Giáo Án Chí Khí Anh Hùng

Giáo án điện tử Ngữ Văn 10

Giáo án bài Chí khí anh hùng được biên soạn bởi đội ngũ giáo viên giàu kinh nghiệm với các nội dung được trình bày rõ ràng, chi tiết. Giáo án điện tử mẫu bài Chí khí anh hùng không chỉ giúp học sinh hiểu được các giá trị nội dung quan trọng mà còn cảm nhận được vẻ đẹp của tác phẩm qua các giá trị nghệ thuật.

CHÍ KHÍ ANH HÙNG

(Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du) I. Mục tiêu 1. Kiến thức

Ước mơ công lí của Nguyễn Du gửi gắm qua hình tượng nhân vật Từ Hải, một con người có phẩm chất và chí khí phi thường.

Sáng tạo đặc sắc trong việc xây dựng hình tượng anh hùng Từ Hải.

2. Kĩ năng

Củng cố kĩ năng đọc – hiểu một đoạn thơ trữ tình.

Biết cảm thụ và phân tích những câu thơ hay.

3. Thái độ

Giáo dục tình yêu thương con người và ước mơ công lí.

II. Đồ dùng dạy học

Sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu tham khảo.

Sách thiết kế giáo án.

III. Cách thức tiến hành

IV. Tiến trình dạy học 1. Ổn định lớp: 2. Kiểm tra bài cũ:

Trong đoạn trích Nỗi thương mình, những câu thơ nào khiến em xúc động nhất? Hãy phân tích?

3. Dạy bài mới

Hoạt động 1: Tìm hiểu chung về đoạn trích Hoạt động 2: Hướng dẫn đọc hiểu văn bản

Từ Hải ra đi trong hoàn cảnh nào?

Từ Hải ra đi vì lí do gì?

Theo em, Từ Hải là con người như thế nào qua hai câu đầu?

Tại sao Thúy Kiều lại muốn đi theo Từ Hải?

Lời hứa hẹn của Từ đối với Kiều thể hiện điều gì?

Thái độ và cử chỉ của Từ Hải được tác giả miêu tả như thế nào?

Qua nhân vật Từ Hải Nguyễn Du muốn gửi gắm điều gì?

I. Tìm hiểu chung 1. Vị trí đoạn trích

Từ Hải là người cứu Kiều thoát khỏi cảnh ô nhục. Hai người sống hạnh phúc bên nhau được nửa năm thì Từ Hải lại ra đi vì sự nghiệp lớn.

Đây là đoạn trích nói về cuộc chia tay giữa Từ Hải với Thúy Kiều.

2. Bố cục II. Đọc – hiểu văn bản 1. Khát vọng lên đường của Từ Hải

Hoàn cảnh ra đi:

Cuộc sống vợ chồng đang nồng nàn, đằm thắm.

Lí do ra đi:

2. Lí tưởng anh hùng của Từ Hải

Thúy Kiều một lòng một dạ muốn theo chồng mình:

Phận gái chữ tòng, chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.

Từ Hải đã từ chối mong muốn của Thúy Kiều:

Tâm phúc tương tri: hai người đã hiểu nhau sâu sắc

Sao chưa dứt khỏi nữ nhi thường tình: khuyên Thúy Kiều vượt lên chính mình để trở thành vợ một người anh hùng.

Hứa hẹn ngày trở về vinh quang:

Câu 19: quyết tâm lên đường lập chí lớn.

Câu 20: hình ảnh gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

→ Khẳng định quyết tâm và tự tin vào thành công. Thể hiện lí tưởng của một kẻ anh hùng khao khát lập nên một sự nghiệp có ý nghĩa.

Phân Tích Chí Khí Anh Hùng

Tài liệu hướng dẫn phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (Nguyễn Du) do Đọc Tài Liệu biên soạn gồm những gợi ý chi tiết giúp em phân tích đề, lập dàn ý và sơ đồ tư duy cùng với mẫu bài văn tham khảo hay.

Hướng dẫn phân tích Chí khí anh hùng (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Đề bài: Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.

1. Phân tích đề

– Yêu cầu đề bài: phân tích nội dung đoạn trích Chí khí anh hùng.

– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong đoạn trích Chí khí anh hùng.

– Phương pháp lập luận chính: Phân tích, chứng minh.

2. Hệ thống luận điểm

– Luận điểm 1: Khát vọng lên đường của người anh hùng Từ Hải.

+ Hoàn cảnh của Kiều và Từ Hải lúc chia tay

+ Tính cách và chí khí anh hùng của Từ Hải

+ Tư thế ra đi của Từ Hải

– Luận điểm 2: Cuộc đối thoại xúc động giữa Thúy Kiều và Từ Hải

+ Lời của Kiều

+ Lời của Từ Hải

+ Lời hứa của Hải với Kiều

– Luận điểm 3: Quyết tâm ra đi của người anh hùng Từ Hải.

Lập dàn ý chi tiết phân tích Chí khí anh hùng

Từ hệ thống luận điểm luận cứ trên, ta có thể xây dựng thành dàn ý chi tiết như sau:

1. Mở bài Chí khí anh hùng

– Giới thiệu sơ lược về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều:

+ Nguyễn Du (1766-1820) là đại thi hào của dân tộc, cây đại thụ của nền văn học trung đại Việt Nam.

+ Truyện Kiều là một kiệt tác văn học của ông, một trong những thành tựu tiêu biểu nhất trong nền văn học trung đại Việt Nam.

– Giới thiệu đoạn trích Chí khí anh hùng : Đoạn trích từ câu 2213 tới 2230 trong Truyện Kiều tái hiện cảnh Kiều chia tay Từ Hải để chàng ra đi thực hiện nghiệp lớn.

2. Thân bài Chí khí anh hùng * Phân tích 4 câu thơ đầu: Khát vọng lên đường của người anh hùng Từ Hải

– Hoàn cảnh cuộc sống của Kiều và Hải lúc chia tay:

+ “Nửa năm”: Khoảng thời gian Kiều và Từ Hải chung sống.

+ “Hương lửa đương nồng”: Tình yêu nồng nàn, say đắm, cuộc sống êm đềm, ngập tràn tình yêu và hạnh phúc của Thúy Kiều – Từ Hải.

– Tính cách và chí khí anh hùng của Từ Hải:

+ “Trượng phu”: chỉ người đàn ông có chí khí, bậc anh hùng với hàm nghĩa khâm phục, ngợi ca.

+ “Thoắt”: là nhanh chóng trong khoảnh khắc bất ngờ.

+ “Động lòng bốn phương”: công việc và chí lớn, khát khao tung hoành của người nam nhi

– Tư thế ra đi:

+ “Mênh mang”: chỉ sự rộng lớn đến mức gây cảm giác mung lung, mờ mịt.

+ “trông vời”: cái nhìn rộng lớn, sáng suốt.

+ “Thanh gươm yên ngựa”: một mình, một gươm, một ngựa

+ “Lên đường thẳng rong”: đi liền một mạch, không lưu luyến, bịn rịn.

* Phân tích 12 câu thơ tiếp : Cuộc đối thoại giữa Thúy Kiều và Từ Hải

– Lời của Kiều:

+ Xưng hô: “chàng – thiếp” → dịu dàng, ân cần.

+ “Phận gái chữ tòng”: Ý thức bổn phận

+ “Một lòng xin đi”: quyết tâm theo Từ Hải

– Lời của Từ Hải:

+ “Tâm phúc tương tri”: Coi Kiều là tri kỉ, hiểu mình hơn ai hết.

+ “Nữ nhi thường tình”: Người phụ nữ ủy mị, yếu đuối

– Lời hứa của Hải với Kiều

+ Mười vạn tinh binh”, “Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường” : tương lai thành công.

+ “Rõ mặt phi thường”: chứng tỏ được tài năng xuất chúng

+ “Rước nàng nghi gia” : cho Kiều danh phận, cuộc sống viên mãn

+ “Bốn bể không nhà”: thực tế khó khăn, gian nan.

+ “Theo càng thêm bận”: việc lớn sẽ bị ảnh hưởng, không quan tâm, lo cho Kiều được

+ “Đành lòng chờ đó ít lâu”: an ủi, mong Kiều bằng lòng chờ đợi.

+ “Một năm sau”: thời gian cụ thể. Hứa hẹn sẽ thành công

* Phân tích 2 câu thơ cuối: Quyết tâm ra đi của Từ Hải

– Hành động: Quyết lời, dứt áo ra đi

– Hình ảnh ẩn dụ ” chim bằng “: Là loài chim quý tượng trưng cho người anh hùng dũng mãnh, ý chí.

* Đánh giá về nghệ thuật:

– Từ ngữ trang trọng, hình ảnh ước lệ tượng trưng

– Lời đối thoại bộc lộ tính cách.

– Nghệ thuật xây dựng hình tượng người anh hùng qua dáng vẻ, hành động.

– Nghệ thuật miêu tả lí tưởng hóa nâng cao tầm vóc của nhân vật

3. Kết bài Chí khí anh hùng

– Khái quát nội dung và nghệ thuật của tác phẩm

– Ý nghĩa của đoạn trích: Thể hiện ước mơ về người anh hùng lý tưởng và ca ngợi tấm chân tình của Từ Hải và Thúy Kiều, tinh thần và chí khí anh hùng của Từ Hải, phẩm chất tốt đẹp của Thúy Kiều.

Top 3 bài văn hay phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng 1. Phân tích Chí khí anh hùng bài số 1:

Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.

Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều luôn sống trong tâm trạng chán chường, tuyệt vọng:

Biết thân chạy chẳng khỏi trời, Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.

Thế rồi Từ Hải đột nhiên xuất hiện. Từ Hải tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với tri âm, tri kỉ. Trong vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh, Từ Hải đã tinh tường nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều và với con mắt tinh đời, ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan cho mình. Nàng khiêm nhường bày tỏ:

Rộng thương cỏ nội hoa hèn, Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau

Hai người, một là gái giang hồ, một đang làm “giặc”, đều thuộc hạng người bị xã hội phong kiến khinh rẻ nhất, đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri kỉ. Từ Hải đánh giá Kiều rất cao, còn Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng tình yêu không thể giữ chân Từ Hải được lâu. Đã đến lúc Từ Hải ra đi để tiếp tục tạo lập sự nghiệp. Đoạn trích này cho thấy một Từ Hải đầy chí khí anh hùng, mà cũng đượm chút cô đơn, trống trải giữa đời.

Trước sau đối với Từ Hải, Nguyễn Du vẫn dành cho chàng thái độ trân trọng và kính phục, ở chàng, nhất cử nhất động đều thể hiện rõ chí khí, cốt cách anh hùng. Trên con đường tạo dựng nghiệp lớn, cuộc hôn nhân bất ngờ giữa chàng với Thúy Kiều chỉ là phút chốc nghỉ ngơi, chứ không phải là điểm âm, tri kỉ và cuộc hôn nhân của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ hết. Ấy vậy mà, chỉ mới sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở:

Nửa năm hương lửa đương nồng, Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương. Trông vời trời bể mênh mang, Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.

Từ Hải được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đã trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi.

Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thúy Kiều, Từ Hải đã là một anh hùng hảo hán: Dọc ngang nào biết trên đầu có ai, đã từng: Nghênh ngang một cõi biên thùy. Cái chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn. Vì thế không có gì cản được bước chân chàng.

Dù Nguyễn Du không nói cụ thể là Từ Hải ra đi làm gì nhưng nếu theo dõi mạch truyện và những câu chàng giải thích để Thúy Kiều an lòng thì người đọc sẽ hiểu cả một sự nghiệp vinh quang đang chờ chàng ở phía trước. Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng. Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa. Từ chợt động lòng bốn phương, thế là toàn bộ tâm trí hướng về trời biển mênh mang, và lập tức một mình với thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.

Chữ trượng phu trong Truyện Kiều chỉ xuất hiện một lần dành riêng để nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã dùng từ ” trượng phu” với nghĩa Từ Hải là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ thoắt thể hiện quyết định nhanh chóng, dứt khoát cùa chàng. Bốn chữ “động lòng bốn phương” nói lên được cái ý Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương” (Hoài Thanh).

Trong cảnh tiễn biệt, tác giả tả hình ảnh Từ Hải: thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong trước rồi mới đế cho Từ Hải và Kiều nói những lời tiễn biệt. Có người cho rằng nếu như vậy thì Thúy Kiều còn nói sao được nữa? Có lẽ tác giả muốn dựng cảnh tiễn biệt này khác hẳn cảnh tiễn biệt giữa Thúy Kiều – Kim Trọng, Thúy Kiều – Thúc Sinh. Từ Hải đã ở tư thế sẵn sàng lên đường. Chàng ngồi trên yên ngựa mà nói những lời tiễn biệt với Thúy Kiều. Sự thật có phải vậy không? Không chắc, nhưng cần phải miêu tả như thế mới biểu hiện được sự quyết đoán và cốt cách phi thường của Từ Hải.

Thúy Kiều biết rõ Từ Hải ra đi sẽ lâm vào tình cảnh bốn bể không nhà, nhưng vẫn khẩn thiết xin được cùng đi, nàng rằng: Phận gái chữ tòng, chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi. Ngắn gọn thế thôi, nhưng quyết tâm thì rất cao. Chữ tòng ở đây không chỉ có nghĩa như trong sách vở thánh hiền của dạo Nho: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu…, mà còn ngụ ý tiếp sức, chia sẻ nhiệm vụ, muốn cùng được gánh vác với chồng.

Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt càng thể hiện rõ chí khí anh hùng của nhân vật này:

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri, Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình? Bao giờ mười vạn tinh binh, Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp dường. Làm cho rõ mặt phi thường, Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia. Bằng nay bốn bể không nhà, Theo càng thêm bận biết là đi đâu? Đành lòng chờ đó ít lâu, Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Đã là tâm phúc tương tri có nghĩa là hai ta đã hiểu biết lòng dạ nhau sâu sắc, vậy mà sao, dường như nàng chưa thấu tâm can ta, nên chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình. Lẽ ra, nàng phải tỏ ra cứng cỏi để xứng là phu nhân của một bậc trượng phu.

Lí tưởng anh hùng của Từ Hải bộc lộ qua ngôn ngữ mang đậm khẩu khí anh hùng. Khi nói lời chia tay với Thúy Kiều chàng không quyến luyến, bịn rịn vì tình chồng vợ mặn nồng mà quên đi mục đích cao cả. Nếu thực sự quyến luyến, Từ Hải sẽ chấp nhận cho Thúy Kiều đi theo.

Từ Hải là con người có chí khí, khát khao sự nghiệp phi thường nên không thể đắm mình trong chốn buồng the. Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào, tiếng gọi của sự nghiệp thôi thúc từ bên trong. Từ Hải quyết dứt áo ra đi. Giờ đây, sự nghiệp đối với chàng là trên hết. Đối với Từ Hải, nó chẳng những là ý nghĩa của cuộc sống mà còn là điều kiện để thực hiện những ước ao mà người tri kỉ đã gửi gắm, trông cậy ở chàng. Do vậy mà không có những lời than vãn buồn bã lúc chia tay. Thêm nữa, trong lời trách Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình còn bao hàm ý khuyên Thúy Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng là vợ của một anh hùng. Cho nên sau này trong nỗi nhớ của Kiều: Cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm, không chỉ có sự mong chờ, mà còn có cả hi vọng vào thành công và vinh quang trong sự nghiệp của Từ Hải.

Từ Hải là con người rất mực tự tin. Trước đây, chàng đã ngang nhiên xem mình là anh hùng giữa chốn trần ai. Giờ thì chàng tin rằng tất cả sự nghiệp như đã nắm chắc trong tay. Dù xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng mình sẽ có trong tay mười vạn tinh binh, sẽ trở về trong hào quang chiến thắng “Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường”, “để rõ mặt phi thường” với Thúy Kiều, để đem lại vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng hết lòng yêu mến và trân trọng. Từ Hải đã khẳng định muộn thì cũng không quá một năm, nhất định sẽ trở về với cả một cơ đồ to lớn.

Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc chia tay bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của riêng mình. Lời chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy:

Quyết lời dứt áo ra đi, Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

Nguyễn Du mượn hình ảnh chim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn làm nên sự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi… tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao.

Hình ảnh: gió mây bằng đã đến kì dặm khai là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng khi cất cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi khi bay thì chín vạn dặm mới nghỉ, đối lập với những con chim nhỏ chỉ nhảy nhót trên cành cây đã diễn tả những giây phút ngây ngất say men chiến thắng của con người phi thường lúc rời khỏi nơi tiễn biệt.

Hình tượng người anh hùng Từ Hải là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du về phương diện cảm hứng và nghệ thuật miêu tả. Qua đó thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ trong việc diễn tả chí khí anh hùng cùng khát vọng tự do của nhân vật Từ Hải.

Từ Hải là hình ảnh thể hiện mạnh mẽ cái ước mơ công lí vẫn âm ỉ trong cảnh đời tù túng của xã hội cũ. Từ Hải ra đi để vẫy vùng cho phỉ sức, phỉ chí, nhưng nếu hiểu kỹ càng còn thêm một lí do nữa là vì bất bình trước những oan khổ của con người bị chà đạp như Thúy Kiều thì không hẳn là không có căn cứ. Điều chắc chắn là cái khao khát của Từ Hải muốn được tung hoành trong bốn bể để thực hiện ước mơ công lí chứ không bao giờ nhằm mục đích thiết lập một ngai vàng quyền lực tầm thường.

Nguyễn Du đã thành công trong việc chọn lựa từ ngữ, hình ảnh và biện pháp miêu tả có khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng phi thường với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động. Đoạn trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa lại rất lớn. Nó góp phần tô đậm tính cách của người anh hùng Từ Hải – nhân vật lí tưởng, mẫu người đẹp nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.

2. Phân tích Chí khí anh hùng bài số 2:

Nguyễn Du là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, được mệnh danh là đại thi hào, trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, Nguyễn Du đã để lại nhiều tác phẩm hay và có giá trị, nổi bật nhất có thể kể đến đó chính là đại kiệt tác Truyện Kiều. Đoạn trích Chí khí anh hùng là một trong những đoạn trích khá tiêu biểu, Nguyễn Du đã miêu tả chân dung cũng như khát vọng làm nên sự nghiệp lớn của người anh hùng Từ Hải.

Trong đoạn trích Chí khí anh hùng, tác giả Nguyễn Du đã tập trung miêu tả và làm nổi bật lên vẻ đẹp ý chí và phẩm chất của Từ Hải. So với nhân vật Từ Hải trong tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện thì nhân vật Từ Hải của Nguyễn Du hoàn toàn khác, đó không phải một tên tướng cướp như nguyên mẫu mà là một người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất có bản lĩnh và ý chí phi thường. Cảm hứng ca ngợi cùng bút pháp ước lệ tượng trưng khiến cho nhân vật Từ Hải hiện lên lớn lao, kì vĩ, mang đầy đủ phẩm chất của người những người anh hùng xưa.

Khi Thúy Kiều đang tuyệt vọng, chìm đắm trong cuộc sống đau khổ, ê chề nơi lầu xanh thì Từ Hải đã xuất hiện và cứu nàng ra khỏi chốn tửu sắc đầy thị phi ấy. Nhờ có Từ Hải mà Thúy Kiều được báo ân báo oán, được hưởng hạnh phúc vợ chồng như những người phụ nữ bình thường khác. Tuy cuộc sống vợ chồng hạnh phúc nhưng vẫn không thể che khuất được khát vọng lập thân to lớn của Từ Hải. Vì vậy mà dù không đành lòng nhưng Từ Hải vẫn phải để Thúy Kiều ở lại còn bản thân mình thì ra đi thực hiện hoài bão:

“Nửa năm hương lửa đương nồng Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương Trông vời trời bể mênh mang Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Thúy Kiều và Từ Hải đã có nửa năm bên nhau, cuộc sống êm ấm, hạnh phúc nhưng với hoài bão lớn của người anh hùng, Từ Hải đã “động lòng bốn phương”. Cách sử dụng từ ngữ đầy tính ước lệ đã làm nổi bật lên khát vọng lập công danh, sự nghiệp của Từ Hải. Dù yêu thương, trân trọng tình yêu với Thúy Kiều nhưng khát vọng anh hùng đã không cho phép Từ Hải lùi bước, tương lai, sự nghiệp phía trước “mênh mang” chưa xác định nhưng với bản lĩnh kiên cường, khát vọng lớn lao ấy hình ảnh ra đi của Từ Hải đẹp đẽ như những bậc trượng phu xưa.

Đối với Thúy Kiều mà nói, Từ Hải không chỉ là người chồng mà nàng thương yêu, trân trọng mà đó còn là người mà nàng mang ơn, chính Từ Hải đã cứu nàng ra khỏi chốn lầu xanh. Trước quyết định ra đi của Từ Hải, nàng biết không thể ngăn cản nhưng cũng không đành lòng để chàng ra đi đơn độc, Thúy Kiều đã bày tỏ mong muốn được đi theo để chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chàng:

“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi”

Thúy Kiều đề cao quan niệm “xuất giá tòng phu” của đạo đức Nho giáo xưa, nàng muốn được đi theo để tiện bề chăm sóc cũng như giúp đỡ cho Từ Hải. Trước yêu cầu đầy chân thành của Thúy Kiều, Từ Hải đã rất cảm động nhưng cuối cùng chàng không đồng ý vì sợ Thúy Kiều thân con gái đi theo sẽ phải chịu khổ. Như để an ủi nàng, Từ Hải đã hứa hẹn bao giờ lập lên sự nghiệp lớn sẽ rước nàng “nghi gia”:

“Từ rằng: Tâm phúc tương tri Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình? Bao giờ mười vạn tinh binh Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường Làm cho rõ mặt phi thường Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Theo Từ Hải, Thúy Kiều chưa thoát khói thói nữ nhi thường tình đồng thời đó cũng là lời động viên để nàng không phải lo lắng khi mình lên đường thực hiện nghiệp lớn. Là một người anh hùng đầu đội trời chân đạp đất, Từ Hải quyết tâm ra đi gây dựng nghiệp lớn để có thể nắm trong tay “mười vạn tinh binh”. Và khi sự nghiệp đã thành, chàng sẽ trở về để đón Kiều nghi gia trong “tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời”.

Qua những lời đối thoại của Từ Hải với Thúy Kiều trước lúc ra đi đã thể hiện được chí khí lớn lao của người anh hùng mang trong mình khát vọng lớn. Tuy nói Thúy Kiều đi theo sẽ thêm vướng bận nhưng thật ra nguyên nhân chính Từ Hải không muốn Thúy Kiều đi theo là vì không muốn nàng phải chịu khổ, sợ nàng không thể thích ứng được với cuộc sống bốn bể là nhà:

“Bằng ngay bốn bể không nhà Theo càng thêm bận, biết là đi đâu”

Để Thúy Kiều có thể yên tâm hơn, Từ Hải đã khẳng định thời gian mà mình ra đi là một năm, Từ Hải đã động viên Thúy Kiều về một tương lai chiến thắng, chàng sẽ trở về trong sự hiển hách, vinh quang:

“Đành lòng chờ đó ít lâu Chầy chăng là một năm sau vội gì.”

Cuộc chia tay giữa Từ Hải cũng thật khác lạ, đó không phải là những lời tâm tình nỉ non mà lại là những lời hứa hẹn về một tương lai tất thắng, qua đó ta có thể thấy được những phẩm chất trượng phu trong con người của Từ Hải, đó là con người dùng hành động để thể hiện tình cảm với người mình yêu.

Đoạn trích ” Chí khí anh hùng ” đã xây dựng thành công hình tượng người anh hùng đầu đội trời chân đạp đất Từ Hải, đó không chỉ là một con người giàu tình cảm mà còn là một người anh hùng có khát vọng lớn cùng ý chí, quyết tâm đầy mạnh mẽ, quyết liệt.

Nhắc đến đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, ta không thể nào không nhắc đến “Truyện Kiều” – một tác phẩm chứa đựng tinh thần nhân đạo sâu sắc, đề cao giá trị con người và lên tiếng tố cáo xã hội phong kiến thối nát. Đoạn trích ” Chí khí anh hùng” trích trong ” Truyện Kiều“, Nguyễn Du đã dành những lời thơ của mình để nói về Từ Hải – người anh hùng lí tưởng có những phẩm chất cao đẹp, phi thường.

Có thể nói trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã xây dựng một hình tượng nhân vật Từ Hải hoàn toàn mới so với hình tượng nhân vật này trong ” Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, ở ” Truyện Kiều” của Nguyễn Du, hình tượng Từ Hải giống như một tướng cướp đã bị lược bỏ, thay vào đó là một hình tượng Từ Hải như một vị anh hùng tuyệt đẹp, phi thường. Hình tượng này là sự hợp nhất của hình tượng nhân vật có tính ước lệ – là nghệ thuật miêu tả nhân vật đặc sắc của Nguyễn Du và hình tượng con người vũ trụ với nét vĩ đại, lớn lao.

Nửa năm hương lửa đương nồng Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương Trông vời trời bể mênh mang Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong

Sau khi bị mắc bẫy và rơi vào chốn lầu xanh lần thứ hai, Kiều luôn sống trong tâm trạng đau khổ, giày vò. Giữa lúc ấy, Từ Hải xuất hiện như một vị cứu tinh giúp Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh đầy nhơ nhớp ấy. Nhưng tình yêu giữa Thúy Kiều và Từ Hải vẫn không thể nào che khuất đi ước mơ gây dựng một sự nghiệp lớn lao ở con người này. Đó chính là lí do mà khi mối tình của họ vừa chớm nở được “nửa năm” thì Từ Hải đã tiếp tục lên đường với khát khao cháy bỏng gây dựng sự nghiệp của mình:

Mặc dù trong thời gian sáu tháng, tình yêu của họ luôn nồng nàn, cháy bỏng nhưng với chí lớn và khát khao công danh nghiệp lớn Từ Hải thoắt đã “động lòng bốn phương”. “Lòng bốn phương” ở đây là hình ảnh tượng trưng, ước lệ cho chí nguyện lập công danh, sự nghiệp của Từ Hải. Hình ảnh “trời bể mênh mang” cũng mang ý nghĩa tương tự như vậy. Chúng như một sự ước lệ tạo nên một tầm vóc lớn lao, phi thường cho Từ Hải. Có thể nói tình yêu hay bất cứ một cái gì cũng không đủ sức để ngăn cản được bước chân của chàng. Trong cả một tác phẩm dài, Nguyễn Du chỉ dành duy nhất một từ “trượng phu” cho Từ Hải như thể khẳng định một chí khí lớn ở chàng. Hình ảnh “thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” diễn tả một phong thái ung dung của người “trượng phu” trên con đường gây dựng sự nghiệp ấy.

Nàng rằng: Phận gái chữ tòng Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi

Đối với Thúy Kiều, Từ Hải không chỉ như một người chồng mà còn như một vị ân nhân có ơn vô cùng lớn đã cứu Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh ô nhục. Vì vậy, trước quyết tâm ra đi vì nghiệp lớn của chồng mình, Thúy Kiều đã xin đi theo để là người chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chàng:

Từ rằng: Tâm phúc tương tri Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình? Bao giờ mười vạn tinh binh Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường Làm cho rõ mặt phi thường Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia

Nàng xin đi để được làm trọn chữ “tòng” vì theo nàng thì “xuất giá tòng phu” lấy chồng thì phải theo chồng, nguyện cùng chồng gánh vác mọi chuyện. Nhưng lời Từ Hải đã quyết, như để làm an lòng Thúy Kiều:

Trước lời xin đi theo của Thúy Kiều, Từ Hải như trách Kiều: “Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”, đó cũng như một lời khuyên Kiều đừng xem nặng quá vấn đề “lấy chồng là phải theo chồng”, hãy xem nhẹ chuyện tình cảm vì sự nghiệp lớn lao của chồng. Với một quyết tâm, chí khí lớn lao, Từ Hải nói như hứa hẹn sẽ gây dựng được một cơ đồ to lớn, nắm chắc trong tay “mười vạn tinh binh” và chàng sẽ trở về để đón Kiều trong “tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời”. Lúc thành công quay trở lại cũng là lúc Từ Hải sẽ “rước nàng nghi gia”, đem lại địa vị và danh phận cho người mà chàng xem là tri âm tri kỉ. Những lời của Từ Hải vào khoảnh khắc tiễn biệt này càng làm rõ “chí khí anh hùng” của nhân vật này, thay vì những lời nói thể hiện sự bịn rịn, quyến luyến khi chia tay thì là những ước mơ, sự khẳng định nhất định sẽ thành công của chàng.

Bằng ngay bốn bể không nhà Theo càng thêm bận, biết là đi đâu

Từ Hải còn thể hiện chí khí của mình ở việc cho rằng Thúy Kiều đi theo sẽ “càng thêm bận” nhưng sâu thẳm bên trong là sự lo lắng cho Kiều khi đi theo sẽ phải chịu cực khổ, nay đây mai đó “bốn bể không nhà”:

Đành lòng chờ đó ít lâu Chầy chăng là một năm sau vội gì.

Chàng còn dám khẳng định chắc chắn thời gian mà mình sẽ quay về đó là khoảng thời gian một năm. Từ Hải khuyên Kiều ở nhà đợi chàng trở về trong sự chiến thắng vẻ vang, hiển hách:

Quyết lời dứt áo ra đi Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi

Cách chia tay của Từ Hải rất khác biệt ở chỗ những lời chia tay được thay bằng những lời hứa vào một chiến thắng không xa, sự quyến luyến được thay bằng một quyết tâm vào tương lai.

Chàng dứt khoát ra đi với một quyết tâm sắt đá như cánh chim bằng khi đã cất cánh tung bay trên bầu trời thì phải bay thật xa mới nghỉ cũng như Từ Hải khi đã chiến thắng, thành công thì mới quay trở về.

Với đoạn trích “Chí khí anh hùng“, Nguyễn Du đã xây dựng được một hình tượng người anh hùng lí tưởng hoàn toàn mới. Có thể nói Nguyễn Du đã thực sự thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật này chính bằng tài năng nghệ thuật thể hiện ở sự sáng tạo độc đáo và sự đam mê văn chương của mình.

Kiến thức bổ sung

– Ý nghĩa nhan đề đoạn trích:

+ “Chí”: mục đích cao cần hướng tới.

+ “Khí”: nghị lực để đạt tới mục đích.

– Đoạn trích Chí khí anh hùng là sáng tạo riêng của Nguyễn Du so với cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Trong ” Kim Vân Kiều truyện ” không có cảnh tiễn biệt của hai người và những nhớ mong, chờ đợi của Thuý Kiều sau đó.

– Từ Hải (? – 1556) trong chính sử vốn là một thủ lĩnh xuất quỷ nhập thần của một đám cướp biển miền duyên hải Giang Nam.

– Thái độ và ước mơ của Nguyễn Du qua Từ Hải:

+ Có giai thoại như sau: Vua Tự Đức khi đọc đến đoạn Nguyễn Du viết về Từ Hải đã đòi phạt tác giả 300 roi. Tại sao lại vậy? Vì theo giai cấp phong kiến, Từ Hải chỉ là một tên giặc cỏ. Trong ” Kim Vân Kiều truyện“, Từ Hải cũng được miêu tả là một tên có nét tướng cướp. Nhưng khi bước vào ” Truyện Kiều “, con người dám chống lại triều đình ấy được miêu tả như một anh hùng. Nguyễn Du đã dùng những hình ảnh đẹp nhất để miêu tả Từ. Từ Hải là bóng dáng của những người anh hùng nông dân khởi nghĩa với bao phen thay đổi sơn hà.

+ Thái độ của tác giả với Từ Hải: yêu quý, cảm phục. Nguyễn Du đã dồn nén giấc mơ về tự do và công lí của mình trong con người Từ Hải. Quan điểm về người anh hùng của tác giả: người anh hùng phải làm được những việc lớn lao, dám nghĩ dám làm, có dáng vẻ phóng khoáng, dứt khoát, oai nghiêm.

+ Từ Hải là hiện thân cho giấc mơ tự do, công lí của Nguyễn Du.

Sơ đồ tư duy phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng Tổng kết phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng

Đọc Hiểu Chí Khí Anh Hùng

1. Kiều bị lừa vào lầu xanh lần thứ hai, tâm trạng nàng vô cùng đau khổ và tuyệt vọng. May sao Từ Hải đột ngột xuất hiện, đã coi Kiều như một tri kỉ và cứu nàng ra khỏi lầu xanh. Hai người đều thuộc hạng người bị xã hội đương thời coi thường (một gái giang hồ và một là giặc) đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một tình cảm gắn bó của đôi tri kỉ. Từ Hải đánh giá cao sự thông minh, khéo léo và nhạy cảm của Kiều. Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng hiếm có trong thiên hạ, là người duy nhất có thể giải thoát cho nàng. Nhưng dù yêu quý, trân trọng Từ Hải, Kiều cũng không thể giữ chân bậc anh hùng cái thế. Đã đến lúc Kiều để Từ Hải ra đi lập sự nghiệp anh hùng.

2. Cách đọc

Đọc chậm, thể hiện chí khí, khát khao vẫy vùng của nhân vật Từ Hải – một nhân vật lí tưởng của Nguyễn Du.

Từ Hải xuất hiện trong tác phẩm, trước hết là một anh hùng cái thế, đầu đội trời chân đạp đất. Khi cứu Kiều ra khỏi lầu xanh, là vì việc nghĩa, là vì trọng Kiều như một tri kỉ. Nhưng khi kết duyên cùng Kiều, Từ thực sự là một người đa tình. Song dẫu đa tình, Từ không quên mình là một tráng sĩ. Trong xã hội phong kiến, đã làm thân nam nhi phải có chí vẫy vùng giữa đất trời cao rộng. Từ Hải là một bậc anh hùng có chí lớn và có nghị lực để đạt được mục đích cao đẹp của bản thân. Chính vì thế, tuy khi đang sống với Kiều những ngày tháng thực sự êm đềm, hạnh phúc nhưng Từ không quên chí hướng của bản thân. Đương nồng nàn hạnh phúc, chợt “động lòng bốn phương”, thế là toàn bộ tâm trí hướng về “trời bể mênh mang”, với “thanh gươm yên ngựa” lên đường đi thẳng.

Không gian trong hai câu thứ ba và thứ tư (trời bể mênh mang, con đường thẳng) đã thể hiện rõ chí khí anh hùng của Từ Hải.

Tác giả dựng lên hình ảnh “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong”rồi mới để cho Từ Hải và Thuý Kiều nói lời tiễn biệt. Liệu có gì phi lôgíc không ? Không, vì hai chữ “thẳng giong” có người giải thích là “vội lời”, chứ không phải lên đường đi thẳng rồi mới nói thì vô lí. Vậy có thể hình dung, Từ Hải lên yên ngựa rồi mới nói những lời chia biệt với Thuý Kiều. Và, có thể khẳng định cuộc chia biệt này khác hẳn hai lần trước khi Kiều từ biệt Kim Trọng và Thúc Sinh. Kiều tiễn biệt Kim Trọng là tiễn biệt người yêu về quê hộ tang chú, có sự nhớ nhung của một người đang yêu mối tình đầu say đắm mà phải xa cách. Khi chia tay Thúc Sinh để chàng về quê xin phép Hoạn Thư cho Kiều được làm vợ lẽ, hi vọng gặp lại rất mong manh vì cả hai đều biết tính Hoạn Thư, do đó gặp lại được là rất khó khăn. Chia tay Từ Hải là chia tay người anh hùng để chàng thoả chí vẫy vùng bốn biển. Do vậy, tính chất ba cuộc chia biệt là khác hẳn nhau.

Lời Từ Hải nói với Kiều lúc chia tay thể hiện rõ nét tính cách nhân vật. Thứ nhất, Từ Hải là người có chí khí phi thường. Khi chia tay, thấy Kiều nói :

Nàng rằng : “Phận gái chữ tòng, Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.

Từ Hải đã đáp lại rằng :

Từ rằng : “Tâm phúc tương tri, Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”.

Trong lời đáp ấy bao hàm lời dặn dò và niềm tin mà Từ Hải gửi gắm nơi Thuý Kiều. Chàng vừa mong Kiều hiểu mình, đã là tri kỉ thì chia sẻ mọi điều trong cuộc sống, vừa động viên, tin tưởng Kiều sẽ vượt qua sự bịn rịn của một nữ nhi thường tình để làm vợ một người anh hùng. Chàng muốn lập công, có được sự nghiệp vẻ vang rồi đón Kiều về nhà chồng trong danh dự :

Bao giờ mười vạn tinh binh, Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường. Làm cho rõ mặt phi thường, Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”.

Quả là lời chia biệt của một người anh hùng có chí lớn, không bịn rịn một cách yếu đuối như Thúc Sinh khi chia tay Kiều. Sự nghiệp anh hùng đối với Từ Hải là ý nghĩa của sự sống. Thêm nữa, chàng nghĩ có làm được như vậy mới xứng đáng với sự gửi gắm niềm tin, với sự trông cậy của người đẹp.

Thứ hai, Từ Hải là người rất tự tin trong cuộc sống :

Đành lòng chờ đó ít lâu, Chầy chăng là một năm sau vội gì !

Từ ý nghĩ, đến dáng vẻ, hành động và lời nói của Từ Hải trong lúc chia biệt đều thể hiện Từ là người rất tự tin trong cuộc sống. Chàng tin rằng chỉ trong khoảng một năm chàng sẽ lập công trở về với cả một cơ đồ lớn.

Trong đoạn trích, tác giả đã sử dụng kết hợp nhuần nhuyễn từ Hán Việt và ngôn ngữ bình dân, dùng nhiều hình ảnh ước lệ và sử dụng điển cố, điển tích. Đặc biệt, nhân vật Từ Hải được Nguyễn Du tái tạo theo khuynh hướng lí tưởng hoá. Mọi ngôn từ, hình ảnh và cách miêu tả, Nguyễn Du đều sử dụng rất phù hợp với khuynh hướng này.

Về từ ngữ, tác giả dùng từ trượng phu, đây là lần duy nhất tác giả dùng từ này và chỉ dùng cho nhân vật Từ Hải. Trượng phu nghĩa là người đàn ông có chí khí lớn. Thứ hai là từ thoắt trong cặp câu :

Nửa năm hương lửa đương nồng, Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Nếu là người không có chí khí, không có bản lĩnh thì trong lúc hạnh phúc vợ chồng đang nồng ấm, người ta dễ quên những việc khác. Nhưng Từ Hải thì khác, ngay khi đang hạnh phúc, chàng “thoắt” nhớ đến mục đích, chí hướng của đời mình. Tất nhiên chí khí đó phù hợp bản chất của Từ, thêm nữa, Từ nghĩ thực hiện được chí lớn thì xứng đáng với niềm tin yêu và trân trọng mà Thuý Kiều dành cho mình. Cụm từ động lòng bốn phương theo Tản Đà là “động bụng nghĩ đến bốn phương” cho thấy Từ Hải “không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương” (Hoài Thanh). Hai chữ dứt áo trong Quyết lời dứt áo ra đi thể hiện được phong cách mạnh mẽ, phi thường của đấng trượng phu trong lúc chia biệt.

Về hình ảnh, “Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi” là một hình ảnh so sánh thật đẹp đẽ và đầy ý nghĩa. Tác giả muốn ví Từ Hải như chim bằng cưỡi gió bay cao, bay xa ngoài biển lớn. Không chỉ thế, trong câu thơ còn diễn tả được tâm trạng của con người khi được thoả chí tung hoành “diễn tả một cách khoái trá giây lát con người phi thường rời khỏi nơi tiễn biệt”. Nói thế không có nghĩa là Từ Hải không buồn khi xa Thuý Kiều mà chỉ khẳng định rõ hơn chí khí của nhân vật. Hình ảnh : “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong” cho thấy chàng lên ngựa rồi mới nói lời tiễn biệt, điều đó diễn tả được cái cốt cách phi thường của chàng, của một đấng trượng phu trong xã hội phong kiến.

Về lời miêu tả và ngôn ngữ đối thoại cũng có những nét đặc biệt. Kiều biết Từ Hải ra đi trong tình cảnh “bốn bể không nhà” nhưng vẫn nguyện đi theo. Chữ “tòng” không chỉ giản đơn như trong sách vở của Nho giáo rằng phận nữ nhi phải “xuất giá tòng phu” mà còn bao hàm ý thức sẻ chia nhiệm vụ, đồng lòng tiếp sức cho Từ khi Từ gặp khó khăn trong cuộc sống. Từ Hải nói rằng sao Kiều chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình không có ý chê Kiều nặng nề mà chỉ là mong mỏi Kiều cứng rắn hơn để làm vợ một người anh hùng. Từ nói ngày về sẽ có 10 vạn tinh binh, Kiều tin tưởng Từ Hải. Điều đó càng chứng tỏ hai người quả là tâm đầu ý hợp, tri kỉ, tri âm.

Đoạn trích ngợi ca chí khí anh hùng của nhân vật Từ Hải và khẳng định lại một lần nữa tình cảm của Thuý Kiều và Từ Hải là tình tri kỉ, tri âm chứ không chỉ đơn thuần là tình nghĩa vợ chồng.

Đọc đoạn thơ (trích Truyện Kiều – Nguyễn Du) thể hiện hình ảnh Từ Hải sau khi giúp Kiều trả ân báo oán :

Nàng từ ân oán rạch ròi, Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng. Tạ ân, lạy trước Từ công : “Chút thân bồ liễu mà mong có rày ! Trộm nhờ sấm sét ra tay, Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi ! Khắc xương ghi dạ xiết chi, Dễ đem gan óc đền nghì trời mây !”. Từ rằng : “Quốc sĩ xưa nay, Chọn người tri kỉ một ngày được chăng ? Anh hùng tiếng đã gọi rằng : Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha. Huống chi việc cũng việc nhà, Lọ là thâm tạ mới là tri ân ! Xót nàng còn chút song thân, Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa. Sao cho muôn dặm một nhà, Cho người thấy mặt là ta cam lòng”. Vội truyền sửa tiệc quân trung, Muôn binh, nghìn tướng hội đồng tẩy oan. Thừa cơ trúc chẻ, ngói tan, Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài. Triều đình riêng một góc trời, Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà. Đòi phen gió quét mưa sa, Huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam. Phong trần mài một lưỡi gươm, Những phường giá áo, túi cơm sá gì ! Nghênh ngang một cõi biên thuỳ, Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương ! Trước cờ, ai dám tranh cường ? Năm năm hùng cứ một phương hải tần !

(Theo Đào Duy Anh, Từ điển “Truyện Kiều”, Sđd)

Văn Nghị Luận Chí Khí Anh Hùng Lớp 10

Đề bài: Nghị luận về Chí khí anh hùng

“Lòng bốn phương” và “mặt phi thường” là những cụm từ đẹp, trang trọng mà Nguyễn Du đã dùng để nói về người anh hùng Từ Hải. “Bốn phương” nam, bắc, tây, đông có nghĩa là thiên hạ thế giới. “Lòng bốn phương” là chí nguyện lập công danh, sự nghiệp của người làm trai, ở đây là người anh hùng. “Mặt phi thường” là gương mặt của người xuất chúng, hơn người (hiểu theo nghĩa tài năng, bản lĩnh, đức độ). Nguyễn Du đã dùng những hình tượng – khái niệm có tính chất vũ trụ (“lòng bốn phương”) để chỉ phẩm chất xuất chúng (“mặt phi thường”) của Từ Hải. Tác giả muốn ví Từ Hải như chim bằng cưỡi gió bay cao,bay xa ngoài biển lớn.Không chỉ thể trong câu thơ còn diễn tả được tâm trạng của con người khi được thỏa chí tung hoành “diễn tả một cách khoái trá trong giây lát con người phi thường rời khỏi nơi tiễn biệt”.Chia li và hội ngộ,hội ngộ và chia ly, hai sự kiện trái ngược và nối tiếp chia cái đời thường của mỗi người ra thành những chặng đường giàu ý nghĩa hơn.Phải,nếu không có chia li và hội ngộ, cuộc sống chỉ là một dòng chảy đơn điệu và tẻ nhạt.Nếu hội ngộ là sướng vui,hạnh phúc thì chia li là sầu muộn, đau buồn. Hai cụm từ này có quan hệ gắn bó với nhau trong việc miêu tả chân dung người anh hùng. Phải là người có chí lớn (lòng bốn phương) thì mới thành người có tài cao, mới hiển danh thành đạt được (mới “rõ mặt phi thường”). Hai cụm từ vừa là khái niệm, vừa là hình tượng văn học, có quan hệ tương hỗ: người anh hùng là người xuất chúng, phi phàm, đồng thời lại là con người vũ trụ chứ không phải là người thường. Văn học trung đại tả người anh hùng thường gắn với các hình tượng thiên nhiên, không gian vũ trụ. Bốn câu thơ mà dựng lên một con người kỳ vĩ, đáng khâm phục, từ cái chí lớn, cho đến dáng vẻ, và nhất là sự “dứt áo ra đi”: Nửa năm hương lửa đương nồng Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương. Lí tưởng anh hùng của Từ Hải bộc lộ qua ngôn ngữ khi Từ Hải đối thoại với Kiều. Đây là một lời nói đẹp, mang khẩu khí của người anh hùng. Chỉ có điều, bút pháp ước lệ lại gắn bó chặt chẽ với cảm hứng vũ trụ để tôn cao, lý tưởng hóa vẻ đẹp của người anh hùng. “Lòng bốn phương” là khái niệm có nội hàm diễn tả lí tưởng con người có tầm vóc vũ trụ đồng thời lại mang tính ước lệ để nói lên con người có chí khí lớn lao. Hình tượng “trông vời trời bể mênh mang” vừa ước lệ (không tả cái nhìn cụ thể) lại vừa tạo nên ấn tượng về tầm vóc vũ trụ của Từ Hải. Các hình tượng khác như bốn bể, chim bằng, gió mây cũng vừa mang tính ước lệ vừa gợi lên tầm vóc vũ trụ của người anh hùng. Một loạt hình ảnh như vậy được tập trung trong một đoạn thơ ngắn đã khắc họa thành công và làm nổi bật chân dung người anh hùng Từ Hải với một vẻ đẹp lí tưởng. Trước hết, Từ Hải không quyến luyến, bịn rịn vì tình yêu mà quên lí tưởng cao cả. Khi Kiều ngỏ ý muốn đi theo, Từ Hải đã nói: “Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?” (Nếu quyến luyến, chấp nhận cho Kiều đi theo, đó là thói thường nhi nữ).

Đó đều là ước lệ. Chỉ có điều, bút pháp ước lệ lại gắn bó chặt chẽ với cảm hứng vũ trụ để tôn cao, lí tưởng hóa vẻ đẹp của người anh hùng. “Lòng bốn phương” là khái niệm có nội hàm diễn tả lí tưởng con người có tầm vóc vũ trụ đồng thời lại mang tính ước lệ để nói lên con người có chí khí lớn lao. Chỉ có điều, bút pháp ước lệ lại gắn bó chặt chẽ với cảm hứng vũ trụ để tôn cao, lý tưởng hóa vẻ đẹp của người anh hùng. “Lòng bốn phương” là khái niệm có nội hàm diễn tả lí tưởng con người có tầm vóc vũ trụ đồng thời lại mang tính ước lệ để nói lên con người có chí khí lớn lao. Hình tượng “trông vời trời bể mênh mang” vừa ước lệ (không tả cái nhìn cụ thể) lại vừa tạo nên ấn tượng về tầm vóc vũ trụ của Từ Hải. Các hình tượng khác như bốn bể, chim bằng, gió mây cũng vừa mang tính ước lệ vừa gợi lên tầm vóc vũ trụ của người anh hùng. Một loạt hình ảnh như vậy được tập trung trong một đoạn thơ ngắn đã khắc họa thành công và làm nổi bật chân dung người anh hùng Từ Hải với một vẻ đẹp lí tưởng. Điều đó nói lên sự trân trọng, kính phục và thái độ ngợi ca, khẳng định của Nguyễn Du đôi với Từ Hải (Nguyễn Du đã có sự nhận thức lại nhân vật Từ Hải so với nhân vật Từ Hải trong Kim Vân Kiều truyện vốn chỉ là một con người tầm thường thành một nhân vật anh hùng lí tưởng trong Truyện Kiều của mình). Hình tượng “trông vời trời bể mênh mang” vừa ước lệ (không tả cái nhìn cụ thể) lại vừa tạo nên ấn tượng về tầm vóc vũ trụ của Từ Hải.

Bài phân tích và dàn ý nghị luận bài thơ Chí khí anh hùng

Đó là cách xử sự bất thường,dứt khoát của Từ Hải. Hình ảnh không gian hoành tráng với “mười vạn tinh binh”, với “tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường” gợi lên khát vọng lớn lao, tầm vóc vũ trụ của người anh hùng xưa. Đây không phải là lời nói khoa trương mà là một lời nói có cơ sở của một con người tự tin vào tài năng và bản lĩnh của mình để có được một lời hứa ngắn gọn, dứt khoát, chắc nịch: “Chầy chăng là một năm sau vội gì!” Và sự thực đã chứng tỏ điều đó như truyện đã miêu tả sự trở về trong thắng lợi huy hoàng của Từ Hải. Tác giả muốn ví Từ Hải như chim bằng cưỡi gió bay cao,bay xa ngoài biển lớn.Không chỉ thể trong câu thơ còn diễn tả được tâm trạng của con người khi được thỏa chí tung hoành “diễn tả một cách khoái trá trong giây lát con người phi thường rời khỏi nơi tiễn biệt”.Chia li và hội ngộ,hội ngộ và chia ly, hai sự kiện trái ngược và nối tiếp chia cái đời thường của mỗi người ra thành những chặng đường giàu ý nghĩa hơn.Phải,nếu không có chia li và hội ngộ, cuộc sống chỉ là một dòng chảy đơn điệu và tẻ nhạt.Nếu hội ngộ là sướng vui,hạnh phúc thì chia li là sầu muộn, đau buồn.

Ở đây cũng vậy “Lòng bốn phương”, “mặt phi thường”, “cánh chim bằng”… đều là ước lệ. Chỉ có điều, bút pháp ước lệ lại gắn bó chặt chẽ với cảm hứng vũ trụ để tôn cao, lý tưởng hóa vẻ đẹp của người anh hùng. “Lòng bốn phương” là khái niệm có nội hàm diễn tả lí tưởng con người có tầm vóc vũ trụ đồng thời lại mang tính ước lệ để nói lên con người có chí khí lớn lao. Hình tượng “trông vời trời bể mênh mang” vừa ước lệ (không tả cái nhìn cụ thể) lại vừa tạo nên ấn tượng về tầm vóc vũ trụ của Từ Hải. Các hình tượng khác như bốn bể, chim bằng, gió mây cũng vừa mang tính ước lệ vừa gợi lên tầm vóc vũ trụ của người anh hùng. Một loạt hình ảnh như vậy được tập trung trong một đoạn thơ ngắn đã khắc họa thành công và làm nổi bật chân dung người anh hùng Từ Hải với một vẻ đẹp lí tưởng. Điều đó nói lên sự trân trọng, kính phục và thái độ ngợi ca, khẳng định của Nguyễn Du đôi với Từ Hải (Nguyễn Du đã có sự nhận thức lại nhân vật Từ Hải so với nhân vật Từ Hải trong Kim Vân Kiều truyện vốn chỉ là một con người tầm thường thành một nhân vật anh hùng lí tưởng trong Truyện Kiều của mình).

Cách tả người anh hùng Từ Hải trong đoạn trích của Nguyễn Du nằm trong cách tả người anh hùng nói chung của văn học trung đại nhưng vẫn mang nét riêng của ngòi bút Nguyễn Du. Phải,nếu không có chia li và hội ngộ, cuộc sống chỉ là một dòng chảy đơn điệu và tẻ nhạt.Nếu hội ngộ là sướng vui,hạnh phúc thì chia li là sầu muộn, đau buồn. Cách tả người anh hùng Từ Hải ở đây có hai đặc điểm: hình tượng có tính ước lệ và hình tượng con người vũ trụ. Tính ước lệ là một đặc trưng nổi bật của thi pháp văn học trung đại, đặc biệt trong việc tả người. Giai nhân (người đẹp) tả theo bút pháp ước lệ thì anh hùng cũng vậy. Ở một đoạn khác, Từ Hải được tả rất ước lệ.

Viết Bài Nghị Luận Văn Học Chí Khí Anh Hùng

Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam, ông có đóng góp to lớn đối với văn học dân tộc về nhiều phương diện nội dung và nghệ thuật, xứng đáng là thiên tài văn học. Tác phẩm “Truyện Kiều” là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông. Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã đồng cảm với khát vọng tình yêu và công lý của con người. Nếu khát vọng tình yêu tự do Nguyễn Du gửi gắm vào nhân vật Thúy Kiều thì qua nghị luận văn học chí khí anh hùng Nguy khát vọng về công lý ông gửi gắm vào nhân vật Từ Hải – một người chí khí, một người siêu phàm. Con người ấy đến từ một giấc mơ và ở lại như một huyền thoại. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” là một đoạn trích tiêu biểu khắc họa rõ nét nhất về chí khí của người anh hùng Từ Hải.

1, Viết bài nghị luận văn học chí khí anh hùng đoạn 1: Quyết định ra đi của Từ Hải

Người anh hùng Từ Hải và nàng Kiều tài sắc đang sống êm đềm bên nhau nhưng chàng muốn có sự nghiệp lớn.nên sau nửa năm đã quyết định từ biệt Kiều ra đi. 4 câu thơ đầu đã cho ta thấy rõ khát vọng lên đường của người anh hùng

Nửa năm hương lửa đương nồng, Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương. Trông vời trời bể mênh mang, Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.

Nửa năm: thời gian TK – Từ Hải sống bên nhau

“Thoắt” (Tính từ): Chỉ sự dứt khoát, mau lẹ, kiên quyết, nhanh chóng trong khoảnh khắc bất ngờ. Nói lên cách xử sự dứt khoát, khác thường của Từ Hải.

Câu thơ miêu tả vẻ đẹp người anh hùng trong chí khí anh hùng đặc sắc nhất đó chính là

2, Viết bài nghị luận văn học chí khí anh hùng đoạn 2: Lời hứa hẹn với Kiều

Trước ý chí quyết tâm mưu cầu nghiệp lớn của Từ Hải, TK chấp nhận và ngỏ ý muốn theo Từ Hải. Từ Hải đã từ chối mong muốn của Kiều và thể hiện rõ lý tưởng anh hùng của mình

Nàng rằng: “Tâm phúc tương tri, Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

“Tâm phúc tương tri”: Coi Kiều là tri kỉ của mình, hiểu Từ Hải hơn ai hết, hơn hẳn người vợ bình thường – tầm thường.

“Nữ nhi thường tình”: khuyên Kiều vượt lên tình cảm thông thường để xứng làm vợ một anh hùng.

Bao giờ mười vạn tinh binh, Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường. Làm cho rõ mặt phi thường, Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia. Bằng nay bốn bể không nhà Theo càng thêm bận biết là đi đâu? Đành lòng chờ đó ít lâu, Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Trong đoạn 2 bài thơ chí khí anh hùng lớp 10 người anh hùng nêu lên lý tưởng của mình:

“Bốn bể không nhà”: Thực tế gian nan, vất vả của buổi đầu lập nghiệp.

Lời hẹn: “Một năm sau”: Khẳng định ý chí, bản lĩnh, sự tự tin.

3, Viết bài nghị luận văn học chí khí anh hùng đoạn 3: Hình ảnh dứt áo ra đi của anh hùng Từ Hải