nơi có đền thờ An Dương Vương và dấu tích Loa Thành) tạo dựng, đấy là Trọng Thủy chết do chính Mị Châu hiện từ Giếng Ngọc lên vít cổ dìm xuống nước. Hẳn là do thường đến thắp hương khấn vái ở am Mị Châu (gần đền Cổ Loa), nhìn thấy nàng bị biến thành tảng đá hình người cụt đầu, thương xót, cảm thông mà căm ghét kẻ hại nước, hại vợ nên nảy sinh ra tình huống này.

– Bản kể được trích và chọn đưa vào SGK Ngữ văn 10 là từ Truyện rùa vàng trong Lĩnh Nam chính quái (Lựa chọn những chuyện quái dị ở Lĩnh Nam) do Vũ Quỳnh và Kiều Phú – hai nhà nho ở thế kỉ XV – sưu tầm và chỉnh lí, nay được Đinh Gia Khánh và Nguyễn Ngọc San dịch, NXB Văn học in năm 2001. Tên bài do người biên soạn SGK đặt.

– Truyền thuyết là một thể loại truyện dân gian, có chức năng phản ánh và lí giải các nhân vật và sự kiện lịch sử có ảnh hưởng quan trọng đối với một thời kì, bộc tộc, dân tộc, quốc gia hay địa phương.

– Đề tài lịch sử là nội dung của truyền thuyết nhưng truyền thuyết không phải là lịch sử mà là nghệ thuật. Truyền thuyết không phản ánh chính xác các sự kiện và nhân vật lịch sử mà quan tâm hơn đến sự lay động tư duy và tình cảm của người nghe sau các sự kiện và nhân vật được phản ánh.

– Ở Việt Nam, truyền thuyết được hình thành từ thời Hùng Vương dựng nước và phát triển liên tục, mạnh mẽ qua các thời kì lịch sử của dân tộc, đặc biệt là thời kì chống ngoại xâm. So với những truyền thuyết về thời kì đầu dựng nước, những truyền thuyết về sau ít yếu tố hoang đường hơn và theo sát lịch sử hơn. Sự tham gia của các yếu tố hoang tưởng kì ảo khiến cho câu chuyện hấp dẫn, sinh động hơn, góp phần lí giải lịch sử theo mong muốn của dân gian.

An Dương Vương xây thành Cổ Loa, xây mãi vẫn đổ, nhờ có Rùa Vàng giúp mới xây xong. Rùa cho nhà vua lẫy nỏ, nhờ đó mà đánh bại quân xâm lược Triệu Đà. Triệu Đà cầu hoà, cho con trai Trọng Thuỷ sang kết thân với Mị Châu, con gái An Dương Vương và ở rể trong thành Cổ Loa. Trọng Thuỷ ăn cắp lẫy nỏ, Triệu Đà liền cử quân sang tái xâm lược Âu Lạc. An Dương Vương thua trận, đem theo Mị Châu chạy trốn. Đến bờ biển, Rùa Vàng hiện lên kết tội Mị Châu, vua chém đầu con gái rồi đi xuống biển. Trọng Thuỷ tiếc Mị Châu, tự vẫn ở giếng trong thành. Mị Châu chết, máu thành ngọc trai, xác thành ngọc thạch, ngọc đem rửa nước giếng trong thành thì sáng hơn.

a. Trong quá trình giữ nước

– An Dương Vương trong những năm đầu đã làm được những việc trọng đại, thu được những thành công to lớn: chuyển đô từ miền núi về đồng bằng, xây được thành cao hào sâu, chế được nỏ tốt, chiến thắng Triệu Đà, bảo vệ độc lập chủ quyền đất nước.

+ Do An Dương Vương kiên trì, quyết tâm, không nản chí trước khó khăn, thất bại tạm thời .

+ Do An Dương Vương thành tâm cầu tài: lập đàn cầu.

+ Vua có tinh thần cảnh giác cao, có sự lo tính, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với nguy cơ xâm lược của kẻ thù (xây thành, chế nỏ).

– Thái độ của nhân dân: tôn vinh, ngưỡng mộ An Dương Vương. Hình ảnh Rùa Vàng và nỏ thần mà nhân dân sáng tạo ra chính là sự kỳ ảo hoá, thần thánh hoá, bất tử hoá sự nghiệp dựng, giữ nước chính nghĩa, hợp lòng dân của An Dương Vương. Nỏ thần là sự kỳ ảo hoá vũ khí tinh xảo của người Việt xưa.

b. Trong quá trình mất nước

+ Do An Dương Vương lơ là cảnh giác, không nhận ra dã tâm nham hiểm của Triệu Đà.

+ Vua liên tiếp mắc sai lầm: nhận lời cầu thân của Triệu Đà, cho phép Trọng Thuỷ ở rể trong thành mà không chút đề phòng, dạy dỗ con gái không nghiêm, lơ là trong việc phòng thủ bảo vệ nước, chủ quan khinh địch, sớm có mong muốn hưởng nhàn.

– Kết cục của An Dương Vương: Nhà vua rơi vào bi kịch nước mất nhà tan. Ông chỉ tỉnh ngộ khi thành đã mất, lâm vào bước đường cùng, phía sau lưng là giặc, phía trước mặt là biển khơi mênh mông, không lối thoát; tự tay ông phải chém đầu con gái yêu và kết thúc cuộc đời mình. Đó là hành động trừng phạt nghiêm khắc, đích đáng, đau đớn, đầy bi kịch.

– Thái độ của nhân dân với An Dương Vương:

+ Một mặt nêu ra bài học đắt giá cho người thủ lĩnh mất cảnh giác, để mất nước một cách bi thảm. Đó là sự trừng phạt nghiêm khắc của lịch sử.

+ Mặt khác nhân dân vẫn kính trọng những việc ông đã làm cho đất nước nên đã giảm nhẹ tội cho ông bằng cách sáng tạo ra lỗi lầm của Mị Châu và để ông cầm sừng tê đi xuống lòng biển về với Lạc Long Quân bất tử.

+ Cách hoá thân của An Dương Vương có ý nghĩa răn dạy vô cùng sâu sắc nếu so sánh với cách hoá thân của Thánh Gióng. Thánh Gióng có công cứu nước, khi hoá thì bay lên trời khiến người đời sau nhớ đến thì ngước nhìn lên ngưỡng vọng. An Dương Vương mang tội đánh mất nước, có cách hoá đi xuống lòng biển khiến người đời sau khi nhớ đến ông phải cúi nhìn sâu vào mà luôn cảnh giác với chính bản thân mình.

– Có vị trí cao trong đất nước lẽ ra phải ý thức sâu sắc được trách nhiệm cá nhân của mình với đất nước nhưng lại chỉ biết đắm chìm trong hạnh phúc lứa đôi cá nhân.

– Nàng ngây thơ cả tin đến mức sử dụng bí mật quốc gia cho tình riêng, để bảo vật giữ nước bị đánh tráo mà không hay biết.

– Khi nước đã mất vào tay Triệu Đà, trên đường chạy trốn, vẫn ngây thơ đánh dấu đường cho chồng, để nên nỗi hai cha con bị dồn vào đường cùng không lói thoát.

+ Một mặt đưa ra bản án nghiêm khắc, đích đáng trừng trị tội lỗi của nàng. Từ bi kịch của Mị Châu, nhân dân muốn nhắc nhở con cháu, đặc biệt là thế hệ trẻ cần có thái độ đúng đắn trong việc giả quyết mối quan hệ giữa nước và nhà, chung và riêng.

+ Một mặt thương cho nàng, bao dung cho nàng vì nàng có tâm hồn trong sáng, phạm tội do vô tình chứ không phải cố ý. Vì vậy, nhân dân đã sáng tạo ra lời khấn linh nghiệm của Mị Châu: máu biến thành ngọc trai, xác biến thành ngọc thạch.

– Là nhân vật truyền thuyết khá phức tạp, có nhiều mâu thuẫn.

+ Trong thời kỳ đầu, Trọng Thuỷ đóng vai trò gián điệp, theo lệnh vua cha sang dò la bí mật quốc gia của Âu Lạc, đánh cắp lãy nỏ.

+ Trong quá trình sống chung với Mị Châu, có thể Trọng Thuỷ đã yêu nàng thực sự. Câu nói trước lúc chia tay Mị Châu về nước phần nào thể hiện chân tình, sự lo lắng của Trọng Thuỷ về sự tan vỡ của hạnh phúc. Khi Mị Châu chết, Trọng Thuỷ ôm xác vợ khóc lóc, sau đó thì tự tử.

– Cái chết của Trọng Thuỷ: cho thấy sự bế tắc, sự ân hận muộn màng của y. Trọng Thuỷ vừa là kẻ thù của nhân dân Âu Lạc vừa là nạn nhân trong tham vọng bá quyền của Triệu Đà. Trọng Thuỷ bị kẹt giữa 2 tham vọng quyền lực và hạnh phúc lứa đôi. Hai tham vọng đó không dung hoà được với nhau, tạo nên mâu thuẫn không thể giải quyết trong chính con người Trọng Thuỷ, do đó y chỉ còn mỗi cách kết liễu cuộc đời vì bế tắc.

+ Một mặt nhân dân ta vẫn kết tội cướp nước của Trọng Thuỷ, cái chết vì mâu thuẫn giằng xé là cái giá hắn phải trả.

+ Mặt khác , nhân dân ta vẫn bao dung vì dù sao Trọng Thuỷ đã hối lỗi và phải trả giá, nên đã sáng tạo ra chi tiết ngọc trai biển Đông nơi Mị Châu chết sẽ sáng hơn nếu đem vào rửa nước giếng nơi Trọng Thuỷ tự vẫn thể hiện, đó coi như sự tha thứ của Mị Châu cho hắn.

– Truyện nêu ra bài học sâu sắc, thấm thía về ý thức cảnh giác trong dựng, giữ nước, bài học về cách xử lý mối quan hệ giữa nước và nhà.

– Truyện có sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố thần kỳ và cốt lõi lịch sử, sáng tạo nhân vật giàu tính tư tưởng, sử dụng nhiều hình ảnh ấn tượng.

Truyện An Dương Vương Và Mị Châu

1. a) An Dương Vương được thần linh giúp đỡ là nhờ tinh thần cảnh giác, ý chí đanh thép quyết tâm bảo vệ Tổ quốc của mình. Ông lo xây thành dù nhiều lần băng lở, tốn nhiều công sức vẫn không bỏ cuộc. Nhà vua cũng chuẩn bị cả vũ khí từ khi giặc còn ở xa chưa đến.

Tưởng tượng về sự giúp đỡ thần kì của thần linh đối với An Dương Vương cũng là một phương cách để nhân dân ca ngợi nhà vua, thế hiện lòng tự hào với chiến công đắp thành chế nỏ chiến thắng ngoại xâm của dân tộc.

b) Sự mất cảnh giác của An Dương Vương là không suy xét kĩ, mơ hồ về bản chất ngoan cố của kẻ thù xâm lược, chẳng những đồng ý cho Trọng Thủy đi lại mà còn gả con gái yêu của mình là nàng Mị Châu cho Trọng Thủy nữa. Đây chính là cơ hội tốt mở đường cho con trai đối phương lọt vào làm nội gián trong hàng ngũ của mình mà không hề hay biết. Lúc quân Triệu Đà sang đánh, vua cậy có nỏ thần vẫn điềm nhiên đánh cờ, không phòng bị chi cả nghĩa là hết sức chủ quan khinh địch.

c) Sáng tạo ra những chi tiết về Rùa Vàng, Mị Châu, nhà vua tự tay chém con gái… nhân dân muốn biểu lộ thái đô, tình cảm của mình là:

– Tỏ lòng kính trọng đối với thái độ dũng cảm của An Dương Vương, một vị anh hùng đã chiến bại.

– Phê phán thái độ mất cảnh giác: “Trái tim lầm chỗ đặt lên đầu” cùa Mị Châu.

– Giải thích vì sao mất nước nhằm xoa dịu nồi đau mất nước.

2. Để đánh giá việc Mị Châu lén đưa cho Trọng Thủy xem nỏ thần cho đúng đắn phải dựa trên hai cơ sở có tính nguyên tắc:

– Đặc trưng của thể loại truyền thuyết.

– Ý thức xã hội chính trị – thẩm mĩ của nhân dân khi đến với thể loại này.

Trước tiên, truyền thuyết là một loại hình nghệ thuật đầy tính sáng tạo, phản ánh lịch sử, kể về sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử để nhằm ca ngợi, đề cao cái đẹp, cái tốt, cái tích cực và phê phán cái xấu, cái tiêu cực theo quan niệm của nhân dân. Lịch sử nước ta từ sau thời Âu Lạc đến truyền thuyết trên được cố định hóa trong văn bản Lĩnh Nam chính quái khoảng 18 thế kỉ, nhân dân ta luôn không ngừng chăm lo giữ nước và cũng không ngừng chiến đấu vì độc lập tự do. Trong bối cảnh như thế, lòng yêu nước thương nòi, tinh thần tự hào dân tộc… nhất định phải là một trong những truyền thuyết sâu rễ bền gốc nhất và phát triển liên tục nhất.

Nói như thế là đã rõ vì sao nhân dân ta phê phán Mị Châu bằng bản án tử hình một cách đích đáng. Thấu lí nhưng nhân dân cũng rất đạt tình, thấu hiểu Mị Châu mắc tội không do chủ ý mà chỉ vô tình, ngây thơ, nhẹ dạ. Bởi vậy mà truyền thuyết đã “sắp xếp” để mai này chảy xuống nước, trai sò ăn phải đều biến thành hạt châu đúng như lời nguyền của nàng…

Trong bài thơ Tâm sự, nhà thơ Tố Hữu từng viết:

“Tôi kể người xưa chuyện Mị Châu Trái tim lầm chỗ đặt trên đầu Nỏ thần vô ý trao tay giặc Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu”.

3. Mị Châu bị thần Rùa Vàng kết tội là giặc, lại bị vua cha chém đầu. Nhưng sau đó, máu nàng hóa thành ngọc trai, xác nàng hóa thành ngọc thạch. Hư cấu như vậy, người xưa vừa bày tỏ thái độ nghiêm khắc, đã thi hành bản án của lịch sử vừa thể hiện tình cảm bao dung, thấu hiểu cảm thông với sự vô tư trong trắng, thơ ngây vì vô tình mà mắc tội của Mị Châu.

Bài học mà người xưa ở đây muốn nhắn gửi đến thế hệ trẻ gái trai muôn đời sau là phải đặt việc nước lên trên việc nhà, đặt cái chung lên trên cái riêng. Đây là bài học đạo đức cần thiết cho cả mọi người, mọi nhà, mọi thời đại.

4. Trọng Thủy trước sau vẫn là một tên gian tế. Chính hắn đã gây nên sự sụp đồ cơ đồ Âu Lạc và cái chết của hai cha con Mị Châu. Thế mà có người lại cho rằng hình tượng ngọc trai, nước giếng là để chỉ mối tình chung thủy Mị Châu – Trọng Thủy. Hãy đọc kĩ lại văn bản: Mị Châu trước khi bị vua cha trừng phạt về tội phản nghịch có khấn: “Thiếp là phận gái, nếu cớ lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù”. Liền đó “Mị Châu chết ở bờ biển, máu chảy xuống nước, trai sò ăn phải đều biến thành hạt châu”. Như vậy điều này đã minh chứng cho lòng trong trắng của nàng, khẳng định nàng vốn không có lòng phản nghịch, cho thấy cái chết của nàng dẫu sao cũng là một nỗi oan tình đáng thương.

Nói hình ảnh ngọc trai – nước giếng nhằm ca ngợi mối tình chung thủy MỊ Châu – Trọng Thủy là sai lầm, bởi lẽ những người dân Âu Lạc yêu nước không đời nào lại sáng tạo nghệ thuật để ca ngợi những kẻ đã đưa họ đến bi kịch thất quốc vong gia. Cũng phải hiểu là An Dương Vương tuy có góp phần dẫn đến bi kịch mất nước Âu Lạc, nhưng nhân dân Âu Lạc trước sau vẫn một lòng kính trọng suy tôn ông là anh hùng dân tộc.

5. Cốt lõi lịch sử của truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy là nước Âu Lạc và thời An Dương Vương đã được kiến tạo nên với thành cao, hào sâu, với vũ khí lợi hại, đủ sức đề chiến thắng cuộc xâm lược từ phương Bắc của Triệu Đà. Nhưng rất tiếc về sau đã lại rơi vào tay kẻ thù xâm lược ấy.

Cốt lõi lịch sử vừa nói đã được dân gian thần kì hóa. Nhân vật thần Rùa Vàng xuất hiện giúp An Dương Vương xây thành cổ Loa ở đầu truyện là nhằm thần kì hóa chiến công xây thành, chế nỏ bảo vệ đất nước của dân tộc ta mà đứng đầu là An Dương Vương. Đến cuối truyện, thần Rùa Vàng lại hiện lên kết án Mị Châu, rước An Dương Vương về thủy phủ nơi Lạc Long Quân ngự trị. Rồi nhân vật Mị Châu được hư cấu hóa với sự hóa thân kì diệu sau khi chết. Những chi tiết vừa nói này nhằm giải thích việc mất nước Âu Lạc qua trí tưởng tượng của một dân tộc rất đỗi yêu nước nay lần đầu bị mất nước. Cả đến Trọng Thủy với chi tiết nước giếng có hồn Trọng Thủy rửa ngọc ở biển Đông làm ngọc trong sáng thêm cũng là sản phẩm trừu tượng của những chi tiết thần kì hóa này, phù hợp với tình cảm của dân gian Âu Lạc. Điều này thỏa mãn được nhu cầu tâm lí rất đỗi thiêng liêng của nhân dân là khẳng định dứt khoát rằng An Dương Vương và nhân dân Âu Lạc mất nước không phải do bất tài mà chính do kẻ thù dùng thủ đoạn hèn hạ, lợi dụng tình yêu trai gái, nhằm vào cô gái ngây thơ cả tin như Mị Châu. Điều đó cũng là sự đáp ứng nhu cầu của dân gian Âu Lạc khẳng định sự bất tử của vị vua anh hùng dựng nước vang danh một thời, với thành Cố Loa hoành tráng, bề thế được bảo vệ bởi chiếc nỏ thần lợi hại khiến kẻ thù phương Bắc phải khiếp sợ.

Như thế đúng là sự thần kì hóa lịch sử truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy nhằm suy tôn dân tộc và đất nước, đồng thời cũng hạ thấp kẻ thù.

LUYỆN TẬP Câu 1.

Cả hai cách đánh giá a và b đều hời hợt, phiến diện đều chỉ đúng được một nửa.

Học sinh suy nghĩ tự tìm ra lời giải đáp toàn diện phù hợp với đạo lí của dân tộc và đạo lí của con người.

Câu 2.

An Dương Vương đã tự tay chém người con gái duy nhất của mình. Nhưng dân gian lại dựng đền và am thờ hai cha con bên cạnh nhau. Cách xử lí như vậy rất phù hợp với đạo lí truyền thông của dân tộc ta. Đó là cách xử lí thể hiện sự bao dung với đứa con trót có thời lầm lỡ gây tai họa cho nhân dân, nhưng cuối cùng đã hối hận và thọ hình xứng đáng. Đó cũng là đức nhân hậu của nhân dân ta.

Câu 3. Một vài bài thơ viết về Mị Châu – Trọng Thủy MỊ CHÂU Lông ngỗng rơi trắng đường chạy nạn Những chiếc lông không tự biết giấu mình. Nước mắt thành mặt trái của lòng tin Tình yêu đến cùng đường cái chết Nhưng người đẹp dẫu rơi đầu vẫn đẹp Tình yêu bị dối lừa vẫn nguyên vẹn tình yêu. Giá như trên đời còn có một Mị Châu Vừa say đắm yêu đương vừa luôn luôn cảnh giác Không sơ hở, chẳng mắc lừa mẹo giặc Một Mị Châu như ta vần hằng mơ. Thì hẳn Mị Châu không sống đến bây giờ Để chung thủy với tình yêu hai ngàn năm có lẻ Như anh với Đến bạc đầu bất quá chỉ trăm năm Nên chúng ta dù rất đỗi đau lòng Vẫn không thể cứu Mị Châu khỏi Lũ trai biển sẽ thay người nuôi tiếp Giữa lòng mình viên ngọc của tình yêu. Vẫn còn đây pho tượng đá cụt đầu Bởi đầu cụt nên tượng càng rất sống Cái đầu cụt gợi nhớ dòng máu nóng Hai ngàn năm dưới đá vẫn tuôn trào Anh cũng như em muốn nhắc Mị Châu Đời còn giặc xin đừng quên cảnh giác Nhưng nhắc sao được hai ngàn năm trước Nên em ơi ta dành tự nhắc mình. VIẾNG MỊ CHÂU Phải đâu lầm lẫn trái tim Nàng thờ chữ hiếu, duyên tin tại trời Giấy trong, lòng cạn tại người Long lanh châu ngọc để đời nỗi đau Oan đầu ngọc thạch mất đầu Trầm hương thương tiếc Mị Châu lụy tình. VIẾT BÊN CỔ LOA Mấy vòng bờ đất xoay tròn Thấp cao quãng mất, quãng còn mấp mô Là đây – dấu vết thành xưa Rùa thần giúp đắp – bây giờ tan hoang. Nơi dâu cung ngọc điện vàng Vương triều có đổ vì nàng Mị Châu? Tình yêu bị vấy mưu sâu Nghìn năm vết chém còn đau nhân tình Nơi nào Trọng Thủy trầm mình? Nỏ thần ngôi báu đã thành hư vô Ngai vàng ngự mấy đài vua Mà kê trên ngực ngây thơ đàn bà? Ơi người! Trẩy hội Cổ Loa! Con đường lông ngỗng dẫn ta về nguồn. Mai Thu chết em dẫu yêu nhau chung thủy

Ý Nghĩa Văn Bản Chiếc Lược Ngà

“Có câu nói: “Những tình cảm đẹp sẽ là động lực mạnh mẽ trong tâm hồn mỗi người!” Vì lòng yêu cha,một cô bé nhỏ mới tám tuổi nhưng nhất quyết không nhận người khác làm bố,cho dù bị đánh.Vì lòng thương con,một người chiến sỹ dù ở sa trường vẫn luôn cặm cụi làm một chiếc lược để tặng đứa con gái bé bỏng. Có người nhận xét rằng “tình phụ tử không thể ấm áp và đẹp đẽ như tình mẫu tử”.Song nếu đọc truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng ,có thể bạn sẽ phải có cái nhìn khác mới mẻ và chân thực hơn.Câu chuyện khắc họa hình ảnh một nhân vật bé Thu đầy ấn tượng và tinh tế, hơn thế lại ca ngợi tình cha con thiêng liêng,vĩnh cửu dù trong chiến tranh. Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết sức tinh tế và nhạy bén, là một cô bé giàu cá tính,bướng bỉnh và gan góc. Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm đến ghê gớm, khi mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng “Ba” , hay khi hất cái trứng mà ông Sáu gắp cho xuống,cuối cùng khi ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại. Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu,nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của bé,dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh, dù là bị dồn vào thế bí, dù là bị ông Sáu đánh, bé Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết , mạnh mẽ. Có người cho rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi “thái quá”, song thiết nghĩ chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý. Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người cha “chụp chung trong bức ảnh với má”. Người cha ấy không giống ông Sáu,không phải bởi thời gian đã làm ông Sáu già đi mà do cái thẹo trên má. Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng khuôn mặt ông Sáu. Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh,nó còn quá bé để có thể biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn,biết đến cái cay xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sỹ. Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiễu sách mà là sự kiên định, thẳng thắn, có lập trường bền chặt,bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô giao liên giải phóng sau này. Nhưng xét cho cùng, cô bé ấy có bướng bỉnh, gan góc,tình cảm có sâu sắc, mạnh mẽ thế nào thì Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ mới 8 tuổi, với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ. Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lý của trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến và trân trọng một cách đẹp đẽ,thiêng liêng những tâm tư tình cảm vô giá ấy. Khi bị ba đánh, bé Thu “cầm đũa gắp lại cái trứng cá để vào chén rồi lặng lẽ đứng dậy,bước ra khỏi mâm”. Có cảm giác bé Thu sợ ông Sáu sẽ nhìn thấy những giot nước mắt trong chính tâm tư của mình? Hay bé Thu dường như lờ mờ nhận ra mình có lỗi? Lại một loạt hành động tiếp theo “Xuống bến nó nhảy xuống xuồng,mở lòi tói,cố làm cho dây lòi tói khua rổn rang ,khua thật to,rồi lấy dầm bơi qua sông”. Bé Thu bỏ đi lúc bữa cơm nhưng lại có ý tạo tiếng động gây sự chú ý. Có lẽ co bé muốn mọi người trong nhà biết bé sắp đi , mà chạy ra vỗ về, dỗ dành. Có một sự đối lập trong những hành động của bé Thu, giữa một bên là sự cứng cỏi,già giặn hơn tuổi, nhưng ở khía cạnh khác cô bé vẫn mong được yêu quý vỗ về. Song khi “Chiều đó,mẹ nó sang dỗ dành mấy nó cũng không chịu về”, cái cá tính cố chấp một cách trẻ con của bé Thu được tác giả khắc họa vừa gần gũi,vừa tinh tế. Dù như thế thì bé Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ 8 tuổi hồn nhiên, dẫu có vẻ như cứng rắn và mạnh mẽ trước tuổi. Ở đoạn cuối, khi mà bé Thu nhận ra cha, thật khó để phủ nhận bé Thu là đứa bé giàu tính cảm. Tình cha con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay, giờ trỗi dậy, vào cái giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau. Có ai ngờ một cô bé không được gặp cha từ năm 1 tuổi vẫn luôn vun đắp một tình yêu bền bỉ và mãnh liệt với cha mình, dù người cha ấy chưa hề bồng bế nó, cưng nựng nó, săn sóc, chăm lo cho nó, làm cho nó một món đồ chơi kể từ khi nó bắt đầu làm quen với cuộc sống. Nó gần như chưa có chú ấn tượng nào về cha, song chắc không ít lần nó đã tự tưởng tượng hình ảnh người cha nó tài giỏi nhường nào,cao lớn nhường nào, có vòng tay rộng để ôm nó vào lòng ra sao? Tình cảm mãnh liệt trong nó ngăn không cho nó nhận một người đàn ông lại kia làm bố.Khi đến ngày ông Sáu phải đi,con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày hôm nào lại “như thể bị bỏ rơi”, “lúc đứng ở góc nhà, lúc đứng tựa cửa” và cứ nhìn mọi người vây quanh ba nó, dường như nó thèm khát cái sự ấm áp của tình cảm gia đình, nó cũng muốn chạy lại và ôm hôn cha nó lắm chứ, nhưng lại có cái gì chặn ngang cổ họng nó, làm nó cứ đứng nguyên ở ấy, ước mong cha nó sẽ nhận ra sự có mặt của nó. Và rồi đến khi cha nó chào nó trước khi đi, có cảm giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng. Nó không nén nổi tình cảm như trước đây nữa,nó bỗng kêu hét lên “Ba…” , “vừa kêu vừa chạy xô đến nhanh như một con sóc ,nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”, “Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”. Tiếng kêu “Ba” từ sâu thẳm trái tim bé Thu,tiếng gọi mà ba nó đã dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua, tiếng gọi ba gần gũi lần đầu tiên trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói, tiếng gọi mà ba nó tha thiết được nghe một lần. Bao nhiêu mơ ước, khao khát như muốn vỡ òa ra trong một tiếng gọi cha. Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng với nó. Lần đầu tiên nó cảm nhận mơ hồ về niềm sung sướng của một đứa con có cha. Dường như bé Thu đã lớn lên trong đầu óc non nớt của nó. Ngòi bút nhà văn khẳng định một nhân vật giảu tình cảm, có cá tính mạnh mẽ, kiên quyết nhưng vẫn hồn nhiên, ngây thơ: Nhân vật bé Thu. Không chỉ khắc họa thành công nhân vật bé Thu,truyện ngắn “Chiếc lược ngà” ca ngợi tình cha con sâu đậm mà đẹp đẽ. Bên cạnh hình ảnh bé Thu, hình ảnh ông Sáu được giới thiệu là người lính chiến tranh, vì nhiệm vụ cao cả mà phải tham gia chiến đấu,bỏ lại gia đình, quê hương; và đặc biệt ông là người yêu con tha thiết. Sau ngần ấy năm tham gia kháng chiến, ông Sáu vẫn luôn nung nấu khao khát cháy bỏng là được gặp con và nghe con gọi một tiếng cha. Nhưng cái ngày gặp lại con thì lại nảy sinh một nỗi éo le là bé Thu không nhận cha. Ông Sáu càng muốn gần gũi thì dường như sự lạnh lùng, bướng bỉnh của con bé làm tổn thương những tình cảm da diết nhất trong lòng ông. Còn gì đau đớn hơn một người cha giàu lòng thương con mà bị chính đứa con gái ấy từ chối. Có thể coi việc bé Thu hất cái trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ làm bùng lên những tình cảm mà bấy lâu nay ông dồn nén, chứa chất trong lòng. Có lẽ ông biết rằng mình cũng không đúng vì suốt bảy năm trời chẳng thể về thăm con, chẳng làm gì được cho con, nên nhân những ngày này ông muốn bù đắp cho con phần nào. Giá gì không có cái bi kịch ấy, giá gì bé Thu nhận ra ông Sáu sớm hơn, thì có thể ông Sáu và bé Thu sẽ có nhiều thời gian vui vẻ, hạnh phúc. Nhưng sợ rằng một câu truyện như vậy sẽ chẳng thể gây được cảm động cho người đọc với những xúc cảm khác nhau, có lúc dồn nén,có lúc lại thương xót, có lúc lại “mừng mừng tủi tủi” cho ông Sáu khi mà bé Thu cất tiếng gọi “Ba”, tiếng gọi muộn màng nhưng lại có ý nghĩa đẹp đẽ! Ai có thể ngờ được một người lính dạn dày nơi chiến trường, quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng yếu mềm trước con gái mình. Những giọt nước mắt hiếm hoi của một cuộc đời từng trải nhiều gian khổ vất vả,song lại rơi khi lần đầu tiên ông cảm nhận được sự ấm áp của cha con thực sự!(“Không ghìm được xúc động và không muôn cho con thấy mình khóc,anh Sáu một tày ôm con,một tay rút khăn lau nước mắt”).”Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha thì đó là mơ ước đầu tiên và duy nhất, cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng ông. Tình cảm ông Sáu dành cho bé Thu trở nên thiêng liêng, cao cả và mãnh liệt hơn biết bao khi ông tự tay làm chiếc lược ngà cho con. “Khi ông Sáu tìm được khúc ngà sung sướng như trẻ con vớ được quà”,” Ông thận trọng, tỉ mỉ…”, “Ông gò lưng khắc từng nét…” . Một loạt hành động cảm động như khẳng định tình cha con sâu đậm. Tất cả tình yêu, nỗi nhớ con dồn cả vào công việc làm chiếc lược ấy. Ông nâng niu chiếc lược như nâng niu đứa con bé nhỏ của mình. Lòng yêu con đã biến một người chiến sỹ trở thành một nghệ nhân sáng tạo tài tình, dù chỉ sáng tạo môt tác phẩm duy nhất trong đời. Cuối truyện có chi tiết ông Sáu đưa tay vào túi, móc lấy cây lược, đưa cho bác Ba và nhìn một hồi lâu. Ông Sáu hi sinh mà không kịp trăn trối điều gì, chỉ có một ánh mắt với niềm ước nguyện cháy bỏng mong người bạn của mình sẽ là người thực hiện nốt lời hứa duy nhất của mình với con. Tình cảm của ông sáu khiến người ta phải thấy ấm lòng và cảm động sâu sắc. Người mất, người còn nhưng kỷ vật duy nhất, gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại, chiếc lược ngà vẫn còn ở đây. Chiếc lược ngà là kết tinh tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ mà đằm thắm, kỳ diệu, là hiện hữu của tình cha con bất tử giữa ông Sáu và bé Thu; và là minh chứng chứng kiến lòng yêu thương vô bờ bến của ông Sáu với con. Có thể chiếc lược ấy chưa chải được mái tóc của bé Thu nhưng lại gỡ rối được tâm trạng của ông. Chiếc lược ngà xuất hiện đánh dấu một kết cấu vòng tròn cho câu chuyện, và cũng là bài ca đẹp tồn tại vĩnh cửu của tình cha con. (Nhan đề của chuyện cũng là “Chiếc lược ngà”!)

Cái mất mát lớn nhất mà thiên truyện ngắn đề cập là những người đã khuất, là tổ ấm gia đình không còn trọn vẹn. (Người đọc có thể bắt gặp tình huống này một lần nữa ở truyện “Chuyện người con gái Nam Xương”). Đó thật sự là tội ác, những đau thương mất mát mà chiến tranh tàn bạo đã gây ra. Chính chiến tranh đã làm cho con người phải xa nhau, chiến tranh làm khuôn mặt ông Sáu biến dạng,chiến tranh khiến cuộc gặp gỡ của hai cha con vô cùng éo le, bị thử thác, rồi một lần nữa chiến tranh lại khắc nghiệt để ông Sáu chưa kịp trao chiếc lược ngà đến tận tay cho con mà đã phải hi sinh trên chiến trường. Câu chuyện như một lời tố cáo chiến tranh phi nghĩa gây đổ máu vô ích, làm nhà nhà li tán, người người xa nhau vĩnh viễn. Song cái chúng ta thấy lại không có sự bi lụy ma là sức mạnh, lòng căm thù đã biến Thu trở thành một cô giao liên dũng cảm, mạnh mẽ, đã gắn bó với cuộc đời con người mất mát xích lại gần nhau để cuùng đứng lên hát tiếp bài ca chiến thắng. “Chiếc lược ngà” như một câu chuyện cổ tích hiện đại, thành công trong việc xây dựng hình thượng bé Thu và gửi gắm thông điệp đẹp về tình cha con. Nhân vật ông Ba-người kể chuyện hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng, phải là người từng trải,sống hết minh vì cách mạng kháng chiến của quê hương, gắn bó máu thịt với những con người giàu tình yêu,nhân hậu mà rất kiên cường,bất khuất, nhà văn mới có thể nhập hồn được vào các nhân vật, sáng tạo nhiều hình tượng với các chi tiết sinh động, bất ngờ, hơn nữa lại có giọng văn dung dị, cảm động! Chiến tranh là hiện thực đau xót của nhân loại, nhưng từ chính trong gian khổ khốc liệt, có những thứ tình cảm đẹp vẫn nảy nở: tình đồng chí,tình yêu đôi lứa,tình cảm gia đình,và cả tình của một người cha với con gái. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là một áng văn bất hủ ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng, với những con người giàu tình cảm và đẹp đẽ, như nhân vật bé Thu.” (Tài liệu của Thầy Phạm Hữu Cường)