Ý Nghĩa Văn Bản Xa Ngắm Thác Núi Lư / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Văn Bản “Xa Ngắm Thác Núi Lư”.

[Văn 7] Văn bản “Xa ngắm thác núi Lư”.

Cảm nghĩ của em về cảnh đẹp và tâm hồn tác giả được khắc hoạ trong bài xa ngắm thác núi Lư của Lí Bạch

Nắng rọi Hương Lô khói tía bay Xa trông dòng thác trước sông này. Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước, Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây.

Đầu đề của nguyên tác là: “Vọng Lư Sơn bộc bố”,nghĩa là xa ngắm thác bạc trên Lư Sơn.Lư Sơn là dãy núi ở Sơn Tây,Trung Quốc có nhiều ngọn chạy dài,nhưng chỉ có một ngọn là có thác đổ :

Nắng rọi Hương Lô khói tía bay, Xa trông dòng thác nước sông này.

Hương Lô hay Hương Lư là núi Lư Hương,một ngọn của dây núi Lư trông giống như chiếc bình hương.Hai câu đầu của bài thơ là cảnh tổng quát của bức tranh sông núi hùng vĩ.Nhà thơ đứng ngắm thác từ phía xa và ở một vị trí thấp hơn nhiều so với chiều cao của thác.Do đó,trước mắt ông,cảnh dòng thác và núi Lư đâu khác gì một bức tranh sơn thủy treo ở lưng chừng trời.Bức tranh này có nhiều màu sắc và có vẻ đẹp huyền ảo.Ở độ cao ba ngàn thước,dòng thác đổ xuống như bay hơi nước bốc lên thành những làn khói.Các làn khói nước này với muôn ngàn thấu kính li ti được ánh nắng mặt trời rọi vào,tạo nên một sắc tía cầu vồng kỳ ảo,đó là khói tía.Màu vàng của nắng,sắc tía của khói nước gợi nên vẻ đẹp huyền ảo của toàn cảnh.Dáng núi lại gợi hình giống chiếc bình hương.Bởi vậy,khi nhìn vào,nhà thơ chợt nghĩ đến chiếc bình hương khổng lồ đang tỏa khói nghi ngút giữa trời và nước.

Bức tranh kỳ vĩ của núi sông này như được bàn tay này của người thợ vẽ tài hoa là tạo hóa đã pha màu tạo sắc.Giữa nền xanh của núi,hơi nước trắng rọi tỏa bay như khói hương là dòng nước bạc đồ sộ,tuôn dài như một tấm vải trắng.Chữ Hán “bộc” là thác,”bố” là tấm vải.”Bộc bố” ý nói thác nước tuôn như một tấm vải trắng:

Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,

Lời thơ và nhịp thơ mạnh mẽ làm nổi bật hẳn lên hình ảnh hùng vĩ,kỳ diệu của một dòng thác từ trên cao gần ba ngàn thước bay thẳng xuống.

Chỉ với ba câu thơ ngắn,ngòi bút tài tình của nhà thơ Lí Bạch,khung cảnh Lư Sơn như hiện ra trước mắt ta với đầy đủ màu sắc,hình khối,đường nét…Nhưng dường như ba câu thơ ấy chỉ để chuẩn bị.Sức mạnh của bài thơ,vẻ đẹp huyền ảo kỳ vĩ và đồ sộ của dòng thác núi Lư đã được dồn vào câu kết:

Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.

Câu thơ trước hết là cảm nghĩ của nhà thơ khi đứng trước cảnh thực.Ông so sánh thác bay thẳng xuống như dải Ngân Hà tuột khỏi mây.Thật là một so sánh sáng tạo bất ngờ đầy thú vị và sảng khoái cho người đọc : “Nghi thị Ngân Hà lạc hữu thiên”.Dải Ngân Hà là nơi tập trung dày đặc muôn vàn tinh tú vắt ngang trời.Ánh sáng của dải sao này được so sánh với dòng sông bạc trên trời.Cách so sánh ấy cũng làm tôn thêm vẻ đẹp kỳ vĩ của dòng thác nui Lư có thực ở trần thế.

Thấy dòng thác lấp lánh bạc đổ xuống tưởng như dải Ngân Hà lạc khỏi chín tầng mây ở trời cao,cao lắm,rơi xuống hạ giới,vào thời đại bấy giờ,đây là hình ảnh đầy tự hào về trí tưởng tượng của nhà thơ trước khung cảnh hùng vĩ và đầy thi vị của thiên nhiên.

Bài “Xa ngắm thác núi Lư” của Thi tiên Lí Bạch đã lưu lại muôn đời bằng phương tiện văn học cái đẹp hùng vĩ của một dòng thác khổng lồ kì lạ.

Càng đọc thơ ông,ta càng yêu thiên nhiên đất nước và càng khâm phục thi tài của ông,khâm phục sự phóng khoáng của một nhà thơ có trí tưởng tượng dồi dào,phong phú;có nghệ thuật sử dụng ngôn từ tài hoa vào bậc nhất đời Đường.

Nguồn từ: [Hãy đăng kí thành viên hay đăng nhập để xem liên kết này.]

– -¤–^]. .Hạnh phúc là khi ta[^–¤- – – -¤–^] . . yêu thương . . . . .[^–¤- – – -¤–^] và được yêu thương.[^–¤- – – -¤–^]để biết ta đang sống[^–¤- –

Vẻ đẹp độc đáo, hùng vĩ tráng lệ của thác nước núi Lư qua cảm nhận đầy hứng khởi của thiên tài Lí Bạch, qua đó phần nào hiểu được tâm hồn phóng khoáng, lãng mạn của nhà thơ. Cảm nhận đươc tình yêu thiên nhiên của Lí Bạch.

Mùa xuân nho nhỏ ra đời khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh. Chắc hẳn, vào những ngày cuối cùng ấy, sau những chiêm nghiệm về cuộc sống với tất cả tình yêu, Thanh Hải muốn tiếp tục cất lên tiếng hót của “con chim chiền chiện” để góp nên một “mùa xuân nho nhỏ” cho cuộc đời, cho con người và cho đất nước yêu thương. Với thể thơ 5 chữ, với cách ngắt nhịp nhanh, gọn mà vẫn có độ dư ba, bài thơ đã dâng lên trong lòng tôi cảm giác rộn ràng, náo nức. Những gam màu trong trẻo, những hình ảnh đẹp, tươi sáng và đầy sức sống trong mỗi câu thơ cứ thấm dần vào trái tim tuổi trẻ của tôi.

Mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước được nhà thơ cảm nhận trong sự căng đầy của nhựa sống, trong nhịp sống đang hối hả và trong sự tươi non mơn mởn của những hi vọng vào tương lai. Giữa màu xanh yên bình của dòng sông xuân, sắc tím biếc cuả bông hoa không hề lạc lõng, chông chênh. Nó bám chắc vào lòng sông như một sợi dây vô hình làm nên sức sống. Trên cái nền màu dịu êm của “sông xanh” và “hoa tím biếc”, tiếng hót trong vắt của con chim chiền chiện vút cao, ngân vang đến bất tận đến trời xanh. Từng tiếng, từng tiếng chim trong veo hay tiếng nhịp thở của khí xuân hoà vào trời đất, vang vọng vào trong lòng người như những “giọt tâm hồn” sáng long lanh. Tiếng hót ấy khiến ta không thể dửng dưng mà khiến ta phải thốt lên tiếng gọi rủ về cái khát khao muốn nắm bắt, muốn “đưa tay hứng”.

Không tách mình khỏi khí xuân của thiên nhiên, đất nước trong công cuộc chuyển mình đi lên cũng rộn ràng, hối hả. Sức sống của đất nước không chung chung, trừu tượng mà nó biểu hiện ra ở “sức xuân” của mỗi con người. Mùa xuân trên lưng lính, lộc xuân trong tay người nông dân. Mỗi bước đi của người gieo thêm một chồi biếc, một mầm non. Và cứ thế, sức xuân của đất nước lại dâng lên như những lớp sóng xôn xao. Đất nước phấn chấn, hứng khởi trong một nhịp thở mới, hối hả khẩn trương. Niềm tin mới của dân tộc được chắp cánh từ truyền thống bốn nghìn năm dựng nước. Thế nên, dẫu biết có những vất vả và gian lao nhưng cả nước “vẫn đi lên phía trước” với một quyết tâm không mệt mỏi.

Những câu thơ của Thanh Hải đầy ắp hình ảnh, màu sắc và âm thanh. Nó tạo nên một không khí sôi nổi, háo hức, phơi phới vui tươi. Nó là một bức tranh tươi sáng sắc màu, là một bản nhạc rộn ràng tiết tấu trong trẻo, ngân nga và gợi cảm. Điều đặc biệt là: bức tranh thiên nhiên, bức tranh đất nước đầy sức sống ấy đã được nhà thơ cảm nhận khi ông đang ở vào cái giây khắc sắp lìa đời. Trên giường bệnh, nhà thơ vẫn mở rộng hồn mình, lắng nghe và đón nhận tất cả những thanh âm xao động của cuộc sống ngoài kia. Ông vẫn lắng nghe từng bước đi rất khẽ của đời. Bốn bức tường của phòng bệnh không thể ngăn cách cuộc đời với nhà thơ, những cơn đau của bệnh tật không làm giảm ý chí, bầu nhiệt huyết và niềm tha thiết yêu đời trong trái tim của người nghệ sĩ. Cái nghị lực phi thường ấy đáng để ta phải nâng niu và trân trọng xiết bao.

Bài thơ khép lại trọn vẹn trong tâm hồn và sự say sưa của người đọc bằng một ước nguyện thật chân thành và mãnh liệt biết bao. Nó thực là một khát khao đang bùng cháy: muốn được làm một nhành hoa như bông hoa tím biếc kia, muốn làm con chim hót vang trời những giọt long lanh như con chim chiền chiện. Cái khát khao không hề gợi một chút gì về hình ảnh khổ đau của một con người đang chết. Nó giống cái mãnh liệt và rạo rực của một sức thanh xuân đang tràn trề nhựa sống và khát khao cống hiến cho đời.

Nhiều người đã từng đồng ý với tôi rằng: những người trẻ tuổi đọc Mùa xuân nho nhỏ có thể tìm ra lý tưởng sống cho mình, còn với những người đã dâng cả tuổi thanh xuân cho đất nước thì vẫn thấy mình còn có thể làm được nhiều hơn. Mùa xuân nho nhỏ quả đã không chỉ là niềm say mê của riêng tôi. Nó xứng đáng là một bài thơ hay trong tủ sách quý của muôn người.

Nắng rọi Hương Lô khói tía bay Xa trông dòng thác trước sông này. Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước, Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây.

Đầu đề của nguyên tác là: “Vọng Lư Sơn bộc bố”,nghĩa là xa ngắm thác bạc trên Lư Sơn.Lư Sơn là dãy núi ở Sơn Tây,Trung Quốc có nhiều ngọn chạy dài,nhưng chỉ có một ngọn là có thác đổ :

Nắng rọi Hương Lô khói tía bay, Xa trông dòng thác nước sông này.

Hương Lô hay Hương Lư là núi Lư Hương,một ngọn của dây núi Lư trông giống như chiếc bình hương.Hai câu đầu của bài thơ là cảnh tổng quát của bức tranh sông núi hùng vĩ.Nhà thơ đứng ngắm thác từ phía xa và ở một vị trí thấp hơn nhiều so với chiều ca

Bài Thơ Xa Ngắm Thác Núi Lư

Bài thơ: Xa ngắm thác núi Lư

Nội dung bài thơ: Xa ngắm thác núi Lư

– Phiên âm:

– Dịch nghĩa:

– Dịch thơ:

I. Đôi nét về tác giả Lí Bạch

– Lí Bạch (701-762), nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Tam Cúc

– Lúc mới năm tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên là quê hương của mình.

– Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu dân giúp đời song ông chưa bao giờ được toại nguyện.

– Lí Bạch được mệnh danh là “tiên thơ”

– Đặc điểm thơ Lí Bạch:

+ Biểu hiện một tâm hồn tự do, hào phóng

+ Hình ảnh thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ

+ Ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện

+ Ông thường viết rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn

II. Đôi nét về tác phẩm Xa ngắm thác núi Lư

1. Hoàn cảnh ra đời

Vọng Lư son bộc bố là một trong số những bài thơ tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của nhà thơ

2. Bố cục (2 phần)

– Phần 1 (câu đầu): Tả núi Hương Lô

– Phần 2 (ba câu còn lại): Tả thác núi Lư

3. Giá trị nội dung

Bài thơ đã miêu tả một cách sinh động vẻ đẹp nhìn từ xa của tác nước chảy từ đỉnh Hương Lô thuộc dãy núi Lư, qua đó, thể hiện tình yêu thiên nhiên đằm thắm và phần nào bộc lộ tính cách mạnh mẽ, hào phóng của tác giả

4. Giá trị nghệ thuật

– Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt

– Hình ảnh thơ tráng lệ, huyền ảo

– Dùng nhiều động từ mạnh, táo bạo, gợi hình, gợi cảm

– Nghệ thuật so sáng và phóng đại

– Tả cảnh ngụ tình

III. Dàn ý phân tích tác phẩm Xa ngắm thác núi Lư

I. Mở bài

– Giới thiệu khái quát về tác giả Lí Bạch (những nét chính về tiểu sử, đặc điểm sáng tác…)

– Giới thiệu về bài thơ “Vọng Lư sơn bộc bố” (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…)

II. Thân bài

1. Đỉnh núi Hương Lô

– Vị trí: đứng từ xa để ngắm cảnh thác nước

⇒ Quan sát một cách bao quát, toàn diện

– Động từ “sinh”: nảy nở, sinh ra, qua đó cho ta thấy ánh mặt trời xuất hiện như chủ thể làm cho mọi vật sinh sôi, nảy nở

– Đỉnh núi Hương Lô được miêu tả dưới những tia nắng mặt trời chiếu rọi, làn hơi nước phản quang với ánh mặt trời ấy tạo nên những làn khói màu tím vừa rực rỡ vừa kì ảo, đó chính là nét đặc trưng của đỉnh núi Hương Lô

⇒ Câu thơ đầu gợi ra cái nền, cái khung cảnh đẹp huyền ảo của cảnh vật

2. Thác núi Lư

– Động từ “quải” (treo) đã biến cảnh vật từ trạng thái động sang trạng thái tĩnh: nhìn từ xa, đỉnh núi là khói tía mù mịt, chân núi là dòng sông tuôn chảy, khoảng giữa là thác nước treo lơ lửng như giải lụa trắng rủ xuống bất động

– Với hai động từ “phi”, “lưu” cảnh vật đang từ trạng thái tĩnh lại chuyển sang trạng thái động. Thác nước được miêu tả một cách trực tiếp nhưng qua đó ta lại thấy được thế núi cao và sườn dốc đứng

– “Tam thiên xích” lag một con số ước lệ, qua đó làm tăng thêm độ nhanh, sức mạnh và thế đổ của dòng thác

– Phép so sánh, lối nói phóng đại: thác nước – dải Ngân Hà, qua đó cho thấy sự mạnh mẽ, kì vĩ của thiên nhiên

⇒ Thác núi Lư hiện lên rất đẹp, kì vĩ và mạnh mẽ. Qua đó, giúp chúng ta cảm nhạn được tình yêu thiên nhiên và phần nào đó tính cách mạnh mẽ, hào phóng của tác giả

III. Kết bài

– Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ:

+ Nội dung: cảnh tượng thiên nhiên thác núi Lư hùng vĩ, huyền ảo và tình yêu thiên nhiên, tính cách mạnh mẽ, hào phóng của tác giả

+ Nghệ thuật: hình ảnh tráng lệ huyền ảo, sử dụng nhiều các động từ, nghệ thuật so sánh và phóng đại..

– Cảm nhận của bản thân về bài thơ: bài thơ thể hiện rõ những đặc điểm sáng tác của Lí Bạch

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k8: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Các bài Soạn văn lớp 7 siêu ngắn được biên soạn bám sát câu hỏi sgk Ngữ Văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 giúp bạn dễ dàng soạn bài Ngữ Văn 7 hơn.

tac-gia-tac-pham-lop-7.jsp

Soạn Văn Bài: Xa Ngắm Thác Núi Lư

Soạn văn bài: Xa ngắm thác núi Lư – Lí Bạch

Đọc hiểu văn bản

Câu 1:

Như nhan đề của bài thơ Xa ngắm thác núi Lư và căn cứ vào nghĩa của hai từ: vọng (trông từ xa), dao khan (nhìn từ xa), có thể thấy cảnh núi Lư được nhà thơ quan sát và miêu tả từ xa. Vị trí đứng này tuy không thể giúp nhà thơ miêu tả được những chi tiết của thiên nhiên, cảnh vật nhưng lại có thể quan sát được vẻ đẹp của toàn cảnh, miêu tả được cái hùng vĩ tự nhiên của thác nước.

Câu 2:

– Hình ảnh được miêu tả trong câu thơ thứ nhất:

Nhà thơ Lí Bạch đã miêu tả thác nước vào lúc mặt trời chiếu rọi ánh nắng.

Thác nước bắn tung bọt, hơi nước tỏa ra như sương khói, mặt trời phản ánh sáng sinh ra những khói tía huyền ảo.

Thác nước ở trên đỉnh núi giống như một chiếc lò khổng lồ nghi ngút khỏi hương trầm tỏa lên bầu trời.

– Ý nghĩa: câu thơ đầu tả núi Hương Lô có tác dụng làm phông nền cho hình ảnh của thác nước được miêu tả cụ thể ở ba câu tiếp theo.

Câu 3:

Bản dịch thơ dịch không sát câu thứ hai. Nguyên tác là: Dao khan bộc bố quải tiền xuyên (nghĩa là: Nhìn xa thấy dòng thác như treo trên dòng sông phía trước). Chữ quải thật thần tình, bản dịch thơ làm mất chữ này. Thác nước cao trông xa như treo trước dòng sông, tựa như một dải lụa khổng lồ ( bộc bố: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn xa như một tấm vải treo dọc buông rủ xuống). Trước mắt ta hiện ra một cảnh tượng thiên nhiên kì vĩ, phi thường. Hình ảnh dòng thác trên nền cảnh (đã được tạo ra ở câu 1) như một bức ảnh mà ở đó nhà nghệ sĩ đã làm cảnh vật tĩnh lại trong chớp nhoáng, lấy tĩnh mà tả động.

Đến câu thơ thứ ba, hình ảnh dòng thác thoắt chuyển sang trạng thái động: Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước. Từ phi (bay) trong câu này khiến khung cảnh hùng vĩ, ấn tượng mạnh mà không thiếu sự bay bổng. Để ở câu thơ cuối hồn thơ chợt cất cánh một ẩn dụ lãng mạn: Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây. Lối nói khoa trương lại diễn tả được một cách chân thực trạng thái cảm nhận về cái kì vĩ, phi thường. Chẳng có hình ảnh nào diễn đạt hơn được nữa cái sức mạnh nên thơ, như thực mà quá đỗi lạ thường của thác nước trong cái nhìn của thi sĩ như dải Ngân Hà rơi xuống từ chín tầng mây này.

Câu 4:

Qua cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ ta có thể thấy được tác giả là con người có tâm hồn mạnh mẽ, phóng khoáng, ưa thích những cái hùng vĩ phi thường.

Tâm hồn say đắm, tha thiết với vẻ đẹp của thiên nhiên.

Một năng lực sáng tạo thơ ca độc đáo, phi thường.

Câu 5:

Không nhất thiết buộc phải hiểu theo một cách nào. Như thế có thể có ba lựa chọn: chọn cách hiểu trong bản dịch, chọn cách hiểu trong phần chú thích hoặc chủ trương phối hợp cả hai cách hiểu đã nêu. Quan trọng là đưa ra được lời giải thích hợp lí (căn cứ vào điểm nhìn của tác giả và nội dung của cả bà thơ).

Soạn Bài : Xa Ngắm Thác Núi Lư

Hướng dẫn soạn văn, soạn bài, học tốt bài

Lí Bạch (701 – 762), nhà thơ nổi tếng của Trung Quốc đời Đường, quê ở Cam Túc nhưng ngay từ khi mới năm tuổi ông đã theo gia đình về sống ở Tứ Xuyên. Vì thế, nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên là quê hương của mình. Lí Bạch từ nhỏ đã thích ngao du, mong lập nên công danh sự nghiệp, song đường quan nghiệp của ông có nhiều trắc trở.

Lí Bạch được mệnh danh là “tiên thơ”. Thơ ông thể hiện một tâm hồn tự do phóng khoáng. Hình ảnh tong thơ của ông tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Thơ ông hay nhất ở những bài vết về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn.

Vọng Lư sơn bộc bố được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt. Đây là một trong những bài thơ hay tiêu biểu cho đề tài chiến tranh của Lí Bạch.

1. Như nhan đề của bài thơ ( Xa ngắm thác núi lư) và căn cứ vào nghĩa của hai từ: vọng (trông từ xa), dao khan (nhìn từ xa), có thể thấy cảnh núi Lư được nhà thơ quan sát và miêu tả từ xa. Vị trí đứng này tuy không thể giúp nhà thơ miêu tả được những chi tiết của thiên nhiên, cảnh vật nhưng lại có thể quan sát được vẻ đẹp của toàn cảnh, miêu tả được cái hùng vĩ tự nhiên của thác nước.

2.Ngay ở câu thơ đầu tiên ( Nắng rọi Hương Lô khói tía bay), tác giả đã hoạ nên hình ảnh núi Hương Lô thật mĩ lệ. Trong ánh nắng mặt trời chiếu rọi, mây khói chuyển thành màu tía, khói hương huyền ảo, khác thường (có người dịch là mây tím). Câu thứ nhất, với hình ảnh núi Lư, như đã làm nên một cái nền cho bức tranh phong cảnh. Trên cái nền ấy, ở câu thơ tiếp theo, hình ảnh thác nước mới thật nổi bật, sống động: Xa trông dòng thác trước sông này. Xa trông chứ không phải nhìn ngắm ở khoảng cách gần. Phải là từ xa thì, trong cái nhìn, mới thu nhỏ được hình ảnh thác nước để hình dung nó trong toàn cảnh.

3. Bản dịch thơ dịch không sát câu thứ hai. Nguyên tác là: Dao khan bộc bố quải tiền xuyên (nghĩa là: Nhìn xa thấy dòng thác như treo trên dòng sông phía trước). Chữ quải thật thần tình, bản dịch thơ làm mất chữ này. Thác nước cao trông xa như treo trước dòng sông, tựa như một dải lụa khổng lồ ( bộc bố: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn xa như một tấm vải treo dọc buông rủ xuống). Trước mắt ta hiện ra một cảnh tượng thiên nhiên kì vĩ, phi thường. Hình ảnh dòng thác trên nền cảnh (đã được tạo ra ở câu 1) như một bức ảnh mà ở đó nhà nghệ sĩ đã làm cảnh vật tĩnh lại trong chớp nhoáng, lấy tĩnh mà tả động.

Đến câu thơ thứ ba, hình ảnh dòng thác thoắt chuyển sang trạng thái động: Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước. Từ phi (bay) trong câu này khiến khung cảnh hùng vĩ, ấn tượng mạnh mà không thiếu sự bay bổng. Để ở câu thơ cuối hồn thơ chợt cất cánh một ẩn dụ lãng mạn: Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây. Lối nói khoa trương lại diễn tả được một cách chân thực trạng thái cảm nhận về cái kì vĩ, phi thường. Chẳng có hình ảnh nào diễn đạt hơn được nữa cái sức mạnh nên thơ, như thực mà quá đỗi lạ thường của thác nước trong cái nhìn của thi sĩ như dải Ngân Hà rơi xuống từ chín tầng mây này.

4. Lí Bạch từng được mệnh danh là Thi tiên (tiên thơ). Thơ ông thể hiện một tâm hồn luôn vươn tới tự do, phóng khoáng. Hình ảnh trong thơ ông thường tươi sáng, bay bổng diệu kì bộc lộ một tình yêu quê hương đất nước thiết tha. Qua bài thơ Xa ngắm thác núi Lư ta phần nào thấy được điều đó.

5.* Về câu thơ thứ hai, em thích cách hiểu nào hơn? (cách hiểu trong bản dịch hay cách hiểu trong chú thích).

: Không nhất thiết buộc phải hiểu theo một cách nào. Như thế có thể có ba lựa chọn: chọn cách hiểu trong bản dịch, chọn cách hiểu trong phần chú thích hoặc chủ trương phối hợp cả hai cách hiểu đã nêu. Quan trọng là đưa ra được lời giải thích hợp lí (căn cứ vào điểm nhìn của tác giả và nội dung của cả bà thơ).

Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, nhịp 4/3, lời hàm súc, ý sâu xa. Cần đọc chậm, nghiền ngẫm từng câu, từng chữ để cảm nhận cái hay, cái đẹp của ngôn từ, hình ảnh và tâm hồn phóng khoáng của nhà thơ.