Yêu Cầu Quyết Định Hành Chính / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Yêu Cầu Về Tính Hợp Pháp, Hợp Lý Của Quyết Định Hành Chính

Yêu cầu về tính hợp pháp, hợp lý của quyết định hành chính. Phân tích mối quan hệ giữa tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính theo quy định mới nhất.

Ra đời nhằm thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước, quyết định hành chính chiếm một tỉ lệ rất lớn trong các văn bản pháp luật, có vị trí rất quan trọng trong quá trình thi hành luật. Cũng do chức năng quản lí hành chính nhà nước, đảm bảo các quan hệ pháp luật hành chính diễn ra trong khuôn khổ luật định mà các quyết định hành chính khi ra đời phái luôn đảm bảo tính hợp pháp và hợp lí. Nhằm mục đích làm rõ tầm quan trọng của tính hợp pháp và hợp lí đối với quyết định hành chính, nhóm chúng quyết định chọn đề tài “Phân tích các yêu cầu về tính hợp pháp, hợp lí của quyết định hành chính và nhận xét về tính hợp pháp, hợp lí của quyết định hành chính do cơ quan hành chính nhà nước ban hành” cho bài tập nhóm lần một này. Dù rất cố gắng tìm hiểu cũng như mở rộng phạm vi kiến thức về vấn đề này nhưng không thể nào tránh khỏi những sai sót đáng tiếc có thể xảy ra. Chúng em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn để hoàn thiện hơn mảng chuyên đề này. Chúng em xin chân thành cảm ơn!

I, Những yêu cầu về tính hợp pháp, hợp lí của quyết định hành chính

Quyết định hành chính là một dạng của quyết định pháp luật, là kết quả sự thể hiện ý chí quyền lực của nhà nước thông qua những hành vi của các chủ thể được thực hiên quyền hành pháp trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước tiến hành theo một trình tự dưới những hình thức nhất định theo quy định của pháp luật, nhằm đưa ra những chủ trương, biện pháp, đặt ra các quy tắc xử sự hoặc áp dụng những quy tắc đó giải quyết một công việc cụ thể trong đời sống xã hội nhằm thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước.

Quyết định hành chính, ngoài hai đặc điểm chung của quyết định pháp luật là tính quyền lực nhà nước và tính pháp lí còn có các đặc điểm riêng như tính dưới luật; do những chủ thể có thẩm quyền trong quản lí hành chính nhà nước ban hành; có mục đích và nội dung phong phú, đa dạng. Chính bởi những đặc điểm đó mà quyết định hành chính khi ra đời phải đảm bảo những yêu cầu về tính hợp pháp và tính hợp lí.

2, Yêu cầu về tính hợp pháp và hợp lí của quyết định hành chính

Hợp pháp tức là đúng với pháp luật hay không trái pháp luật. Mọi vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật được coi là có tính hợp pháp khi và chỉ khi nó được thực hiện theo đúng những yêu cầu mà pháp luật đặt ra. Với đó, một quyết định hành chính ra đời chỉ hợp pháp khi đảm bảo theo đúng những quy định của pháp luật về thẩm quyền của chủ thể ban hành, trình tự thủ tục ban hành và không trái với những văn bản có hiệu lực pháp lí cao hơn.

Hợp lí, theo nghĩa chung, là đúng lẽ phải, đúng với sự cần thiết, phù hợp với logic của sự vật. Không có điều gì tồn tại được lâu dài nêu như nó bất hợp lí. Một quyết định hành chính cũng vậy. Để ra đời và tồn tại lâu dài, một quyết định hành chính phải đảm bảo các yêu cầu về tính hợp lí như đảm bảo lợi ích của Nhà nước cũng như nguyện vọng của nhân dân, phù hợp thực tế khách quan, ngôn ngữ dễ hiểu, chính xác, rõ ràng, có tính dự báo và tính khả thi cao.

Một quyết định hành chính không thể tồn tại nếu thiếu một trong hai tính hợp pháp hoặc hợp lí. Trước hết, các quyết định hành chính ra đời trên cơ sở luật và để thi hành luật, chính thế cho nên, không thể tồn tại một quyết định hành chính bất hợp pháp. Nếu một quyết định hành chính không đảm bảo những yêu cầu về tính hợp pháp thì đương nhiên là nó sẽ bị mất hiệu lực.

Từ phân tích trên có thể thấy rằng, tính hợp pháp và hợp lí luôn gắn bó với nhau, cả vè nội dung lấn hình thức như một chỉnh thể thống nhất mà nếu thiếu một trong những yêu cầu đó thì việc ban hành quyết định hành chính sẽ không hiệu quả, đạt được mục đích.

2.1) Yêu cầu về tính hợp pháp của quyết định hành chính.

Theo yêu cầu đặt ra trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay, một quyết định hành chính chỉ có hiệu lực thi hành khi nó hợp pháp, tức là thoả mãn tất cả các yêu cầu sau:

Thứ nhất, quyết định hành chính được ban hành phải phù hợp với nội dung và mục đích của luật, không trái với hiến pháp, luật, pháp lệnh và các quy định của cơ quan nhà nước cấp trên. Điều này xuất phát từ đặc điểm riêng của quyết định hành chính, đó là tính dưới luật. Chính bởi hiệu lực pháp lí của các quyết định hành chính luôn thấp hơn luật nên không thể trái ngược với những quy định mà hiến pháp và luật đã đặt ra.

Ngược lại chính là vi hiến, vi pháp. Bất kì văn bản luật nào vi hiến, vi pháp đều sẽ bị xử lí, điều chỉnh. Ví dụ: Ngày 23/4/2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GĐ&ĐT) đã ban hành Thông tư số 22/2008/TT-BGDĐT hướng dẫn về tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ xét tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú (gọi tắt là Thông tư 22). Tuy nhiên, Thông tư 22 đã có dấu hiệu vượt quá Điều 62 Luật Thi đua khen thưởng năm 2003. Vì vậy, lãnh đạo Bộ Tư pháp và lãnh đạo một số đơn vị thuộc Bộ đã có buổi làm việc với đại diện của Bộ GD &ĐT bàn về cách xử lý Thông tư 22.

Thứ hai, quyết định hành chính được ban hành trong phạm vi thẩm quyền của chủ thể ra quyết định quản lý. Các cơ quan (người có chức vụ) tuyệt đối không được ban hành những quyết định mà pháp luật không cho phép, vượt quá phạm vi quyền hạn được trao, thậm chí không được lẩn tránh và lạm quyền. Việc đảm bảo đúng thẩm quyền ở đây là thẩm quyền trên hai khía cạnh phạm vi và lĩnh vực. Cơ quan nào phụ trách quản lí cho khu vực, lĩnh vực gì thì ra quyết định hành chính cho khu vực, lĩnh vực ấy, không được phép vượt quá thẩm quyền mình có, thậm chí, cấp trên cũng không được can thiệp vào lĩnh vực của cấp dưới.

Các quyết định quy phạm và quyết định cá biệt tuy không có trình tự thủ tục phức tạp như quyết định chủ đạo nhưng đều là những văn bản pháp luật, có tính pháp lí nên về hình thức, trình tự thủ tục xây dựng và ban hành phải tuân thủ theo đúng những gì pháp luật đã quy định.

2.2) Yêu cầu về tính hợp lí của quyết định hành chính.

Để bảo đảm tính hiệu quả, quyết định hành chính phải đáp ứng các yêu cầu về tính hợp lý vì có hợp lý thì mới có khả năng thực thi cao. Một quyết định hành chính được coi là có tính hợp lý khi nó đáp ứng được yêu cầu sau đây :

Thứ nhất, quyết định hành chính phải tính đến yêu cầu tổng thể bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, tập thể và cá nhân. Yêu cầu này đòi hỏi sự cân đối hợp lý giữa lợi ích Nhà nước và xã hội, coi lợi ích Nhà nước và lợi ích chung của công dân là tiêu chí để đánh giá sự hợp lý của quyết định hành chính.

Thứ tư, quyết định hành chính phải bảo đảm kỹ thuật lập quy, tức là ngôn ngữ, văn phong, cách trình bày phải rõ ràng, dể hiểu, ngắn ngọn, thuật ngữ pháp lí chính xác, không đa nghĩa. Bởi các quyết định hành chính ban hành nhằm để thi hành luật trên thực tế nên nếu không rõ ràng chính xác sẽ dễ gây hiểu lầm dẫn đến áp dụng sai, thậm chí là tùy tiện, bừa bãi, “lách luật” để phạm pháp.

Thứ năm, quyết định hành chính phải có tính khả thi, có nghĩa là phải có cơ sở, điều kiện để thực hiện quyết định trên thực tế. Những quyết định không mang tính khả thi trên thực tế sẽ không đem lại hiệu quả mong muốn, Ví dụ: trước đây đã từng có ý kiến giảm ách tắc giao thông bằng cách chỉ cho phép xe máy có biển số chẵn đi ngày chẵn, còn xe máy có biển số lẻ đi ngày lẻ, quyết định trên không có tính khả thi do đó đã không được áp dụng trên thực tế.

II, Tính hợp pháp, hợp lí của quyết định hành chính do cơ quan hành chính nhà nước ban hành

1, Thực trạng về tính hợp pháp và hợp lí của một số quyết định hành chính đã được các cơ quan hành chính nhà nước ban hành

* Thông tư 02/2003/TT-BCA ngày 13/1/2003 về việc hướng dẫn tổ chức đăng kí biển số phương tiện giao thông cơ giới quy định “mỗi người chỉ được đăng kí 01 xe mô tô hoặc xe gắn máy” căn cứ vào thông tư này, thành phố Hà Nội đã tạm dừng đăng kí ở 7 quận, huyện trực thuộc thành phố.

Cũng chính bởi quyết định nếu trên vi phạm tính hợp lí và hợp pháp nên đã bị hủy bỏ bằng quyết định sô 221 của UBND thành phố Hà Nội.

Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật khẳng định Quyết định 51 có một số quy định mang tính cấm đoán không có căn cứ, có biểu hiện “ngăn sông cấm chợ” đối với các cá nhân, công dân tham gia hoạt động giết mổ, vận chuyển, chế biến, buôn bán gia súc, gia cầm. Cụ thể như “cấm vận chuyển gia súc, gia cầm vào khu vực nội thành, nội thị; cấm vận chuyển gia súc, gia cầm và sản phẩm gia súc, gia cầm trên xe máy, xích lô, xe đạp hoặc các phương tiện khác”.

Về nội dung quy định “gia súc, gia cầm chỉ được vận chuyển đến cơ sở giết mổ được phép của thành phố…” còn hạn chế quyền của nhiều cá nhân khác. Ngoài ra, Quyết định 51 còn có một số quy định mang tính cấm đoán không có cơ sở, không rõ ràng về nội dung quy phạm pháp luật, gây hiểu nhầm, đồng thời có thể dẫn đến việc áp dụng xử lý tùy tiện…

Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật đề nghị UBND TP Hà Nội xem xét, xử lý kịp thời, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, khả thi của văn bản và trong 30 ngày phải kiểm tra, xử lý, đến Cục về các nội dung trên.

2, Nhận xét về tính hợp pháp, hợp lí của quyết định hành chính do cơ quan hành chính nhà nước ban hành

Trong thời gian qua các quyết định của pháp luật về ban hành văn bản pháp luật nói chung trong đó có những quyết định hành chính nói riêng ngày càng được đổi mới hoàn thiện hơn, đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, bên cạnh nhưng kết quả đã đạt được, hoạt động ban hành quyết định của các chủ thể quản lí hành chính nhà nước trên thực tế vẫn còn tồn tại nhiều bất cập hạn chế làm giảm hiệu quả tác động của quyết định trong quá trình quản lí.

Số lượng quyết định gia tăng qua các năm nhằm đáp ứng những yều cầu về quản lí nhà nước ngày càng tăng lên theo sự phát triển của kinh tế xã hội. Theo báo cáo về tình hình thực tiễn công tác tự kiểm tra và xử lí văn bản tại TPHCM từ năm 2004- 2008, UBND đã ban hành hơn 1000 quyết định, Lạng Sơn là hơn 120 quyết định…

Chất lượng ngày càng được nâng cao, đảm bảo tính hợp hiến hợp pháp tính thống nhất với pháp luật hiện hành. Đa số các văn bản đúng thẩm quyền cả về nội dung và hình thức, phù hợp với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, thể chế hóa đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó giảm thiểu những quyết định và khắc phục được những quyết định không đáp ứng được yêu cầu vê pháp lí cũng như nhu cầu thực tiễn đời sống.

Công tác xây dựng các quyết định hành chính đã có những chuyển biến tích cực có sự đầu tư thời gian, nhân lực, sự phối hợp giữa các cơ quan chính điều đó làm nâng cao hiệu quả áp dụng thực tiễn và hiệu quả quản lí của các cơ quan nhà nước.

Tình trạng những Quyết định có dấu hiệu trái pháp luật diễn ra khá phổ biến cả ở Trung ương lẫn địa phương. Nhiều quyết định hành chính không đúng thẩm quyền, chủ thể, chưa phù hợp với quy định pháp luật, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống. Thậm chí, một số quyết định Quản lí nhà nước được ban hành trái với thẩm quyền của chủ thể ban hành, có dấu hiệu vi phạm pháp luật, nội dung chưa phù hợp với lợi ích của Nhà nước và xã hội.

Theo thống kê của Bộ Tư pháp, qua kiểm tra 1.506 văn bản pháp luật đã ban hành của cấp bộ và địa phương trong năm 2007, phát hiện 320 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật. Năm 2008, kiểm tra 1.968 văn bản thì phát hiện 490 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật (trong đó có 93 văn bản cấp bộ và 397 văn bản của địa phương). Như vậy, khoảng từ 20-25% số văn bản được kiểm tra có dấu hiệu vi phạm.

Có thể nói rằng trong nhưng năm gần đây số lượng những quyết định ban hành có dấu hiệu sai trái còn rất nhiều, các quyết định có dấu hiệu sai trái ở nhiều khía cạnh: căn cứ pháp lí, thẩm quyền, nội dung, thể thức, kĩ thuật trình bày, thủ tục ban hành…mà trong đó chủ yếu là trái thẩm quyền ban hành.

Bên cạnh những bất cập trong vấn đề pháp lí, rất nhiều các quyết định còn không có tính khả thi. Không xuất phát từ thực tiễn khách quan của đời sống xã hội, từ nhu cầu nguyện vọng của nhân dân mà xuất phát từ ý chí chủ quan của chủ thể ban hành, ví dụ: Quyết định số 26/UB- TP Hà Nội 3/2003 quy định về thời gian hoạt động của các phương tiện vận tải. Kết quả thực hiện đã làm cho nhiều phương tiện giao thông không thể hoạt động theo các quy định. Chỉ sau 2 ngày thực hiện đã phải tạm đình chỉ và sửa đổi.

Về tính dự báo: Công tác chuẩn bị nhằm triển khai thực hiện các quyết định hành chính của chủ thể ban hành vẫn còn chưa được tính đến trong phương án xây dựng và ban hành quyết định, còn coi các điều kiện để thi hành các quyết định quản lý chỉ là thứ yếu như cơ sở vật chất, phương tiện thi hành, cán bộ thực hiện, ngân sách, tài chính… chưa bảo đảm được yêu cầu đặt ra. Chưa có kế hoạch tổng thể, dài hơi về việc xây dựng kế hoạch ban hành quyết định hành chính, dẫn đến những lúng túng, bị động trong hoạt động triển khai thực hiện.

Về tính khả thi: Tính hiệu quả trong quá trình thực thi các quyết định hành chính chưa được một số chủ thể ban hành quyết định tính đến, cho nên, một số quyết định Quản lí nhà nước khi thực hiện đã vấp phải tình trạng “phản ứng” dữ dội, thậm chí là chống đối từ chính các chủ thể phải thi hành quyết định, cho nên, ngay từ khâu đầu tiên của quá trình thi hành quyết định đã không đem lại hiệu quả, không phù hợp với thực tế.

Như vậy có thể nói tính hợp lí của quyết định có vai trò quan trọng và cần thiết đảm bảo cho việc quyết định trên thực tế. Nếu không xuất phát từ thực tế nhu cầu của nhân dân trong xã hội thì gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện hoặc có thể không được thực hiện trong thực tế từ đó làm giảm hiệu quả, tác động của quyết định đối với quá trình quản lí nhà nước cũng như ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.

Trong quá trình ban hành các quyết định hành chính, cá chủ thể mang quyền quản lí hành chính nhà nước cần phải quan tâm hơn nữa đến tính hợp lí và hợp pháp của quyết định mà mình đưa ra nhằm đặt được hiệu quả cao nhất trong công tác quản lí hành chính nhà nước nói chung và công tác ban hành quyết định hành chính nói riêng.

Yêu Cầu Về Tính Hợp Pháp Và Hợp Lý Của Quyết Định Hành Chính

1.2. Đặc điểm của quyết định hành chính. a. Đặc điểm chung. Quyết định hành chính là một loại quyết định pháp luật. Vì vậy nó có tất cả các tính chất của quyết định pháp luật mà quan trọng là tính quyền lực nhà nước, tính pháp lý. – Tính quyền lực nhà nước : nó được thể hiện của ý chí nhà nước tức là đã thể hiện tính quyền lực nhà nước. Tính quyền lực được thể hiện thông qua việc: chỉ có Nhà nước mới có quyền quy định về thẩm quyền ban hành; luôn mang tính bắt buộc các biện pháp bảo đảm. – Tính pháp lí: Pháp luật quy định rõ thẩm quyền ban hành trình tự, hình thức…Nội dung chứa các quy phạm pháp luật, mệnh lệnh và tạo ra các hệ quả pháp lý. b. Đặc điểm riêng. Ngoài những đặc điểm chung nêu trên quyết định hành chính còn có những đặc điểm riêng sau: – Tính dưới luật :

Đặc trưng này xuất phát từ nguyên tắc pháp chế trong quản lý Nhà nước thể hiện ở chỗ quyết định hành chính được xây dựng và ban hành trên cơ sở Hiến pháp và luật.

Có nghĩa là nội dung của quyết định hành chính được ban hành phải phù hợp để thi hành không chỉ Hiến pháp, luật, pháp lệnh mà mọi quyết định pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và cơ quan quyền lực cùng cấp. – Quyết định hành chính có những mục đích và nội dung phong phú, xuất phát từ đặc điểm của hoạt động quản lý hành chính Nhà nước. Quyết định hành chính không chỉ gắn liền với nội dung mà cả trình tự xây dựng và ban hành cũng như hình thức quyết định.

Có nghĩa là quyết định hành chính phải được ban hành theo hình thức và trình tự do pháp luật quy định. Quyết định hành chính được ban hành theo thủ tục hành chính với những hình thức tên goi khác nhau do pháp luật quy định.

– Quyết định hành chính là những các quyết định được nhiều chủ thể trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, để thực hiện nhiệm vụ và chức năng quản lý. Chủ thể chủ yếu ban hành quyết định là những cơ quan nhà nước ở trung ương, địa phương, những chủ thể có thẩm quyền chung cũng như những chủ thể có thẩm quyền riêng.

1.3. Vai trò của quyết định hành chính trong quản lý nhà nước. a. Quyết định hành chính đưa ra chủ trương lớn trong lĩnh vực quản lý hành chính.

– Quyết định nhằm đưa ra những chủ trương chính sách, giải pháp lớn về quản lý hành chính đối với cả nước, cả một vùng hay đối với một đơn vị hành chính nhất định.

– Quyết định có giá trị cụ thể hóa các quyết định lập pháp. Trong thực tiễn, rõ ràng nhiều khi cũng có những quy định lập pháp chỉ điều chỉnh mức độ chung, trong khi đó hành pháp cần cụ thể linh hoạt để đáp ứng nhu cầu đa dạng của thực tiễn xã hội.

Bên cạnh hoạt động lập pháp bao giờ cũng tồn tại hoạt động lập quy để bảo đảm các nhu cầu ổn định, mềm dẻo, linh hoạt trong các quan hệ xã hội.

Các văn bản này nhằm mục đích tạo ra một hành lang pháp lý để các chủ thể pháp luật hành chính thực hiện được các quyền và nghĩa vụ của mình trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nó làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính cụ thể.

c. Quyết định hành chính góp phần ổn định trật tự xã hội, tạo cơ hội quản lý tốt và phát triển xã hội.

– Quyết định hành chính mang tính bắt buộc đối với mọi cá nhân và tổ chức cho nên trong những hoàn cảnh nhất định họ phải làm theo nhằm đưa ra các chuẩn mực ứng xử và điều chỉnh các hành vi xử sự theo mong muốn thiết lập trật tự xã hội ổn định.

Mặt khác, các biện pháp chế tài của luật hành chính không chỉ mang tính chất trừng trị người vi phạm mà quan trọng hơn nó có tác dụng giáo dục, răn đe người vi phạm không lặp lại vi phạm đó đồng thời ngăn chặn những hành vi mới xảy ra. Nhờ đó mà trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Quyết định quản lý Nhà nước tạo cơ hội cho sự phát triển của xã hội theo định hướng chung của Nhà nước

2. Các yêu cầu về tính hợp pháp và hợp lý của quyết định hành chính. 2.1.Khái quát về tính hợp pháp và hợp lý của quyết định hành chính.

Chất lượng của một quyết định quản lý nhà nước được xem xét qua tính hợp pháp và tính hợp lý. Đây là hai tiêu chuẩn đánh giá quyết định quản lý nhà nước ở hai góc độ khác nhau, tuy độc lập nhưng lại có mối quan hệ mật thiết, thống nhất và bổ trợ cho nhau.

Tính hợp pháp là biểu hiện của nguyên tắc Pháp chế. Trong khi tính hợp lý của quyết định quản lý nhà nước thể hiện tính “Khả thi”và hiệu quả cao nhất về kinh tế – chính trị, xã hội. Sức sống và khả năng tồn tại của các quyết định quản lý nhà nước phụ thuộc rất nhiều vào tính hợp lý của nó.

Quyết định quản lý nhà nước khi được ban hành chỉ có thể trở thành bộ phận hữu cơ của cơ chế điều chỉnh pháp luật và có hiệu quả khi nội dung và hình thức của chúng bảo đảm cả tính hợp pháp và tính hợp lý.

Để bảo đảm tính hợp pháp và hợp lý của nội dung và hình thức quyết định thì thủ tục xây dựng và ban hành chúng cũng phải theo đúng quy định của pháp luật, phù hợp với lý luận và thực tiễn. Nghĩa là thủ tục đó cũng phải bảo đảm tính hợp pháp và tính hợp lý.

Tính hợp pháp là yêu cầu cơ bản của nguyên tắc pháp chế, còn tính hợp lý là yêu cầu của nghệ thuật quản lý, của chính cuộc sống.

Như vậy, tính hợp pháp của quyết định quản lý nhà nước là sự phù hợp của quyết định đó với thẩm quyền, nội dung, hình thức, phương pháp quản lý của các chủ thể quản lý trong khuôn khổ luật định. Tính hợp pháp đối với thủ tục xây dựng và ban hành quyết định quản lý nhà nước là sự phù hợp của hoạt động xây dựng và ban hành quyết định đó với các yêu cầu về thủ tục do luật định. Tính hợp lý của quyết định quản lý nhà nước là sự thể hiện phương án được lựa chọn để điều chỉnh đối tượng quản lý trong quyết định là phương án tốt nhất.

Hiện nay, pháp luật nước ta chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề này, nhiều văn bản khác nhau cũng chỉ áp dụng một công thức chung là quan tâm đến việc có “trái với pháp luật”, “trái với văn bản” cấp trên hay không.

2.2. Mối liên hệ giữa tính hợp pháp và hợp lý của các quyết định hành chính.

Hợp pháp tức là đúng với pháp luật hay không trái pháp luật. Mọi vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật được coi là có tính hợp pháp và chỉ khi nó được thực hiện theo đúng những yêu cầu mà pháp luật đã đặt ra. Do đó, một quyết định hành chính ra đời chỉ hợp pháp khi đảm bảo theo đúng những quy định của pháp luật về :

Thẩm quyền của chủ thể ban hành,

Trình tự thủ tục ban hành

Không trái với những văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.

Hợp lý, theo nghĩa chung, là đúng lẽ phải, đúng với sự cần thiết, sự phù hợp với logic của sự vật. Để ra đời và tồn tại lâu dài, một quyết định hành chính phải đảm bảo các yêu cầu về tính hợp lý như:

Đảm bảo lợi ích của Nhà nước cũng như nguyện vọng của nhân dân,

Phải phù hợp thực tế khác quan,

Ngôn ngữ dễ hiểu, chính xác, rõ ràng,

Có tính dự báo và tính khả thi cao.

Một quyết định hành chính không thể tồn tại nếu thiếu một trong hai tính hợp pháp hoặc tính hợp lý.

Trước hết, các quyết định hành chính ra đời trên cơ sở luật và để thi hành luật, chính thế cho nên không thể tồn tại quyết định hành chính bất hợp pháp. Nếu một quyết định hành chính không đảm bảo những yêu cầu về tính hợp pháp thì đương nhiên là nó sẽ bị mất hiệu lực.

Thứ hai, mọi quyết định hành chính đều nhằm thực hiện chức năng quản lý hành chính Nhà nước, thực thi pháp luật thực tế. Quyết định hành chính không chỉ đảm bảo lợi ích Nhà nước mà còn phải phù hợp thực tế khách quan cùng nguyện vọng nhân dân; phải rõ ràng chính xác để tránh hiểu sai, áp dụng sai, phải có tính khả thi mới có thể tiến hành áp dụng quyết định hành chính theo từng giai đoạn nhằm ổn định đời sống pháp luật của nhân dân.

Tính hợp pháp và hợp lý luôn gắn bó với nhau, cả về nội dung lẫn hình thức như một chỉnh thể thống nhất mà nếu thiếu một trong những yêu cầu đó thì việc ban hành chính sẽ không đạt hiệu quả, đạt được mục đích.

Điều này xuất phát từ đặc điểm riêng của quyết định hành chính, đó là tính dưới luật. Chính do bởi hiệu lực pháp lý của các quyết định hành chính luôn thấp hơn luật nên không thể trái ngược với những quy định mà hiến pháp và luật đã đặt ra.

– Hai là, quyết định hành chính được ban hành trong phạm vi thẩm quyền của chủ thể ra quyết định quản lý.

Các cơ quan (người có chức vụ) tuyệt đối không được ban hành những quyết định mà pháp luật không cho phép, vượt quá phạm vi quyền hạn được trao, không được lẩn tránh và lạm quyền. Việc đảm bảo đúng thẩm quyền ở đây là thẩm quyền trên hai khía cạnh phạm vi và lĩnh vực. Cơ quan nào phụ trách quản lí cho khu vực, lĩnh vực gì thì ra quyết định hành chính cho khu vực, lĩnh vực ấy, không được phép vượt quá thẩm quyền, thậm chí, cấp trên cũng không được can thiệp vào lĩnh vực của cấp dưới.

– Ba là, quyết định hành chính phải bảo đảm trình tự, thủ tục, hình thức theo luật định.

Các quyết định quy phạm và quyết định cá biệt tuy không có trình tự thủ tục phức tạp như quyết định chủ đạo nhưng đều là những văn bản pháp luật, có tính pháp lý nên về hình thức, trình tự thủ tục xây dựng và ban hành phải tuân thủ theo đúng những gì pháp luật đã quy định.

2.4. Yêu cầu về tính hợp lý của quyết định hành chính.

Để bảo đảm tính hiệu quả, quyết định hành chính phải đáp ứng các yêu cầu về tính hợp lý vì có hợp lý thì mới có khả năng thực thi cao. Một quyết định hành chính được coi là có tính hợp lý khi nó đáp ứng được yêu cầu: – Quyết định hành chính phải tính đến yêu cầu tổng thể bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, tập thể và cá nhân. Yêu cầu này đòi hỏi sự cân đối hợp lý giữa lợi ích Nhà nước và xã hội, coi lợi ích Nhà nước và lợi ích chung của công dân là tiêu chí để đánh giá sự hợp lý của quyết định hành chính.

– Quyết định hành chính phải xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước, tuyệt đối không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của chủ thể ra quyết định.

– Quyết định hành chính phải bảo đảm kỹ thuật lập quy. Tức là ngôn ngữ, văn phong, cách trình bày phải rõ ràng, ngắn ngọn,dể hiểu, thuật ngữ pháp lí chính xác, không đa nghĩa.

Bởi các quyết định hành chính ban hành nhằm để thi hành luật trên thực tế nên nếu không rõ ràng chính xác sẽ dễ gây hiểu lầm dẫn đến áp dụng sai, thậm chí là tùy tiện, “lách luật” để phạm pháp.

– Quyết định hành chính phải có tính khả thi, có nghĩa là phải có cơ sở, điều kiện để thực hiện quyết định trên thực tế. Những quyết định không mang tính khả thi trên thực tế sẽ không đem lại hiệu quả mong muốn.

Như vậy một quyết định hành có tính khả thi là một quyết định có khả năng thực hiện trên thực tế hay nói cách khác là những quyết định có khả năng đi vào cuộc sống mà không dừng lại trên giấy.

Cụ thể là ta cần phải đảm bảo tính khách quan, thoát ly thực tiễn kinh tế – xã hội, coi thường quy định pháp luật xã hội, áp đặt lên xã hội những quy định mà không cần, không mong muốn, không thể thực hiện được. Muốn làm được như vậy, thì đòi hỏi các cơ quan xây dựng quyết định hành chính phải bán sát thực tiễn xã hội và đánh giá được thực hiện trạng đang diễn ra.

Những Yêu Cầu Ngôn Ngữ Văn Bản Hành Chính

23/02/2005 DrLuuKiemThanh/HVHCQG-VP * TS. Lưu Kiếm Thanh HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH CQ: 04-8357083; 04-7730849NR: 04-8636227DĐ: 0913045209E-mail: luukiemthanh@yahoo.com 23/02/2005 DrLuuKiemThanh/HVHCQG-VP * Những yêu cầu ngôn ngữVĂN BẢN HÀNH CHÍNH Văn phong Từ ngữ Cú pháp Chính tả 23/02/2005 DrLuuKiemThanh/HVHCQG-VP * 1. Văn phong Văn phong hành chính-công vụ Văn chương-nghệ thuật Chính luận-báo chí Khoa học Khẩu ngữ 23/02/2005 DrLuuKiemThanh/HVHCQG-VP * Văn phong hành chính-công vụ Chính xác Khách quan Trang trọng Phổ thông Khuôn mẫu ngan gon 23/02/2005 DrLuuKiemThanh/HVHCQG-VP * 2. Từ ngữ Đơn nghĩa Đúng văn phong Đúng ngữ pháp Tu từ 23/02/2005 DrLuuKiemThanh/HVHCQG-VP * 2. Từ ngữ Đơn nghĩa Nghĩa đen Nghĩa bóng Nghĩa biểu cảm Nghĩa sở dụng 23/02/2005 DrLuuKiemThanh/HVHCQG-VP * 2. Từ ngữ Đúng văn phong Từ phổ thông, địa phương Từ lóng, thông tục Từ nghề nghiệp Từ mượn, Hán-Việt Từ mới, từ cổ, từ lịch sử Từ láy Từ thi ca, từ sách vở, hội thoại Thuật ngữ Thành ngữ 23/02/2005 DrLuuKiemThanh/HVHCQG-VP * 3. Cú pháp Câu đúng ngữ pháp Câu đơn nghĩa Câu mơ hồ Câu trần thuật Câu chủ động-bị động 23/02/2005 DrLuuKiemThanh/HVHCQG-VP * 4. Chính tả Bảng chữ cái Dấu giọng Phụ âm đầu Viết hoa Dấu câu 23/02/2005 DrLuuKiemThanh/HVHCQG-VP * Bảng chữ cái A a H h Q q Ă ă I i R r  â (J j) S s B b K k T t C c L l U u D d M m Ư ư Đ đ N n V v E e O o (W w) Ê ê Ô ô X x (F f) Ơ ơ Y y G g P p (Z z) QUYẾT ĐỊNH BGD SỐ 240/QĐ, 05-3-1984 23/02/2005 DrLuuKiemThanh/HVHCQG-VP * Dấu giọng Không Huyền Sắc Ngã Hỏi Nặng 23/02/2005 DrLuuKiemThanh/HVHCQG-VP * Phụ âm đầu L/N S/X CH/TR R/GI/D 23/02/2005 DrLuuKiemThanh/HVHCQG-VP * Viết hoa Bắt đầu câu Tên riêng … 23/02/2005 DrLuuKiemThanh/HVHCQG-VP * Viết hoa: Tên riêng Tên người Địa danh Tổ chức 23/02/2005 DrLuuKiemThanh/HVHCQG-VP * Tên riêng Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh 23/02/2005 DrLuuKiemThanh/HVHCQG-VP * Tên riêng Tổng công ty Thủy tinh và Gốm Xây dựng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 23/02/2005 DrLuuKiemThanh/HVHCQG-VP * Dấu câu Dấu chấm Dấu chấm phảy Dấu hai chấm Dấu chấm lửng Dấu chấm than Dấu hỏi chấm Dấu phảy Dấu ngoặc đơn Dấu ngoặc kép Dấu gạch ngang 23/02/2005 DrLuuKiemThanh/HVHCQG-VP * Dấu câu Trâu cày không được giết. Trâu cày, không được giết. Trâu cày không được, giết.

Ra Quyết Định Thi Hành Án Chủ Động Hay Theo Yêu Cầu?

Theo quy định tại Điều 36 Luật THADS, Thủ trưởng cơ quan THADS chủ động ra quyết định thi hành án và phân công chấp hành viên tổ chức thi hành đối với các phần bản án, quyết định sau: Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí Tòa án; trả lại tiền, tài sản cho đương sự; tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu huỷ vật chứng, tài sản; các khoản thu khác cho Nhà nước (bao gồm: khoản truy thu thuế; khoản viện trợ cho Nhà nước và các khoản bồi thường cho Nhà nước trong các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; các khoản thu khác nộp trực tiếp vào ngân sách nhà nước (khoản 3 Điều 6 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP) ; thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước; Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản).

Theo khoản 1 Điều 36 Luật THADS, ngoài những trường hợp ra quyết định thi hành án chủ động thì tất cả các khoản còn lại trong các bản án, quyết định đều thuộc diện phải có đơn yêu cầu thi hành án của đương sự thì cơ quan thi hành án mới ra quyết định thi hành án.

Trường hợp truy nộp, truy thu thuế: Bản án số 911/2016/HSST ngày 22/5/2016 của TAND huyện X tuyên: Ông T phải truy nộp số tiền 60.000.000đ, giao cho Ủy ban nhân dân (UBND) xã A quản lý.

Quan điểm thứ nhất cho rằng: căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 36 Luật THADS Thủ trưởng cơ quan THADS có thẩm quyền chủ động ra quyết định thi hành án đối với các phần bản án, quyết định về “Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí Tòa án”. Đây là khoản tiền truy nộp, do đó cơ quan THADS sẽ chủ động ra quyết định thi hành án.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Bản án đã tuyên khoản truy nộp này sẽ “giao cho UBND xã A quản lý” như vậy, người được thi hành án ở đây được xác định là ” UBND xã A”.

Mặt khác, khi ra quyết định thi hành án chủ động, cơ quan THADS sẽ gặp khó khăn khi tiến hành xử lý khoản tiền thu được, bởi vì theo Thông tư số 91/2010-BTC của Bộ Tài chính thì khoản truy nộp sẽ được ghi vào biên lai thu tiền nộp ngân sách nhà nước và các khoản tiền thu được sẽ được cơ quan THADS tiến hành nhập ngân sách nhà nước, trong khi đó theo quyết định của bản án thì khoản tiền truy nộp này lại được “giao cho UBND xã A quản lý”.

Do đó, trường hợp này cơ quan THADS cần ra quyết định thi hành án theo yêu cầu, từ đó mới có căn cứ để chi trả số tiền này cho UBND xã A, sau đó UBND xã sẽ tiến hành xử lý số tiền trên theo quy định. Trên thực tế các cơ quan THADS cũng gặp những trường hợp Tòa án tuyên tương tự như trường hợp trên.

Do còn có nhiều quan điểm chưa thống nhất trong việc lựa chọn quyết định thi hành án chủ động hay theo đơn yêu cầu đối với các trường hợp như trên nên việc thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Đề nghị cần tiếp tục có hướng dẫn cụ thể hơn về vấn đề này.