Yếu Tố Quyết Định In English / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Yếu Tố Quyết Định Trong Tiếng Tiếng Anh

Yếu tố quyết định không bao giờ là nguồn lực, mà chính là tài xoay xở.

The defining factor is never resources; it’s resourcefulness.

QED

Tư lợi có nhận thức không phải lúc nào cũng là yếu tố quyết định.

Rational self-interest is not always the dominating factor.

ted2019

” Thời gian dường như chính là yếu tố quyết định , ” Torgler lưu ý .

” Time seems to be a crucial element , ” noted Torgler .

EVBNews

Yếu tố quyết định thành công của vượt ngục gồm 3 điều.

A SUCCESSFUL BREAKOUT DEPENDS ON THREE THINGS,

OpenSubtitles2018.v3

Cuối cùng, là kỷ luật phi vũ trang, có nó có thể là yếu tố quyết định.

Now, at the end, nonviolent discipline. And this is probably the game- changer.

QED

Nhiều hơn một yếu tố quyết định có thể góp phần hình thành nhận thức của khách thể.

More than one determinant can contribute to the formation of the subject’s perception.

WikiMatrix

Chuẩn bị là yếu tố quyết định.

Preparation is the key.

jw2019

Nhưng vẫn thiếu một yếu tố quyết định.

But we were still missing a critical element.

ted2019

Ông biết đấy, tôi đang nghĩ về những yếu tố quyết định của Freud.

You know, I was wondering about Freudian determinants.

QED

Tư lợi có nhận thức không phải lúc nào cũng là yếu tố quyết định.

Rational self- interest is not always the dominating factor.

QED

Một yếu tố quyết định

A Determining Factor

jw2019

Tội trạng là một trong những yếu tố quyết định.

The nature of the wrongdoing is one of the determining factors.

jw2019

Điều gì sẽ là yếu tố quyết định cách chúng ta phản ứng?

What should be the determining factor in our response?

jw2019

Quy mô không quan trọng nữa, linh hoạt mới là yếu tố quyết định.

Scale does not matter anymore, flexibility does.

ted2019

Thứ hai, tăng cường tạo thuận lợi thương mại có thể là một yếu tố quyết định.

Second, promoting trade facilitation could be a game changer.

worldbank.org

Môi trường là yếu tố quyết định.

Environment is very, very crucial.

QED

Nhưng có phải nơi chốn luôn là yếu tố quyết định không?

But is this always the case?

jw2019

Đây cũng là một trong những yếu tố quyết định đến sự thành bại của một doanh nghiệp .

It is also a good example of learning from one’s defeats.

WikiMatrix

Tuổi tác không phải là yếu tố quyết định.

Age is not the primary factor.

jw2019

Nhiệt độ thay đổi ít theo mùa; độ cao là yếu tố quyết định chính.

Temperatures vary little with season; elevation is the primary determinant.

WikiMatrix

Gen có thể là một yếu tố quyết định.

Genes could play a role.

jw2019

Tuy nhiên, trong thánh chức rao giảng, thời gian không luôn luôn là yếu tố quyết định.

In our field ministry, however, timing is not always a factor.

jw2019

Người dùng có thể coi mẫu là yếu tố quyết định khi mua đồ nội thất.

Users might use pattern as a deciding factor when shopping for furniture.

support.google

Sự chú ý của người ta là yếu tố quyết định.

The primary factor is the person’s interest.

jw2019

Từ mùng 2 tới mùng 4, quan điểm của quân đội là yếu tố quyết định.

Between October 2–4, the position of the army was the deciding factor.

WikiMatrix

Những Yếu Tố Quyết Định Trong Marketing Trực Tiếp

Bạn đang tham gia vào lĩnh vực marketing và còn nhiều kiến thức chưa nắm được về lĩnh vực này. Ấy vậy mà dân trong ngành nó cứ nhắc từ , làm bạn chẳng hiểu được ý nó muốn nói gì. Mời bạn cùng tìm hiểu về từ ngữ chuyên ngành này qua bài viết bên dưới để vận dụng tốt hơn.

Khái niệm

Thông thường, sản phẩm hay dịch vụ được chuyển từ người sản xuất đến người tiêu dùng, không phải qua người trung gian nào, được gọi là hình thức marketing trực tiếp.

Theo đó, cách marketing này được hiểu rộng hơn là cách các doanh nghiệp sử dụng lực lượng bán hàng trực tiếp cho người sử dụng cuối cùng hay tổ chức ra các cửa hàng bán lẻ.

Ngày nay, cùng với sự phát triển của kỷ thuật truyền thông, các hình thức marketing trực tiếp phải được hiểu là một hệ thống tương tác marketing.

Do đó, dạng marketing này được thực hiện nhằm thu được một đáp ứng đo lường được, tức là thấy được và phát triển kinh doanh được. Đó thường là một đơn đặt hàng của người mua, hoặc một dịch vụ offer đặt hàng.

Theo cách này, dựa vào cơ sở dữ liệu khách hàng là chủ yếu, người dùng thiết lập các mối quan hệ và tìm hiểu khách hàng.

Cụ thể như việc quảng bá của các hãng hàng không, các khách sạn và doanh nghiệp thương mại, gần như họ đều dựa vào thống kê tần suất khách hàng qua mình đều đặn để đánh giá và mở rộng thị trường.

Có thể bằng cách tặng quà, khuyến mãi, chào hàng từng khách… đơn giản nhưng lại tìm ra được những khách hàng tiềm năng.

Hiện nay, các hình thức phổ biến của dạng marketing này là qua các phương tiện truyền thông như catalog, thư tín, truyền hình, truyền thanh, báo và tạp chí …

Hơn nữa, để tiện lợi và đảm bảo thông tin đến với hết các thị trường thì còn qua các kênh mua hàng điện tử, mua hàng qua máy đặt hàng tại các cửa hàng, sân bay …

Thực tế cho thấy, loại quảng bá này mang lại nhiều lợi ích, lại tiết kiệm thời gian và công sức kha khá cho mỗi người.

Thử nghĩ xem, bạn có thể ngồi tại nhà xem catalog hoặc thông tin qua mạng điện tử, nhưng lại có thể đặt mua quà và gửi tặng ai đó mình thích. Thậm chí chúng ta còn có thể tìm hiểu về sản phẩm và dịch vụ cách tốt nhất mà không bị ràng buộc bởi chuyện di chuyển, thời gian… để gặp gỡ nhân viên bán hàng.

Các công cụ thiết yếu trong Marketing trực tiếp

Để có được một chiến dịch Marketing trực tiếp đạt hiệu quả cao, cần phải thực hiện kết hợp 6 hình thức thiết yếu sau:

Gửi thư trực tiếp cho khách hàng

Gọi điện trực tiếp đến khách hàng

Gửi Email trực tiếp đến khách hàng

Thực hiện các phiếu khảo sát trực tiếp từ khách hàng

Tổ chức các sự kiện ngoài trời cho khách hàng

Trắc nghiệm các yếu tố marketing trực tiếp và đo lường mức độ thành công của nó, ta có thể khẳng định: người làm marketing trực tiếp phải đưa ra các quyết định về mục tiêu và khách hàng mục tiêu, chiến lược chào hàng một cách thuyết phục nhất và mang lại hiệu quả tối ưu nhất có thể theo thị trường đang làm.

Mục tiêu

Không nằm ngoài mục tiêu cơ bản của thị trường, mục tiêu của dạng quảng bá này là phải làm cho khách hàng tiềm năng mua ngay sản phẩm khi tiếp cận.

Thị trường ở việt nam hiện nay nhìn nhận mức độ phản ứng đáp lại bằng 2% được xem như là khá tốt trong chiến dịch quảng bá marketing trực tiếp. Nhưng bên cạnh đó, con số 98% còn lại cũng đáng chú ý, được xem là 98% nỗ lực vô ích của chiến dịch.

Trái với suy nghĩ đó, một vài nhận định cho rằng lợi ích chủ yếu của việc trực tiếp quảng bá là lập được danh sách khách hàng tiềm năng cho lực lượng bán hàng nắm bắt và phát đi thông tin củng cố thương hiệu của doanh nghiệp.

Còn các mục tiêu khác có thể chỉ cần tạo cho khách hàng biết đến và ý định sẽ mua sau này. Thế nên ta thấy tầm quan trọng của dạng này cũng khá cần thiết đối với một số mặt hàng cụ thể.

Khách hàng mục tiêu

Mục tiêu tốt nhất là những khách hàng mua thường xuyên và mua nhiều, đây chính là những khách hàng hiện có và khách hàng tiềm năng có nhiều triển vọng mua hàng nhất trong thị trường quảng bá.

Ngoài ra, ta cũng có thể sử dụng những tiêu chuẩn phân đoạn thị trường để xác định khách hàng mục tiêu theo thu nhập, hoàn cảnh gia đình và lý do mua hàng, tuổi tác, giới tính, học vấn, nghề nghiệp, …

Kết quả phân đoạn này là cơ sở dữ liệu để lập danh sách những khách hàng triển vọng, có khả năng tiếp cận dịch vụ nhiều nhất trong thị trường đang đặt đến.

Chiến lược chào hàng

Ta biết được chiến lược chào hàng gồm các yếu tố:

Chào hàng – bằng thư hoặc lời nói

Sản phẩm

Phương tiện truyền thông

Phương pháp phân phối

Ứng xử sáng tạo

Nhà làm marketing phải xây dựng một chiến lược chào hàng có hiệu quả, có thể tự đặt ra câu hỏi cho mình trong quá trình làm. Cụ thể như:

Cách chào hàng như thế nào thì phù hợp với sản phẩm

Phương pháp phân phối cần làm thế nào để hiệu quả tối ưu nhất có thể.

Cách ứng xử như thế nào là hợp lý trong trường hợp khách hàng cần làm rõ mặt hàng mình đang cần bán.

Trắc nghiệm các yếu tố marketing trực tiếp và đo lường kết quả

Lợi ích của marketing trực tiếp cần nói đến là trắc nghiệm được tính hiệu quả của các yếu tố khác nhau trong cùng điều kiện của thị trường của các chiến dịch chào hàng được hoạch định.

Việc trắc nghiệm được các yếu tố này có khả năng làm tăng số người biết đến sản phẩm một cách đáng kể; chưa hết, số người hình thành ý định mua trong tương lai cũng được đánh giá xác đáng. Ta thấy: dù nó chỉ là một con số, nhưng từ đó có thể mở rộng khả năng kinh doanh mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp.

Marketing trực tiếp được đánh giá là phương pháp marketing hữu hiệu, gần gũi cho các doanh nghiệp trên thị trường. Cách hình dung khá đơn giản, nhưng hiệu quả lại rất cao. Đây thực sự là phương pháp không thể bỏ qua cho những ai hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thương mại.

Những Yếu Tố Quyết Định Đến Tốc Độ Của Máy Tính

Hiệu suất hoạt động của từng bộ phận cấu thành nên máy tính có thể được đo bằng gigahertz và gigabyte, thế nhưng nhiều khi hiệu suất tổng thể của hệ thống không nhất thiết bằng chính xác tổng hiệu xuất của các bộ phận cấu thành. Việc tính toán tốc độ của máy tính xem nó nhanh hay chậm không phải là một nhiệm vụ đơn giản vì tốc độ của chung phần cứng bị chi phối khá nhiều bởi mức độ tương tác giữa các bộ phận cũng như cái cách mà bạn sử dụng máy tính. Nếu muốn cải thiện tốc độ của hệ thống máy tính, điều đầu tiên bạn cần phải chú ý đó chính là việc sắp xếp và lựa chọn các bộ phận cấu thành sao cho hợp lý để chúng có thể tương tác với nhau một cách hiệu quả nhất

Bộ xử lý trung tâm (CPU)

Đây không những là “bộ não” của hệ thống máy tính mà còn đóng vai trò quan trọng trong cả 2 yếu tố: Máy tính có thể chạy được những chương trình phức tạp hơn và đa nhiệm hiệu quả hơn hay không. Tuy nhiên, đừng quá chú trọng vào những thông số về tốc độ xử lý theo thông báo của nhà sản xuất (được đo bằng GHz/giây). Có nhiều thứ đáng quan tâm hơn nếu bạn muốn CPU hoạt động hiệu quả hơn.

Giả sử ta có ở đây 2 bộ xử lý: Một bộ xử lý 2,7 GHz (tốc độ 2,7 tỷ chu kỳ xoay mỗi giây) so với bộ xử lý 3,1GHz (3,1 tỷ chu kỳ xoay mỗi giây). Về lý thuyết, bộ xử lý 3,1 GHz có số vòng xoay mỗi giây lớn hơn, nhưng CPU 2,7 GHz thực sự vẫn có thể đạt được hiệu năng sử dụng bằng hoặc nhiều hơn trong mỗi chu kỳ nếu nó có nhiều lõi hơn, nhiều bóng bán dẫn hơn hoặc có thêm các tính năng bổ sung khác làm cho tốc độ của nó nhanh hơn. Một bộ xử lý Intel i3 và bộ vi xử lý Intel i5 cùng có tốc độ 2,9GHz, nhưng chắc chắn chip i3 rẻ hơn và chậm hơn bởi vì có hiệu suất hoạt động kém hơn trong mỗi chu kỳ xoay.

Một thông số khác cũng cần phải xem xét đến ở đây là bộ nhớ cache của CPU, thường được liệt kê là L2, L3 hoặc L4. Đây là bộ nhớ siêu nhanh cho phép CPU xử lý các tác vụ phức tạp hơn. Dung lượng bộ nhớ cache lớn là cần thiết cho việc cải thiện tốc độ của máy tính, nhưng nó chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi máy được sử dụng ở hiệu suất cao (high performance).

Bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên (RAM)

Dung lượng RAM lớn hơn về cơ bản sẽ giúp không gian bộ nhớ ngắn hạn của máy tính bớt chật chội hơn, cho phép nhiều tác vụ được thực hiện cùng một lúc hơn.

Không giống như bộ xử lý, chất lượng RAM là yếu tố quyết định chứ không phải là số lượng RAM. Nghĩa là một thanh RAM với tốc độ xử lý cao hơn và độ trễ thấp hơn có thể ăn đứt một thanh RAM có dung lượng lớn hơn. Đó cũng là lý do vì sao những thanh RAM đời mới hơn luôn cho hiệu năng sử dụng tốt hơn: DDR4 tốt hơn DDR3, v.v.

Ổ đĩa cứng (HDD) và ổ đĩa thể rắn (SSD)

Đơn giản thôi, SSD luôn luôn cho tốc độ xử lý nhanh hơn và hiệu năng tốt hơn so với HDD. Tất nhiên giá của SSD cũng “chát” hơn một chút. Tuy nhiên ngay cả SSD ở level “lởm” nhất cũng vẫn có thể giúp cải thiện kha khá tốc độ của máy tính. Chúng chạy êm hơn, mát hơn, đáng tin cậy hơn, tiết kiệm năng lượng hơn và quan trọng là dễ dàng nâng cấp hơn.

Các loại SSD chính trên thị trường hiện nay (tính đến tháng 8 năm 2018) bao gồm: Single Layer Cell (SLC), Multiple Layer Cell (MLC), và Triple Layer Cell (TLC). Quy tắc chung ở đây là nhiều layer/cell hơn = rẻ hơn, tuổi thọ ngắn hơn và chậm hơn. “Chậm” ở đây là một thuật ngữ tương đối, loại SSD này có thể chậm hơn loại SSD kia nhưng tất cả chúng đều nhanh hơn so với HDD.

Bộ xử lý đồ họa (GPU)

Nói chung, card đồ họa là những món “đồ chơi” xa xỉ trong thế giới máy tính. Nếu bạn đang có nhu cầu nâng cấp máy để chiến những game mới nhất, làm việc với nhiều ứng dụng đồ họa nặng hoặc đào tiền tiền điện tử… GPU tốt là một thành phần không thể thiếu.

Bo mạch chủ/tốc độ bus (FSB)

Bo mạch chủ là nơi hầu hết các thành phần chính của máy tính được kết nối với nhau, bo mạch chủ không đóng vai trò quá quan trọng trong việc quyết định tốc độ của hệ thống. Những bộ phận cấu thành trên bo mạch chủ hoàn toàn có thể tự quyết định tốc độ xử lý khi cần thiết. Đối với những hệ thống cao cấp (đặc biệt là các hệ thống custom), tốc độ Front Side Bus (FSB) nhanh hơn sẽ giúp hệ thống tận dụng được tốt hơn hiệu năng của CPU hoạt động ở hiệu năng cao. Nói chung, người dùng phổ thông không cần phải lo lắng về điều này.

Phần mềm

Khi nói đến phần mềm, có một vài điều cần phải lưu ý như sau:

Hệ điều hành: Chạy Windows 10 trên một máy tính có độ cấu hình thấp kiến bạn cảm thấy máy chậm chạp hơn, nhưng nếu cũng máy đó mà bạn cài một bản Linux nhỏ thì chắc chắn tốc độ của máy sẽ nhanh hơn kha khá.

Chương trình: Nếu bạn thường chỉ sử dụng Notepad và Firefox thì không cần phải bàn nhiều. Tuy nhiên, chỉ cần cho phát một video thôi, lúc đó hệ thống nào mạnh yếu ra sao sẽ dễ dàng được xác định rõ.

Các chương trình nền: Ngay cả các máy tính có hiệu năng cao cũng có thể bị sa lầy với các chương trình chạy nền. Do đó việc gỡ bỏ các chương trình này có thể giúp ích rất nhiều trong việc cải thiện tốc độ cho máy tính.

Các phần mềm mới: Máy tính cũ + phần mềm mới = tốc độ giảm đi một chút.

Các phần mềm rác: Bạn càng sử dụng máy tính lâu thì càng có nhiều dữ liệu rác cần phải được gỡ bỏ. Việc xóa và cài đặt lại có thể khiến máy tính vận hành như mới.

Tóm lại, nếu bạn muốn làm cho máy tính của mình nhanh hơn, điều quan trọng nhất cần xem xét kĩ đó là bạn sẽ sử dụng máy tính như thế nào. Người dùng phổ thông tất nhiên sẽ không cần đến những thông số kỹ thuật khủng và ngược lại. Một CPU tốt, dung lượng RAM lớn và SSD sẽ đáp ứng đủ tốc độ mà người dùng trung bình cần, nhưng nếu bạn có nhu cầu về một hệ thống mạnh hơn nữa, bạn sẽ phải nghiên cứu thật kỹ lưỡng với nhiều phương diện.

Yếu Tố Quyết Định Thắng Lợi Việc Thực Hiện Nghị Quyết Của Đảng

Việc học tập, quán triệt, triển khai chỉ thị, nghị quyết của Đảng được đổi mới tích cực về nội dung và hình thức.

Trong những năm qua, việc học tập, quán triệt, triển khai chỉ thị, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tại Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương đã được đổi mới tích cực về hình thức; ý thức, trách nhiệm của cấp ủy và cán bộ, đảng viên trong việc học tập chỉ thị, nghị quyết của Đảng được nâng lên; sau khi được học tập, quán triệt, cán bộ, đảng viên đều thực hiện viết thu hoạch; các cấp ủy đều tiến hành xây dựng chương trình, kế hoạch hành động để tổ chức thực hiện, đây là việc làm thường xuyên để cụ thể hóa nghị quyết của Đảng mà các cấp ủy đã và đang thực hiện.

Thực tế cho thấy, chương trình hành động, kế hoạch thực hiện nghị quyết của cấp ủy đạt yêu cầu trên cả hai tiêu chí về tiến độ và nội dung. Đặc biệt chương trình, kế hoạch của một số cấp ủy ngắn gọn, thể hiện năm rõ là: Rõ nội dung, rõ giải pháp, rõ hiệu quả, rõ thời gian và rõ về người chịu trách nhiệm đã tạo thuận lợi cho việc chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, đánh giá việc tổ chức thực hiện.

Tuy nhiên, không khó khăn để nhận thấy, việc xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện Nghị quyết của Đảng ở một số cấp ủy đặt ra một số lưu ý, hạn chế cần được đánh giá nghiêm túc để sớm khắc phục như: Việc xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện nghị quyết thường giao cho ban tuyên giáo hoặc cán bộ phụ trách công tác đảng mà chưa có sự phối hợp, phân công theo đặc thù nội dung của từng nghị quyết; nội dung chương trình hành động, kế hoạch thực hiện chưa phản ánh đúng nội dung, yêu cầu, mục đích triển khai thực hiện ở cấp ủy, cơ quan, đơn vị; chưa phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cấp ủy, cơ quan, đơn vị; mục tiêu trong chương trình, kế hoạch chưa được định lượng, không có chỉ số tham chiếu để đánh giá mức độ tích cực dẫn đến thiếu tính khả thi.

Bên cạnh đó, nội dung về tổ chức thực hiện trong chương trình, kế hoạch hành động còn chung chung, chưa rõ người, rõ việc, rõ mục tiêu, rõ giải pháp và thời gian thực hiện; việc kiểm tra, đánh giá, sơ kết, tổng kết chưa cụ thể về cách thức, thời gian thực hiện. Một số ít chương trình hành động, kế hoạch của cấp ủy chưa xác định rõ chủ thể, khách thể chịu trách nhiệm thực hiện, chưa xác định rõ nhiệm vụ của tập thể và cán bộ, đảng viên; bố cục chương trình hành động còn giống với nghị quyết của Trung ương và chương trình hành động của cấp ủy cấp trên. Một số cấp ủy còn giữ nguyên các nhiệm vụ, giải pháp trong nghị quyết của Trung ương và chương trình hành động của cấp ủy cấp trên vào chương trình hành động, dẫn đến có nội dung, nhiệm vụ, giải pháp không thuộc chức năng, nhiệm vụ của cấp ủy, cơ quan, đơn vị.

Tình trạng sao chép, chỉnh sửa, mô phỏng chương trình hành động giữa các cấp ủy với nhau và với cấp ủy cấp trên vẫn xảy ra, do vậy chương trình hành động thực chất chỉ mang tính thủ tục để báo cáo với cấp ủy cấp trên và khi có đoàn kiểm tra. Những hạn chế trong xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện Nghị quyết của Đảng không còn là hiện tượng, đang trực tiếp ảnh hưởng không tốt đến quá trình học tập, quán triệt và thực hiện nghị quyết, rất cần được nhìn nhận trên cả hai phương diện nhận thức về trách nhiệm và khoa học.

Để nâng cao chất lượng xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Đảng ở Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương, lãnh đạo Đảng ủy xác định rõ được vai trò, tầm quan trọng và trách nhiệm của cấp ủy, đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy khi xây dựng và ban hành chương trình hành động, kế hoạch thực hiện nghị quyết. Chỉ khi mỗi cấp ủy đưa ra được chương trình hành động thỏa đáng, đúng tinh thần nghị quyết, phù hợp với điều kiện của cơ quan, đơn vị thì nghị quyết của Đảng mới thực sự đi vào đời sống. Như vậy, xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện là một quá trình sáng tạo chứ không thể là sự lặp lại nội dung câu chữ trong nghị quyết hoặc chương trình hành động của cấp trên. Thực chất quá trình xây dựng nghị quyết chính là chuyển thể nghị quyết của Đảng thành sản phẩm đặc thù của mỗi cấp ủy, mà ở đó từng nội dung, giải pháp thể hiện rõ lợi thế, đặc thù về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan, đơn vị. Càng không thể dập khuôn, copy kiểu cơ quan nào cũng làm kinh tế, cơ quan nào cũng làm chính sách, biến chương trình hành động thành sản phẩm ai làm cũng được mà không ai làm cũng xong.

Chương trình hành động không phải là nghị quyết, nhưng chương trình hành động cần đảm bảo tính logic, kế thừa thành quả đã có, phản ánh đầy đủ nội dung, yêu cầu của nghị quyết trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của cấp ủy, cơ quan, đơn vị. Do đó, từng nhiệm vụ và giải pháp phải thật sự mang tính khả thi cả về hiệu quả và tổ chức thực hiện, phải làm rõ được các câu hỏi; mức độ của mục tiêu phù hợp chưa, giải pháp có phù hợp không, thời gian thực hiện và năng lực của cơ quan, đơn vị, cá nhân thực hiện có đảm bảo không…

Bên cạnh đó, cấp ủy cấp trên cần căn cứ vào từng nội dung nghị quyết để định hướng cấp ủy trực thuộc xây dựng chương trình hành động sát với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, đảm bảo sự đồng bộ trong toàn ngành. Hình thức chương trình hành động cần ngắn gọn, xúc tích, không lan man, không nhất thiết nêu thực trạng tình hình hoặc phương hướng vì trong nghị quyết đã định hướng, mà đi thẳng vào mục tiêu dự kiến đạt được, bao gồm mục tiêu ngắn hạn, mục tiêu dài hạn, thậm chí có mục tiêu cần xác định đạt được trong thời gian một năm; mỗi mục tiêu tương ứng với nhiệm vụ, giải pháp hoặc đề án cụ thể gắn với lộ trình thực hiện và cán bộ hoặc nhóm cán bộ, công chức, viên chức phụ trách thực hiện. Đối với nghị quyết về xây dựng đảng, mục tiêu trong chương trình hành động cần lượng hóa để dễ đánh giá hiệu quả.

Chương trình hành động của cấp ủy, là sản phẩm của tập thể, do vậy, quá trình xây dựng, hoàn thiện cần phối hợp chặt chẽ với đảng đoàn, ban cán sự đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị; đồng thời lấy ý kiến trong cấp ủy, hoặc lấy ý kiến đến đảng viên để tranh thủ tối đa sự tham gia của tập thể, phát huy sức sáng tạo của cán bộ, đảng viên, đồng thời gắn trách nhiệm của đảng viên trong thực hiện chương trình hành động. Cần chú trọng công tác tuyên truyên, coi đây là giải pháp đầu tiên để làm cho cán bộ, đảng viên thống nhất về nhận thức, hiểu được nhiệm vụ, xác định được trách nhiệm tập thể, cá nhân để thực hiện chức trách được giao. Đồng thời, cần đề ra chế độ kiểm tra, giám sát để đánh giá tình hình, kết quả thực hiện nghị quyết một cách thường xuyên hoặc định kỳ. Sau mỗi kỳ kiểm tra, đánh giá, cần kịp thời xem xét để điều chỉnh, bổ sung nhiệm vụ trong chương trình hành động để tổ chức thực hiện đạt hiệu quả đề ra.

Có thể thấy, chương trình hành động của cấp ủy là sản phẩm sau khi được tiếp thu nghị quyết của Đảng, chất lượng của chương trình hành động phản ánh tư duy, nhận thức của cấp ủy về nghị quyết đó, là chất lượng học tập nghị quyết và ý thức của cấp ủy về thực hiện nghị quyết của Đảng. Ban Chấp hành Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/ĐUK về ngày 27/10/2016 về đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng trong Đảng bộ Khối, trong đó có đề cập việc xây dựng chương trình hành động để lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghị quyết. Đây là cơ sở để quán triệt việc xây dựng chương trình hành động, xong rõ ràng từ thực tế cho thấy, rất cần có sự chỉ đạo cụ thể hơn và hướng dẫn rõ, tạo sự chuyển biến về nhận thức của các cấp ủy trong toàn đảng bộ, xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện nghị quyết của Đảng thực chất hơn, có như vậy mới làm cho nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống./.