Bạn đang xem bài viết Tp. Hồ Chí Minh Tiếp Tục Hạn Chế Tụ Tập Trên 20 Người Nơi Công Cộng được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Trong đó, những lĩnh vực tiếp tục tạm dừng hoạt động bao gồm: Cơ sở làm đẹp, phẫu thuật thẩm mỹ, spa, vật lý trị liệu, massage, xông hơi; các tụ điểm vui chơi, giải trí, san khấu, rạp chiếu phim, trung tâm tiệc cưới, vũ trường, quán bar, karaoke, pub, beer club, hát với nhau; các điểm kinh doanh trò chơi điện tử (internet, game-online); các trung tâm thể thao và cơ sở kinh doanh thể thao trong nhà; việc tiếp nhận khách mới tại các cơ sở lưu trú kinh doanh theo mô hình Homestay, AirBnb; nghi lễ, hoạt động tôn giáo có tập trung từ 20 người trở lên tại cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng, thờ tự; hoạt động, hội họp tập trung trên 20 người; tụ tập trên 20 người nơi công cộng, bên ngoai phạm vi công sở, trường học, bệnh viện.
Văn bản số 1490 của UBND Thành phố về tiếp tục thực hiện công tác phòng chống dịch Covid-19 trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh
Văn bản của UBND Thành phố cũng chỉ rõ, những lĩnh vực không nêu ở trên thì được phép hoạt động và phải thực hiện nghiêm theo các nội dung quy định của Bộ tiêu chí đánh giá mức độ hoạt động an toàn trong thực hiện phòng, chống dịch Covid-19 do cơ quan nhà nước ban hành; chịu sự quản lý, giám sát của các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương.
Ngoài ra, các cơ quan, đơn vị nhà nước tổ chức làm việc bình thường; phải đảm bảo thực hiện nghiêm các quy định phòng, chống dịch đối với người đến trụ sở làm việc và liên hệ công tác; tiến hành vệ sinh phòng họp, khử khuẩn các bề mặt, các đồ vật tiếp xúc với người dự họp sau mỗi cuộc họp. Đẩy mạnh giải quyết các thủ tục hành chính qua mạng, qua hệ thống bưu điện; ứng dụng hệ thống công nghệ thông tin để họp trực tuyến và trao đổi công việc.
Tiếp tục thực hiện nghiêm việc đeo khẩu trang tại nơi công cộng và nơi làm việc. Đảm bảo giữ khoảng cách tiếp xúc tối thiểu là 2m giữa người với người tại các địa điểm công cộng. Người dân hạn chế ra khỏi nhà nếu không thật sự cần thiết.
Các biện pháp phòng chống dịch Covid-19 nêu trên được bắt đầu áp dụng từ ngày 23/4/2023 cho đến khi có chỉ đạo, hướng dẫn mới.
UBND Thành phố yêu cầu Thủ trưởng các Sở-ban-ngành, Chủ tịch UBND các quận-huyện, phường-xã-thị trấn khẩn trương triển khai nội dung này và chịu trách nhiệm trước Chủ tịch UBND Thành phố nếu để xảy ra các trường hợp không chấp hành nghiêm các chỉ đạo trên.
Vân Anh
Tp.hcm Phạt Người Không Đeo Khẩu Trang Nơi Công Cộng Từ 5
Tại cuộc họp Ban chỉ đạo phòng chống dịch COVID-19 chiều 3-8, Chủ tịch UBND chúng tôi Nguyễn Thành Phong chỉ đạo cơ quan chức năng chúng tôi tiếp tục kiểm tra, xử phạt những người không đeo khẩu trang tại nơi công cộng từ ngày 5-8. Các sở ngành, quận huyện phải thông tin đến người dân những địa điểm bán khẩu trang trên địa bàn.
Tuổi Trẻ Online trao đổi với ông Từ Lương, phó giám đốc Sở Thông tin – truyền thông TP.HCM.
Phạt 100.000 – 300.000 đồng nếu không đeo khẩu trang
Theo ông Từ Lương, tại văn bản 262 ngày 29-7, Thủ tướng chỉ đạo chủ tịch UBND tỉnh, thành phố tùy diễn biến dịch, quyết định mức nguy cơ và áp dụng các biện pháp phòng chống dịch phù hợp theo chỉ đạo của Thủ tướng tại Chỉ thị 16 và Chỉ thị 19.
Theo chỉ đạo của Chủ tịch UBND chúng tôi c hính quyền địa phương có thẩm quyền cần tăng cường xử phạt hành vi không đeo khẩu trang nơi công cộng theo nghị định 176/2013.
Theo quy định điểm a, khoản 1, điều 11 nghị định số 176/2013 hành vi không đeo khẩu trang nơi công cộng là vi phạm: ” Không thực hiện biện pháp bảo vệ cá nhân đối với người tham gia chống dịch và người có nguy cơ mắc bệnh dịch theo hướng dẫn của cơ quan y tế”. Mức xử phạt cho hành vi này là 100.000 – 300.000 đồng.
Chủ tịch UBND cấp xã, phường, thị trấn, công chức, viên chức ngành y tế, các cơ quan có thẩm quyền sẽ thực hiện việc kiểm tra, xử lý người không đeo khẩu trang khi ra đường.
Trước đó, trong giai đoạn cao điểm phòng chống dịch COVID-19 lần 1, các địa phương đã đồng loạt xử phạt rất đều.
Đeo khẩu trang: Biện pháp hàng đầu
Ông Từ Lương cho hay sau cao điểm phòng chống dịch COVID-19 lần 1, ở chúng tôi có nhiều người chủ quan, lơ là biện pháp bảo vệ cá nhân.
Ông Lương thông tin mặc dù tình hình dịch bệnh ở chúng tôi đến nay vẫn an toàn nh ưng người từ Đà Nẵng về chúng tôi trong 27 ngày (từ ngày 1 đến 27-7) khoảng 140.000 người, rất có nguy cơ mang virus.
Tại cuộc họp Ban chỉ đạo phòng chống dịch COVID-19 chiều 3-8, Bí thư Thành ủy chúng tôi Nguyễn Thiện Nhân đánh giá tình hình dịch bệnh ở thành phố hiện nay an toàn nhưng vẫn có nguy cơ nên phải ngăn chặn từ xa. chúng tôi hiện nay có hai nguy cơ lớn là người dân từ tâm dịch Đà Nẵng về và người nước ngoài nhập cảnh trái phép.
Ông Nhân chỉ đạo thực hiện nhiều biện pháp để phòng chống dịch COVID-19 thời gian tới. Trong đó tuyên truyền người dân nêu cao ý thức chủ động phòng ngừa, coi việc đeo khẩu trang khi đến những khu vực đông người là biện pháp hàng đầu.
Trường Đại Học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Giới thiệu trường
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh là trường đại học công lập nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh được thành lập theo Quyết định số 1234/QĐ-TTg ngày 30/03/1996 của Thủ tướng Chính phủ, là thành viên của Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
Ngày 10/10/2000, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 118/2000/QĐ-TTg về việc tách Trường Đại học Luật thuộc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh thành Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trải qua 20 năm hình thành và phát triển, trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh trở thành trường đào tạo luật hàng đầu ở khu vực phía Nam, đạt chất lượng cao trong giảng dạy và nghiên cứu để góp phần xây dựng cộng đồng, phát triển đất nước và hội nhập, hợp tác quốc tế với các nước trên thế giới và các quốc gia trong khu vực.
Từ năm học 2011-2012, Trường có 7 chuyên ngành đào tạo đại học (Luật Thương mại, Luật Dân sự, Luật Quốc tế, Luật Hình sự, Luật Hành chính, Quản trị – Luật và Anh văn pháp lý), 5 chuyên ngành đào tạo thạc sĩ (chuyên ngành Luật Hành chính, Luật Hình sự, Luật Kinh tế, Luật Dân sự và Tội phạm học – Điều tra tội phạm) và 3 chuyên ngành tiến sĩ (Luật Kinh tế, Luật Hình sự và Luật Hành chính – Nhà nước) với gần 12.000 học sinh, sinh viên, học viên theo học. Hàng năm, có khoảng 3.300 học sinh, sinh viên, học viên ở các trình độ trung cấp, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ tốt nghiệp với nhiều chuyên ngành luật khác nhau, bổ sung một nguồn nhân lực quan trọng cho xã hội nói chung và khu vực các tỉnh phía Nam nói riêng.
Đoàn Luật Sư Tp. Hồ Chí Minh
I. SÀI GÒN: CÁI NÔI CỦA NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM
1. Ngày 26-11-1867, Thống đốc Nam Kỳ De La Grandière ban hành Nghị định về việc hành nghề bào chữa trước các Tòa án Pháp. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên về nghề luật sư được chính quyền thực dân ban hành ở xứ “Nam Kỳ thuộc Pháp”. Người hành nghề bào chữa lúc đó gọi là “biện hộ viên” (Défenseur); sau (từ 1884) gọi là “luật sư biện hộ” (Avocat défenseur).
2. Sau khi thôn tính cả nước Việt Nam (1883-1884), năm 1887 Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, gồm thuộc địa Nam Kỳ và 3 xứ bảo hộ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Cao Miên (Cambodge)). Sau có thêm Lào (1899) và Quảng Châu Loan (1900).
Đến năm 1911, có một cuộc cải tiến quan trọng theo Sắc lệnh ngày 30-1-1911, các luật sư bào chữa ở Đông Dương được lập thành hai danh biểu: một danh biểu ở Sài Gòn bào chữa tại các tòa án ở Nam Kỳ và Cao Miên (Campuchia); một danh biểu ở Hà Nội bào chữa tại các tòa án ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Trong thời kỳ này, chỉ có một vài luật sư Đông Dương người Việt đã vào Pháp tịch. Ở Luật sư đoàn Tòa Thượng thẩm Sài Gòn có các luật sư người Việt quốc tịch Pháp như: Luật sư Phan Văn Trường (1876-1933), Luật sư Trịnh Đình Thảo (1901-1986), Luật sư Bùi Thị Cẩm (1912-?)… Các luật sư này đều học luật và đỗ bằng Tiến sĩ Luật ở Pháp.
Qua lịch sử nghề nghiệp, có thể nói Luật sư Phan Văn Trường là nam luật sư đầu tiên, Luật sư Bùi Thị Cẩm là nữ luật sư đầu tiên người Việt Nam, cả hai luật sư tiền bối này lúc đó là thành viên của Luật sư đoàn Tòa Thượng thẩm Sài Gòn.
3. Đến năm 1931, do Sắc lệnh ngày 25-5-1930 được sửa đổi, bổ sung bởi Sắc lệnh ngày 21-7-1931, có cuộc cải tổ quan trọng nhất: danh hiệu “luật sư bào chữa” được rút gọn thành “luật sư” (Avocat), xã hội vẫn thường gọi là “trạng sư”; ngoài những công dân Pháp, người Đông Dương cũng được phép làm luật sư.
Quy chế này được áp dụng tới ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Trong giai đoạn này, số lượng luật sư người Việt tăng lên đáng kể, dần dần chiếm đa số trong Luật sư đoàn Tòa Thượng thẩm Sài Gòn. Các luật sư có tên tuổi nổi tiếng ở Sài Gòn thời kỳ này có thể kể đến là: Phan Văn Trường (1876-1933), Trịnh Đình Thảo (1901-1986), Nguyễn Hữu Thọ (1910-1996), Phạm Văn Bạch (1910-1986), Phạm Ngọc Thuần (1914-2002), Bùi Thị Cẩm (1912-?), Trần Công Tường (1915-1991), Nguyễn Thành Vĩnh (1904-1995), Thái Văn Lung (1916-1946), Vương Quang Nhường (1902- 1963), Nguyễn Văn Huyền (1913-1995), Trần Ngọc Liễng (1923-2011)…
Sau khi Việt Nam giành được độc lập, thống nhất nước nhà, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ vốn hành nghề ở Sài Gòn và các tỉnh miền Tây vào những năm 30 trước Cách mạng Tháng Tám 1945, đã tham gia lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc và trở thành Quyền Chủ tịch nước (1980-1981), Chủ tịch Quốc hội (1981-1987), Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (1987-2002) nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
II. SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945, LUẬT SƯ SÀI GÒN THAM GIA KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP TRỞ LẠI
1. Hơn một tháng sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 10-10-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 46 tổ chức đoàn thể luật sư. Theo đó, các tổ chức luật sư cũ được duy trì với một số điểm sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới. Do điều kiện lúc bấy giờ, số lượng luật sư ở nước ta, cả trong Nam ngoài Bắc, đều rất ít.
2. Thực tế ở Sài Gòn lúc đó, Việt Minh giành được chính quyền chỉ có 28 ngày thì phải tiến hành cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp trở lại tái chiếm Đông Dương. Một số trí thức đang hành nghề luật sư ở Sài Gòn và các tỉnh Nam Kỳ, từ đấu tranh yêu nước đã trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng hành cùng lịch sử tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang và chính trị kéo dài suốt 9 năm (1945-1954). Trong hàng ngũ kháng chiến, các luật sư đã được bố trí sử dụng vào những chức vụ quan trọng như: Luật sư Phạm Văn Bạch, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Nam Bộ, Ủy ban Kháng chiến hành chánh Nam Bộ; Luật sư Phạm Ngọc Thuần, Phó Chủ tịch có thời kỳ giữ Quyền Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chánh Nam Bộ, kiêm nhiệm Chính trị Ủy viên Bộ Tư lệnh Nam Bộ phụ trách 3 quân khu 7, 8 và 9; Luật sư Trương Tấn Phát, Giám đốc Sở Tư pháp; Luật sư Nguyễn Thành Vĩnh, Giám đốc Sở Tài chánh; Luật sư Lê Đình Chi, Trưởng phòng Quân pháp Bộ Tư lệnh Nam Bộ; Luật sư Thái Văn Lung, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chánh quận Thủ Đức, v.v..
III. LUẬT SƯ SÀI GÒN DƯỚI CHẾ ĐỘ CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN
Sau Hiệp định Genève năm 1954 đến tháng 4 năm 1975, đất nước tạm phân chia thành hai miền Nam – Bắc. Miền Nam dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa có hai quy chế luật sư lần lượt được ban hành: Quy chế theo Luật số 1/62 ngày 8-1-1962 thời Tổng thống Ngô Đình Diệm và quy chế theo Sắc luật số 025/66 ngày 7-7-1966 thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Văn phòng Luật sư đoàn Sài Gòn đặt trong trụ sở Tòa Thượng thẩm Sài Gòn (số 131 đường Công lý, nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa)..
IV. BÀO CHỮA VIÊN NHÂN DÂN VÀ LUẬT SƯ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ SAU NGÀY 30-4-1975 ĐẾN NAY
1. Tổ chức bào chữa viên nhân dân được thành lập trong suốt 10 năm đầu ở Thành phố Hồ Chí Minh sau ngày 30-4-1975
Sau ngày giải phóng miền Nam 30-4-1975, Sài Gòn được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh. Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cho thực hiện và triển khai tổ chức bào chữa viên nhân dân theo Thông tư số 06/BTP-TT ngày 11-6-1976 của Bộ Tư pháp.
Theo đó, lúc này, ở Thành phố Hồ Chí Minh thiết lập một Phòng Bào chữa viên, đặt tại địa chỉ 97 Nguyễn Thị Minh Khai (nay là đường Pasteur) quận 1.
Những bào chữa viên đầu tiên công tác ở Thành phố Hồ Chí Minh là những cán bộ công chức nhà nước
Ngày 31-10-1983, Bộ Tư pháp ra Thông tư số 691/QLTPK hướng dẫn kiện toàn tổ chức bào chữa. Thực hiện Thông tư này, Ủy Ban Nhân Dân thành phố ra quyết định thành lập Đoàn bào chữa viên nhân dân với 28 người, gồm những bào chữa viên đã tham gia hoạt động này từ ngày mới giải phóng và bổ sung thêm một số thành viên mới đã dự xong lớp bồi dưỡng pháp lý xã hội chủ nghĩa do Bộ Tư pháp tổ chức dành cho các trí thức ngành luật cũ ở miền Nam.
2. Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh ra đời ngày 24-10-1989
Ngày 18-12-1987, Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh Tổ chức luật sư.
Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh đã được Ủy Ban Nhân Dân Thành phố ra Quyết định số 633, 634 và 635/QĐ-UB cùng ngày 24-10-1989 thành lập, với nhân sự gồm 68 thành viên (28 luật sư và 40 luật sư tập sự).
Từ lúc mới thành lập, trụ sở Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh đặt tại số 104 Nguyễn Đình Chiểu, phường Đa Kao, quận 1.
3. Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh phát triển từng bước theo Pháp lệnh Luật sư năm 2001, Luật Luật sư năm 2006 và Luật Luật sư sửa đổi, bổ sung năm 2012
Đến nay, đã trải qua hơn 25 năm với 6 nhiệm kỳ Ban Chủ nhiệm lần lượt kế tiếp nhau: nhiệm kỳ I (1995-1998), nhiệm kỳ II (1998-2002), nhiệm kỳ III (2002-2005), nhiệm kỳ IV (2005-2008), nhiệm kỳ V (2008-2013). Đại hội Đại biểu Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VI, nhiệm kỳ VI (2013-2023) đã được triệu tập trong 2 ngày 12 và 13-10-2014, tại Hội trường Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, với gần 600 luật sư đại diện cho 3.786 luật sư thành viên tham dự, đã bầu ra Ban Chủ nhiệm nhiệm kỳ VI với 15 thành viên và Hội đồng Khen thưởng – kỷ luật nhiệm kỳ VI gồm 9 thành viên.
Trong chức năng xã hội, tham gia các hoạt động ngoài dịch vụ pháp lý, một số luật sư của Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (1989-2023) đã từng là Đại biểu Quốc hội, thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ, Đại biểu Hội đồng nhân dân Thành phố, quận, phường… Một số luật sư đã và đang là thành viên Hội đồng luật sư toàn quốc, Ban Thường vụ và Thường trực Liên đoàn luật sư Việt Nam, Ban chấp hành Hội Luật gia Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học – kỹ thuật Thành phố, Hội Luật gia Thành phố, Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố, Hội Bảo trợ trẻ em Thành phố, Hiệp hội Bất động sản Thành phố…
Về hoạt động ngoại giao nhân dân và hội nhập quốc tế, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua đã có quan hệ với nhiều Đoàn luật sư nước ngoài và các tổ chức luật sư quốc tế. Đoàn đã tổ chức thành công hai sự kiện lớn về hợp tác quốc tế về luật sư: Hội nghị các Chủ tịch Đoàn luật sư châu Á POLA (The Presidents of Law Association in ASIA) năm 2008 và Hội nghị thường niên Hội Luật châu Á – Thái Bình Dương LAWASIA (The Law Association for Asia and the Pacific) lần thứ 22 năm 2009.
Hiện nay, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh có số lượng luật sư chiếm tỷ lệ trên 40% tổng số luật sư của cả nước, trong đó có nhiều luật sư chuyên về thương mại và đầu tư, chẳng những thông thạo tiếng Anh mà còn có thể tranh luận về các vấn đề pháp lý bằng tiếng Anh với các luật sư nước ngoài. Những luật sư trên có khả năng tham gia bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp trong các vụ tranh chấp thương mại quốc tế khi có yêu cầu…
Địa chỉ: 104 Nguyễn Đinh Chiểu, Phường Đakao, Quận 1, Tp.HCM.
Điện thoại: +84 (08) 3822 2113 – 3829 5308 – Fax: (08) 8829 6437
E-mail: [email protected] – Website: www.hcmcbar.org
Công Ty Tư Vấn Luật Uy Tín Tại Tp. Hồ Chí Minh
Vì vậy chúng tôi khuyên các nên sáng suốt lựa chọn cho mình những địa chỉ công ty luật uy tín tại tphcm để đảm bảo quyền lời của mình.
Luật Trí Minh là một trong những địa chỉ công ty luật uy tín tại TPHCM
Kinh nghiệm của công ty Luật Trí MinhChúng tôi là công ty luật uy tín hàng đầu tại Việt Nam, chúng đã có hơn 10 năm hoạt động trong lĩnh vực tư vấn luật và cung cấp dịch vụ pháp lý. pháp luât cho các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước. Chúng tôi có đội ngũ luật sự và cố vấn giàu kinh nghiệm trong nhiều mảng khác nhau.
Các lĩnh vực hoạt động của Công ty tư vấn luật Trí Minh Kỷ niệm chặng đường 1 thập kỷ của công ty luật TNHH Trí MinhNăm 2023, chúng tôi đã được chứng kiến một trong những lần kỷ niệm đẹp tròn 1 thập kỷ công ty bắt đầu thành lập. The Best Job (Công việc tốt nhất), một văn phòng trẻ trung và đầy nhiệt huyết. Các chiến dịch (tên gọi chung của những vụ án khó) luôn là hướng đi của công ty để xây dựng một đội ngũ nhân viên có kinh nghiệp vụ thực sự tốt và hy vọng chúng tôi có thể đóng góp chút ít vào việc xã hội tốt đẹp hơn, nơi mà mọi người đều hiểu luật và không có vi phạm. Điều đó sẽ trở thành động lực thúc đẩy mạnh mẽ cho Công Ty Luật TNHH Trí Minh
(1) Luật sư/Chuyên viên cao cấp sẽ là người trực tiếp tư vấn, trao đổi, xử lý công việc và giám sát chất lượng thực hiện cho quý Khách hàng;
(2) Mọi chi phí triển khai công việc luôn được thông báo, thỏa thuận rõ ràng, hợp lý và minh bạch, không phát sinh thêm chi phí;
(3) Luật Trí Minh luôn bám sát công việc, cập nhật quý Khách hàng thường xuyên và kịp thời;
(4) Các tài liệu, giấy tờ, kết quả luôn được giao nhận tận nơi trong các quận nội thành Hà Nội/Tp. HCM;
(5) Khách hàng luôn được lắng nghe, thấu hiểu, được tham vấn đưa ra quyết định tối ưu nhất và hài lòng nhất;
(6) Luật Trí Minh có thể cung cấp tư vấn trực tiếp bằng các ngoại ngữ: tiếng Anh.
(4) Tư vấn đăng ký điều chỉnh dự án đầu tư cho công ty vốn nước ngoài
(5) Tư vấn thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp cho công ty vốn nước ngoài
(6) Tư vấn xin Visa, Giấy phép lao động , Thẻ tạm trú cho nhà đầu tư, người lao động, chuyên gia nước ngoài vào Việt Nam làm việc tại công ty vốn nước ngoài
(7) Tư vấn hợp đồng và các giao dịch kinh doanh của công ty vốn nước ngoài
Văn phòng Hà Nội: Tầng 5, Tòa nhà Viet Tower (Thái Bình Group), Số 01 Thái Hà, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội.
Văn phòng Tp. Hồ Chí Minh: Lầu 8, Tòa nhà Alpha, Số 151 Nguyễn Đình Chiểu, Phường 6, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
Giới Thiệu :: Đoàn Luật Sư Tp. Hồ Chí Minh
Quá trình hình thành và phát triển đoàn luật sư ở Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh
I. SÀI GÒN: CÁI NÔI CỦA NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM
1. Ngày 26-11-1867, Thống đốc Nam Kỳ De La Grandière ban hành Nghị định về việc hành nghề bào chữa trước các Tòa án Pháp. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên về nghề luật sư được chính quyền thực dân ban hành ở xứ “Nam Kỳ thuộc Pháp”. Người hành nghề bào chữa lúc đó gọi là “biện hộ viên” (Défenseur); sau (từ 1884) gọi là “luật sư biện hộ” (Avocat défenseur).
2. Sau khi thôn tính cả nước Việt Nam (1883-1884), năm 1887 Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, gồm thuộc địa Nam Kỳ và 3 xứ bảo hộ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Cao Miên (Cambodge)). Sau có thêm Lào (1899) và Quảng Châu Loan (1900).
Đến năm 1911, có một cuộc cải tiến quan trọng theo Sắc lệnh ngày 30-1-1911, các luật sư bào chữa ở Đông Dương được lập thành hai danh biểu: một danh biểu ở Sài Gòn bào chữa tại các tòa án ở Nam Kỳ và Cao Miên (Campuchia); một danh biểu ở Hà Nội bào chữa tại các tòa án ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Trong thời kỳ này, chỉ có một vài luật sư Đông Dương người Việt đã vào Pháp tịch. Ở Luật sư đoàn Tòa Thượng thẩm Sài Gòn có các luật sư người Việt quốc tịch Pháp như: Luật sư Phan Văn Trường (1876-1933), Luật sư Trịnh Đình Thảo (1901-1986), Luật sư Bùi Thị Cẩm (1912-?)… Các luật sư này đều học luật và đỗ bằng Tiến sĩ Luật ở Pháp.
Qua lịch sử nghề nghiệp, có thể nói Luật sư Phan Văn Trường là nam luật sư đầu tiên, Luật sư Bùi Thị Cẩm là nữ luật sư đầu tiên người Việt Nam, cả hai luật sư tiền bối này lúc đó là thành viên của Luật sư đoàn Tòa Thượng thẩm Sài Gòn.
3. Đến năm 1931, do Sắc lệnh ngày 25-5-1930 được sửa đổi, bổ sung bởi Sắc lệnh ngày 21-7-1931, có cuộc cải tổ quan trọng nhất: danh hiệu “luật sư bào chữa” được rút gọn thành “luật sư” (Avocat), xã hội vẫn thường gọi là “trạng sư”; ngoài những công dân Pháp, người Đông Dương cũng được phép làm luật sư.
Quy chế này được áp dụng tới ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Trong giai đoạn này, số lượng luật sư người Việt tăng lên đáng kể, dần dần chiếm đa số trong Luật sư đoàn Tòa Thượng thẩm Sài Gòn. Các luật sư có tên tuổi nổi tiếng ở Sài Gòn thời kỳ này có thể kể đến là: Phan Văn Trường (1876-1933), Trịnh Đình Thảo (1901-1986), Nguyễn Hữu Thọ (1910-1996), Phạm Văn Bạch (1910-1986), Phạm Ngọc Thuần (1914-2002), Bùi Thị Cẩm (1912-?), Trần Công Tường (1915-1991), Nguyễn Thành Vĩnh (1904-1995), Thái Văn Lung (1916-1946), Vương Quang Nhường (1902- 1963), Nguyễn Văn Huyền (1913-1995), Trần Ngọc Liễng (1923-2011)…
Sau khi Việt Nam giành được độc lập, thống nhất nước nhà, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ vốn hành nghề ở Sài Gòn và các tỉnh miền Tây vào những năm 30 trước Cách mạng Tháng Tám 1945, đã tham gia lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc và trở thành Quyền Chủ tịch nước (1980-1981), Chủ tịch Quốc hội (1981-1987), Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (1987-2002) nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
II. SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945, LUẬT SƯ SÀI GÒN THAM GIA KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP TRỞ LẠI
1. Hơn một tháng sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 10-10-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 46 tổ chức đoàn thể luật sư. Theo đó, các tổ chức luật sư cũ được duy trì với một số điểm sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới. Do điều kiện lúc bấy giờ, số lượng luật sư ở nước ta, cả trong Nam ngoài Bắc, đều rất ít.
2. Thực tế ở Sài Gòn lúc đó, Việt Minh giành được chính quyền chỉ có 28 ngày thì phải tiến hành cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp trở lại tái chiếm Đông Dương. Một số trí thức đang hành nghề luật sư ở Sài Gòn và các tỉnh Nam Kỳ, từ đấu tranh yêu nước đã trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng hành cùng lịch sử tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang và chính trị kéo dài suốt 9 năm (1945-1954). Trong hàng ngũ kháng chiến, các luật sư đã được bố trí sử dụng vào những chức vụ quan trọng như: Luật sư Phạm Văn Bạch, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Nam Bộ, Ủy ban Kháng chiến hành chánh Nam Bộ; Luật sư Phạm Ngọc Thuần, Phó Chủ tịch có thời kỳ giữ Quyền Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chánh Nam Bộ, kiêm nhiệm Chính trị Ủy viên Bộ Tư lệnh Nam Bộ phụ trách 3 quân khu 7, 8 và 9; Luật sư Trương Tấn Phát, Giám đốc Sở Tư pháp; Luật sư Nguyễn Thành Vĩnh, Giám đốc Sở Tài chánh; Luật sư Lê Đình Chi, Trưởng phòng Quân pháp Bộ Tư lệnh Nam Bộ; Luật sư Thái Văn Lung, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chánh quận Thủ Đức, v.v..
III. LUẬT SƯ SÀI GÒN DƯỚI CHẾ ĐỘ CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN
Sau Hiệp định Genève năm 1954 đến tháng 4 năm 1975, đất nước tạm phân chia thành hai miền Nam – Bắc. Miền Nam dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa có hai quy chế luật sư lần lượt được ban hành: Quy chế theo Luật số 1/62 ngày 8-1-1962 thời Tổng thống Ngô Đình Diệm và quy chế theo Sắc luật số 025/66 ngày 7-7-1966 thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Văn phòng Luật sư đoàn Sài Gòn đặt trong trụ sở Tòa Thượng thẩm Sài Gòn (số 131 đường Công lý, nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa)..
IV. BÀO CHỮA VIÊN NHÂN DÂN VÀ LUẬT SƯ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ SAU NGÀY 30-4-1975 ĐẾN NAY
1. Tổ chức bào chữa viên nhân dân được thành lập trong suốt 10 năm đầu ở Thành phố Hồ Chí Minh sau ngày 30-4-1975
Sau ngày giải phóng miền Nam 30-4-1975, Sài Gòn được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh. Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cho thực hiện và triển khai tổ chức bào chữa viên nhân dân theo Thông tư số 06/BTP-TT ngày 11-6-1976 của Bộ Tư pháp.
Theo đó, lúc này, ở Thành phố Hồ Chí Minh thiết lập một Phòng Bào chữa viên, đặt tại địa chỉ 97 Nguyễn Thị Minh Khai (nay là đường Pasteur) quận 1.
Những bào chữa viên đầu tiên công tác ở Thành phố Hồ Chí Minh là những cán bộ công chức nhà nước
Ngày 31-10-1983, Bộ Tư pháp ra Thông tư số 691/QLTPK hướng dẫn kiện toàn tổ chức bào chữa. Thực hiện Thông tư này, Ủy Ban Nhân Dân thành phố ra quyết định thành lập Đoàn bào chữa viên nhân dân với 28 người, gồm những bào chữa viên đã tham gia hoạt động này từ ngày mới giải phóng và bổ sung thêm một số thành viên mới đã dự xong lớp bồi dưỡng pháp lý xã hội chủ nghĩa do Bộ Tư pháp tổ chức dành cho các trí thức ngành luật cũ ở miền Nam.
2. Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh ra đời ngày 24-10-1989
Ngày 18-12-1987, Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh Tổ chức luật sư.
Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh đã được Ủy Ban Nhân Dân Thành phố ra Quyết định số 633, 634 và 635/QĐ-UB cùng ngày 24-10-1989 thành lập, với nhân sự gồm 68 thành viên (28 luật sư và 40 luật sư tập sự).
Từ lúc mới thành lập, trụ sở Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh đặt tại số 104 Nguyễn Đình Chiểu, phường Đa Kao, quận 1.
3. Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh phát triển từng bước theo Pháp lệnh Luật sư năm 2001, Luật Luật sư năm 2006 và Luật Luật sư sửa đổi, bổ sung năm 2012
Đến nay, đã trải qua hơn 25 năm với 6 nhiệm kỳ Ban Chủ nhiệm lần lượt kế tiếp nhau: nhiệm kỳ I (1995-1998), nhiệm kỳ II (1998-2002), nhiệm kỳ III (2002-2005), nhiệm kỳ IV (2005-2008), nhiệm kỳ V (2008-2013). Đại hội Đại biểu Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VI, nhiệm kỳ VI (2013-2023) đã được triệu tập trong 2 ngày 12 và 13-10-2014, tại Hội trường Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, với gần 600 luật sư đại diện cho 3.786 luật sư thành viên tham dự, đã bầu ra Ban Chủ nhiệm nhiệm kỳ VI với 15 thành viên và Hội đồng Khen thưởng – kỷ luật nhiệm kỳ VI gồm 9 thành viên.
Trong chức năng xã hội, tham gia các hoạt động ngoài dịch vụ pháp lý, một số luật sư của Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (1989-2023) đã từng là Đại biểu Quốc hội, thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ, Đại biểu Hội đồng nhân dân Thành phố, quận, phường… Một số luật sư đã và đang là thành viên Hội đồng luật sư toàn quốc, Ban Thường vụ và Thường trực Liên đoàn luật sư Việt Nam, Ban chấp hành Hội Luật gia Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học – kỹ thuật Thành phố, Hội Luật gia Thành phố, Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố, Hội Bảo trợ trẻ em Thành phố, Hiệp hội Bất động sản Thành phố…
Về hoạt động ngoại giao nhân dân và hội nhập quốc tế, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua đã có quan hệ với nhiều Đoàn luật sư nước ngoài và các tổ chức luật sư quốc tế. Đoàn đã tổ chức thành công hai sự kiện lớn về hợp tác quốc tế về luật sư: Hội nghị các Chủ tịch Đoàn luật sư châu Á POLA (The Presidents of Law Association in ASIA) năm 2008 và Hội nghị thường niên Hội Luật châu Á – Thái Bình Dương LAWASIA (The Law Association for Asia and the Pacific) lần thứ 22 năm 2009.
Hiện nay, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh có số lượng luật sư chiếm tỷ lệ trên 40% tổng số luật sư của cả nước, trong đó có nhiều luật sư chuyên về thương mại và đầu tư, chẳng những thông thạo tiếng Anh mà còn có thể tranh luận về các vấn đề pháp lý bằng tiếng Anh với các luật sư nước ngoài. Những luật sư trên có khả năng tham gia bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp trong các vụ tranh chấp thương mại quốc tế khi có yêu cầu…
Sưu tầm, biên soạn: – Thạc sĩ, Luật sư TRƯƠNG THỊ HÒA
– Tiến sĩ, Luật sư PHAN ĐĂNG THANH
Cập nhật thông tin chi tiết về Tp. Hồ Chí Minh Tiếp Tục Hạn Chế Tụ Tập Trên 20 Người Nơi Công Cộng trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!