Bạn đang xem bài viết Tuyển Tập Các Đề Đọc Hiểu Sóng (Xuân Quỳnh) được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Tuyển tập đề đọc hiểu Sóng (Xuân Quỳnh)Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức
Câu 1: Giới thiệu vài nét về cấu trúc hình tượng độc đáo trong bài thơ “sóng” – Xuân Quỳnh
Câu 2: Nêu nội dung chính của đoạn thơ
Câu 3: Toàn bộ bài thơ Sóng, các khổ thơ đều có 4 câu, duy chỉ có khổ 5 là có 6 câu? Điều đó có ý nghĩa gì trong việc bộc lộ cảm xúa của nhân vật trữ tình.
Câu 4: Nêu nét đặc sắc nghệ thuật của đoạn thơ.
Đáp án đề đọc hiểu Sóng số 1
Câu 1: Cấu trúc hình tượng “Sóng” khá độc đáo. Đọc bài thơ thấy hiện lên hình ảnh người con gái đang đứng trước biển, đối diện với đại dương để rồi suy tư, khát khao. Trước mỗi phát hiện về sóng, về biển cả, người con gái ấy lại liên tưởng đến tình yêu của mình và muôn thuở của nhân loại. Bởi thế mỗi khám phá về sóng cũng là phát hiện về trái tim của người con gái đang yêu. Có thể nói sóng là một hình tượng ẩn dụ hóa thân, là sự phân thân của nữ sĩ. Sóng và Em là hai hình tượng xuyên suốt bài thơ, sóng đôi với nhau, khi tách rời, khi hòa nhập, khi chuyển hóa sang nhau. Tuy hai mà một, tuy một mà là hai.
: Nội dung chính của đoạn thơ trên là: bày tỏ nỗi nhớ niềm thương da diết, khắc khoải của con người đang yêu
Câu 3: Toàn bộ bài thơ Sóng, các khổ thơ đều có 4 câu, duy chỉ có khổ 5 là có 6 câu? Điều này chỉ có thể lí giải bởi cảm xúc nhớ thương, mãnh liệt da diết, khôn nguôi của nữ sĩ. Cảm xúc ấy mãnh liệt, thăng hoa, trào dâng khiến cho câu thơ phải kéo dài thêm 3 câu nữa.
Câu 4: Nét nghệ thuật đặc sắc của đoạn thơ trên là: Trái tim không ngủ yên, nỗi nhớ cồn cào cuộn xoáy mãnh liệt, xô đy, phá vỡ cấu trúc khuôn mẫu khổ thơ. Khổ thơ bỗng kéo dài thêm hai câu, Có phải chăng, phải kéo dài ra như thể để nói cho thỏa cho hết cá ngút ngàn, miên man của nỗi nhớ. Nghệ thuật đối kết hợp với điệp từ, điệp ngữ, liệt kê, điệp cấu trúc khiến khúc thơ mang âm hưởng của tiếng sóng. Sóng biển và sóng lòng, ào ạt, náo nức, hăm hở. Tất cả ngân vang tạo nên bản tình ca, thắm thiết, đắm sau.
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ (Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr.155)
Câu 1. Giới thiệu vài nét về tác giả Xuân Quỳnh.
Câu 2. Xác định thể thơ của đoạn trích. Việc lựa chọn thể thơ đó có tác dụng gì trong việc thể hiện âm hưởng của lời thơ?
Câu 3. Nêu hiệu quả nghệ thuật của cách ngắt nhịp, sự luân phiên bằng trắc cùng ý nghĩa biểu đạt của các tính từ được sử dụng trong hai câu thơ in đậm.
Câu 4. Yếu tố thời gian được gieo trong hai câu thơ Ôi con sóng ngày xưa / Và ngày sau vẫn thế mang lại ý nghĩa gì cho hình tượng sóng và em?
Câu 5. Chỉ ra hiệu quả của biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ cuối đoạn trích
Đáp án đề đọc hiểu Sóng số 2
Câu 1: Giới thiệu vài nét về tác giả Xuân Quỳnh là:
– Xuân Quỳnh (1942 – 1988) tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, quê ở La Khê, thành phố Hà Đông tỉnh Hà Tây (thay thuộc Hà Nội).
– Bà xuất thân từ một gia đình công chức, mồ côi mẹ từ nhỏ, Xuân Quỳnh ở với bà nội
– Xuân Quỳnh từng là diễn viên múa Đoàn văn công nhân dân Trung ương, là biên tập viên báo Văn nghệ, biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III.
– Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ.
– Thể thơ của đoạn trích là: thể thơ 5 chữ
– Tác dụng của việc lựa chọn thể thơ 5 chữ trong việc thể hiện âm hưởng của lời thơ là: Thể thơ 5 chữ với những dòng thơ hầu như không ngắt nhịp góp phần tạo nên âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng, gợi nhịp các con sóng liên tiếp nhau, lúc tràn lên sôi nổi, lúc êm dịu, lắng lại.
Câu 4: Yếu tố thời gian được gieo trong hai câu thơ Ôi con sóng ngày xưa / Và ngày sau vẫn thế mang lại ý nghĩa là:
– Sóng được đặt trong phạm trù thời gian ngày xưa – quá khứ và ngày sau – tương lai. Những từ ngữ chỉ thời gian mang ý nghĩa tiếp nối, đối lập cùng ý nghĩa khẳng định của từ vẫn thế đem đến ý niệm về sự vĩnh hằng về sóng. Điều này rất phù hợp với thực tế: biển luôn là một thế giới vô biên, vĩnh viễn, xao động bởi những con sóng.
– Sự hòa nhập tinh tế giữa các nét nghĩa ẩn dụ khi tình yêu soi vào sóng để tự nhận thức mình đã đem đến những liên tưởng về tình yêu của em: Giống như những con sóng cứ mãi dào dạt, mãi cồn cào, mãnh liệt trong lòng biển thì những khát vọng tình yêu mãnh liệt trong trái tim em cũng là khát vọng muôn đời của nhân loại.
Câu 5: Hiệu quả của biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ cuối đoạn trích là:
– Biện pháp tu từ đƣợc sử dụng trong hai câu thơ cuối: ẩn dụ (ngực trẻ).
– Hiệu quả:
Trước biển cả mênh mông, qua cảm nhận về thị giác, chúng ta luôn nhận thấy mặt biển vồng căng lên. Trong suy ngẫm, liên tưởng của người phụ nữ đang yêu, mặt biển giống như lồng ngực cường tráng, trẻ trung của trời đất và sóng giống như nhịp đập trong trái tim rạo rực yêu đương của biển.
Chữ trẻ mang đến cảm nhận về những nhịp sóng muôn đời cồn cào trào dâng mãnh liệt khiến cho biển muôn đời trẻ trung. Tình yêu cũng thế, nó đem đến sự trẻ trung, mạnh mẽ, nhiệt huyết của tuổi thanh xuân cho con người. Chính tình yêu khiến cho con người muôn đời tươi trẻ.
Con sóng dưới lòng sâu, Con sóng trên mặt nước, Ôi con sóng nhớ bờ, Ngày đêm không ngủ được, Lòng em nhớ đến anh, Cả trong mơ còn thức. Dẫu xuôi về phương bắc, Dẫu ngược về phương nam Nơi nào em cũng nghĩ, Hướng về anh – một phương. (Trích Sóng – Xuân Quỳnh)
Đọc đoạn thơ trên và thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Nêu ý chính của đoạn thơ.
Câu 2. Nêu hiệu quả nghệ thuật của phép điệp cấu trúc “Con sóng ” trong đoạn thơ?
Câu 3. Hành trình dẫu ngược…dẫu xuôi của con sóng trong đoạn thơ có gì lạ? Nêu hiệu quả nghệ thuật của hành trình đó.
Đáp án đề đọc hiểu Sóng số 3
Câu 1: Ý chính của đoạn thơ là: Nỗi nhớ thiết tha, sâu lắng và lòng thuỷ chung, son sắt của người phụ nữ trong tình yêu
Câu 2: Hiệu quả nghệ thuật của phép điệp cấu trúc “Con sóng ” trong đoạn thơ là: Phép điệp sử dụng 3 lần như một điệp khúc của bản tình ca với những giai điệu da diết, như một ám ảnh thường trực về tình yêu và nỗi nhớ. Ba câu thơ gắn liền với hình ảnh sóng giống như những đợt sóng gối lên nhau. Đó là một ẩn dụ nghệ thuật về những đợt sóng lòng đang dâng trào trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu.
Câu 3: Hành trình dẫu ngược…dẫu xuôi của con sóng trong đoạn thơ lạ ở chỗ bình thường ta nói Xuôi Nam, ngược Bắc. Ở đây, Xuân Quỳnh diễn tả con sóng Xuôi Bắc, ngược Nam.
– Hiệu quả nghệ thuật của hành trình đó là: gợi sự vất vả hành trình của con sóng khi vào bờ. Cũng như em, em vượt qua mọi thử thách, cách trở của cuộc đời để thuỷ chung với anh.
Giangdh (Tổng hợp)
Đọc Hiểu Văn Bản: Sóng (Xuân Quỳnh)
Sóng (Xuân Quỳnh)
I. Đọc – hiểu chú thích:
1. Tác giả: Xuân Quỳnh
– Xuân Quỳnh (1942-1988), quê tỉnh Hà Tây (nay thuộc hà nội), là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ.
– Xuất thân trong một gia đình công chức. Từng là diễn viên múa, biên tập báo văn nghệ, biên tập viên Nhà xuất bản tác phẩm mới.
– Cuộc đời bất hạnh; luôn khao khát tình yêu, mái ấm gia đình và tình mẫu tử.
– Năm 2001, được tặng giải thưởng về văn học nghệ thuật
* Các tác phẩm chính:
– Thơ Tơ tằm – Chồi biếc (1963) – Hoa dọc chiến hào (1968) – Gió Lào cát trắng (1974) – Lời ru trên mặt đất (1978) – Tự hát (1984) ….
* Hồn thơ Xuân Quỳnh:
– Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường. Ở sắc thái, cung bậc nào thơ Xuân Quỳnh cũng nồng nàn sôi nổi, chân thành say đắm.
– Xuân Quỳnh là nhà thơ của hạnh phúc đời thường. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn luôn khao khát tình yêu, gắn bó hết mình với cuộc sống hằng ngày, trân trọng, nâng niu và chăm chút cho hạnh phúc bình dị của đời thường
– Xuân Quỳnh được xem là một trong số những thi sĩ viết thơ tình hay nhất trong nền thơ Việt Nam sau 1975. Tình yêu trong thơ chị vừa nồng nhiệt, táo bạo, vừa thiết tha, say đắm, dịu dàng, hồn nhiên giàu trực cảm mà lắng sâu những trải nghiệm suy tư
– Cái tôi trong thơ Xuân Quỳnh giàu vẻ đẹp nữ tính: rất thành thật, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Ở Xuân Quỳnh, khát vọng sống, khát vọng yêu chân thành, mãnh liệt luôn gắn liền với cảm thức lo âu về sự phai tàn, đổ vỡ, cùng với những dự cảm về bất trắc
2. Tác phẩm:
– Hoàn cảnh sáng tác: Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi công tác vùng biển Diêm Điền. Trước khi Sóng ra đời, Xuân Quỳnh đã phải nếm trải những đổ vỡ trong tình yêu. Đây là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân Quỳnh. Tác phẩm được in trong tập Hoa dọc chiến hào (1968).
– Thể loại: thơ 5 chữ.
– Nội dung: Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu hiện lên qua hình tượng sóng: tình yêu thiết tha, nồng nàn,đầy khát vọng và sắc son chung thủy, vượt lên mọi giới hạn của đời thường.
– Bố cục: ba phần
+ 8 câu đầu: Sóng biển và tình yêu. + 26 câu tiếp theo: Suy nghĩ và trăn trở. + 4 câu cuối: Khát vọng tình yêu.
II. Đọc – hiểu văn bản.
1. Âm điệu của bài thơ:
– Là âm điệu của những con sóng trên biển cả, và sâu xa hơn chính là âm điệu của những con sóng lòng nhiều cung bậc, sắc thái, cảm xúc trong trái tim nữ thi sĩ – âm điệu của một nỗi lòng đang tràn ngập, khát khao, rạo rực tình yêu, đang rung lên đồng điệu, hoà nhịp với sóng biển, đến mức không còn thấy đâu là nhịp điệu của sóng biển, đâu là nhịp điệu tâm hồn thi sĩ.
– Âm điệu đó được tạo nên bởi hai yếu tố chính: thể thơ năm chữ và phương thức tổ chức ngôn từ, hình ảnh.Thể thơ năm chữ cùng với sự linh hoạt , phóng túng khi ngắt nhịp, phối âm đã gợi lên thật ấn tượng nhịp sóng biển (và cả sóng lòng nữa) khi dịu êm, khoan thai, khi dồn dập, dữ dội.
⇒ Xuân Quỳnh đã mượn nhịp Sóng để thể hiện nhịp lòng của chính mình trong một tâm trạng bùng cháy ngọn lửa mãnh liệt của tình yêu, không chịu yên định mà đầy biến động, khao khát. Mỗi trạng thái tâm hồn cụ thể của người phụ nữ đang yêu đều có thể tìm thấy sự tương đồng của nó với một khía cạnh, một đặc tính nào đó của sóng.
2. Hình tượng Sóng:
* Hình ảnh sóng:
– “Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể” → nghệ thuật nhân hoá: con sóng vượt qua không gian chợt tìm đến cái bao la của biển cả. Trái tim người con gái đang yêu cũng vậy: không chịu chấp nhận sự tầm thường, nhỏ hẹp, luôn vươn tới cái lớn lao để đồng cảm, đồng điệu với khát vọng khám phá mình, khát khao tìm đến những chân trời đích thực của tình yêu → Liên tưởng rất thực và cũng rất thơ. Khát vọng tình yêu đã hóa thân vào một biểu tượng đẹp là sóng. Giống như con sóng muôn đời vẫn dạt dào biển cả, tình yêu muôn đời vẫn là nỗi khát khao, đam mê của tuổi trẻ.
⇒ Người con gái khao khát yêu đương nhưng không còn nhẫn nhục, cam chịu nữa. Nếu Sông không hiểu nổi mình thì Sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó để tìm ra tận bể để đến với cái cao rộng, bao dung với khát vọng và kiếm tìm.
⇒ Có thể thấy ngay trong khổ thơ đầu này một nét mới mẻ trong quan niệm về tình yêu: sự chủ động của người con gái khi yêu (chủ động ở đây không phải là ngỏ lời mà chủ động vươn tới cái cao cả, cái lớn lao)
+ Nỗi khát vọng tình yêu, rạo rực trong trái tim của Xuân Quỳnh, cũng là khát vọng muôn đời của nhân loại, mà mãnh liệt nhất là tuổi trẻ Đó là khát vọng có tính vĩnh hằng theo thời gian
– “Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ” → khát vọng mãnh liệt về tình yêu luôn luôn thường trực, bồi hồi trong trái tim tuổi trẻ, nhất là tình yêu lứa đôi. Sóng khát khao thoát khỏi giới hạn chật hẹp (sông) để tìm ra “bể” như người phụ nữ khát khao tìm đến những chân trời đích thực của tình yêu.
⇒ Hình tượng bao trùm toàn bộ bài thơ là hình ảnh ẩn dụ: Sóng để nói đến tình yêu. Hình tượng sóng đôi “sóng” và “em” đã bộc lộ được tâm trạng khát khao, nỗi nhớ da diết vừa trực tiếp lại vừa gợi cảm như những vòng sóng nối tiếp nhau cùng dội lại, cùng cộng hưởng và lan tỏa.
3. Sự cắt nghĩa về tình yêu.
Quy luật của sóng: “Từ nơi nào sóng lên?/ Sóng bắt đầu từ gió/ Gió bắt đầu từ đâu?” → lí giải quy luật xuất phát của sóng là từ gió, còn gió từ đâu? “Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau.” → những câu hỏi không có lời giải đáp cũng như một tình yêu đích thực, không thể giải thích được, truy nguyên được nguồn gốc → chứng tỏ sự bí ẩn, diệu kì, sức hấp dẫn, mời gọi của tình yêu muôn thuở.
Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ khi xa cách: hạt nhân của tình yêu là nỗi nhớ “Con sóng dưới lòng sâu / Con sóng trên mặt nước/ Ôi con sóng nhớ bờ /Ngày đêm không ngủ được/ Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức” → con sóng dù ở trạng thái nào (dưới lòng sâu, trên mặt nước), dù ở thời gian nào (ngày hay đêm) đều nhớ bờ da diết → điệp từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần, nhân hóa “sóng nhớ bờ…không ngủ được” diễn tả một nỗi nhớ thật mãnh liệt, da diết, thường trực cả khi thức, khi ngủ, bao trùm lên cả không gian và thời gian của nhân vật trữ tình.
⇒ Tình yêu là một hiện tượng tâm lí khác thường, đầy bí ẩn không thể giải thích được câu hỏi về khơi nguồn của nó, về thời điểm bắt đầu của một tình yêu. Đó là điều mà trước đó nhà thơ Xuân Diệu băn khoăn: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu” thì nay Xuân Quỳnh lại bộc bạch một cách hồn nhiên , thật dễ thương
+ Tình yêu cũng như sóng biển, như gió trời: cũng tự nhiên, hồn nhiên, khó hiểu, nhiều bất ngờ→ làm sao có thể giải thích được nguồn gốc của nó. Đây là một cách cắt nghĩa rất Xuân Quỳnh – một cách cắt nghĩa nữ tính và trực cảm.
⇒ Một nỗi nhớ cồn cào, da diết, không thể nào yên, không thể nào nguôi. Nó cuồn cuộn,dào dạt như những đợt sóng biển triền miên, vô hồi, vô hạn. Nhịp thơ trong suốt bài thơ này là nhịp sóng, nhưng rõ nhất, và dào dạt, náo nức và mãnh liệt nhất là ở đoạn thơ này. Qua hình tượng sóng và em, Xuân Quỳnh đã nói lên thật chân thành, táo bạo, không hề giấu giếm khát vọng tình yêu sôi nổi, mãnh liệt, thiết tha, nồng nàn của mình – một người phụ nữ – điều hiếm thấy trong văn học Việt Nam trước đó
4. Sự chiêm nghiệm cuộc đời và khát vọng được sống hết mình trong tình yêu.
“Cuộc đời tuy dài thế …………………… Mây vẫn bay về xa”
→ nhịp thơ lắng xuống, hình ảnh thơ mở ra (đi qua, biển dẫu rộng, bay về xa) như mang đến những dự cảm, sự khắc khoải lo âu, nhận thức và thấm thía sự hữu hạn của kiếp người, giữa cái vô cùng, vô tận của thời gian. Cuộc đời mỗi người tuy dài nhưng vẫn luôn là hữu hạn trong dòng thời gian, cũng như biển kia dẫu rộng vẫn không so được với cái bao la vô tận của bầu trời.
– “Làm sao được tan ra ……………………. Để ngàn năm còn vỗ”
→ cách duy nhất để tình yêu trường tồn với thời gian, để trái tim yêu được đập mãi đó là “tan ra thành trăm con sóng nhỏ” → khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hoá thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở.
– “Tan ra” không phải mất đi mà hoà giữa cái chung và cái riêng. Các từ chỉ số lượng lớn ® phơi bày một nỗi khát vọng hoà nhịp tình yêu của mình với tình yêu nhân loại, khát vọng về sức sống của tình yêu với muôn thuở một tình yêu say đắm chân thành
⇒ Tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người. Khát vọng hóa thân, phân thân vào sóng thật mạnh mẽ. Tình yêu đôi lứa thật sự hạnh phúc khi hòa nhập trong biển lớn tình yêu của cộng đồng. Khát vọng hóa thân vào biển lớn tình yêu mang một giá trị văn hóa lớn, tạo nên sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung; giữa cái hữu hạn và vĩnh hằng.
Xuân Quỳnh viết bài thơ Sóng năm 1967, khi mà nhà thơ đã từng nếm trải sự đổ vỡ trong tình yêu. Song người phụ nữ hồn nhiên, tha thiết yêu đời này vẫn còn ấp ủ biết bao hi vọng, vẫn phơi phới một niềm tin vào hạnh phúc trong tương lai. Tương lai như đang còn ở phía trước đối với Xuân Quỳnh
● Ghi nhớ (sgk)
III. Tổng kết:
1. Giá trị nội dung:
Qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hòa hợp giữa sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó cho thấy tình yêu là một thứ tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.
2. Giá trị nghệ thuật:
– Bài thơ mang âm hưởng dạt dào, nhịp nhàng, gợi nhịp độ của con sóng liên tiếp. – Thể thơ 5 chữ với những dòng thơ thường là không ngắt nhịp, các câu thơ ngắn, đều đặn gợi sự nhịp nhàng. – Thành công trong việc xây dựng hình tượng sóng: hình tượng sóng trở đi trở lại với nhiều cung bậc, gợi những trạng thái cảm xúc đa dạng trong cõi lòng người con gái đang yêu. – Ngôn ngữ gần gũi, trong sáng, dung dị, tinh tế.
3. Ý nghĩa văn bản:
Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu hiện lên qua hình tượng sóng: tình yêu thiết tha, nồng nàn, đầy khát vọng và sắt son chung thủy, vượt lên mọi giới hạn của đời người.
LUYỆN TẬP:
Câu 1. Nêu ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh sóng và mối quan hệ giữa hai hình tượng “sóng” và “ em” trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.
Gợi ý :
– Sóng là biểu tượng cho khát vọng về tình yêu của người phụ nữ, tương đồng với sự phong phú, bí ẩn của tâm hồn người phụ nữ khi yêu.
– Sóng là hình ảnh biểu tượng cho tình yêu vĩnh hằng – Sóng cũng giống tình yêu trong mạch thời gian ngày xưa và ngày sau, quá khứ và tương lai bất diệt trước mọi đổi thay.
– Sóng là hình ảnh tượng trưng cho quy luật không thể cắt nghĩa của tình yêu.
– Sóng là biểu tượng cho tình yêu trong sáng, giản dị, chân thành, luôn thể hiện khát vọng về một tình yêu chung thủy và dâng hiến trọn vẹn, ý thức được sự trôi chảy của thời gian và sự nhỏ nhoi của kiếp người.
– Sóng và em tuy hai nhưng lại là một, đều là nỗi lòng của người phụ nữ đang yêu, là sự phân thân và hóa thân của cái tôi trữ tình, từ đó diễn tả những cung bậc tình cảm mãnh liệt trong trạng thái yêu đương của người phụ nữ.
– Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu:
Nét đẹp truyền thống: đằm thắm, dịu dàng, hồn hậu, dễ thương, chung thủy.
Nét đẹp hiện đại: táo bạo, mãnh liệt, dám vượt qua mọi trở ngại để giữ gìn hạnh phúc, dù có phấp phỏng trước cái vô tận của thời gian nhưng vẫn tin vào sức mạnh của tình yêu.
⇒ Qua bài thơ “ Sóng” ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Người phụ nữ ấy mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khát khao yêu đương mãnh liệt và những rung động rạo rực trong lòng mình. Người phụ nữ ấy thủy chung nhưng không còn nhẫn nhục cam chịu nữa. Nếu “không hiểu nỗi mình” thì sông dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó để “ tìm ra tận bể”, đến cái cao rộng bao dung. Đó là những nét mới mẻ hiện đại trong tình yêu.
– Tâm hồn người phụ nữ đó giàu khao khát, không yên lặng “ Vì tình yêu muôn thuở – Có bao giờ đứng yên”
“Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không dừng lại ở mức độ tình yêu buổi đầu giản đơn, hò hẹn, non nớt, ngọt ngào mà là tình yêu hạnh phúc, với nhiều đòi hỏi ở chiều sâu tình cảm, với nhiều minh chứng thử thách mang đậm dấu ấn trách nhiệm” ( Phạm Đình Ân ).
LUYỆN ĐỀ
Đề 1. Đọc đoạn thơ sau:
“Dẫu xuôi về phương Bắc Dẫu ngược về phương Nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh – một phương”
Hãy xác định nội dung chính của đoạn thơ?
Nhận xét gì về cách viết của tác giả trong câu: “Dẫu xuôi về phương Bắc – Dẫu ngược về phương Nam”? Tác dụng nghệ thuật của cách viết?
Dấu – trong câu thơ “Hướng về anh – một phương” có ý nghĩa gì? Tác dụng của dấu – trong câu thơ là gì? Viết đoạn văn cảm nhận cái hay, cái đẹp của đoạn thơ.
Gợi ý :
– Xác định nội dung chính của đoạn thơ: Đoạn thơ là lời tự bạch khẳng định tình yêu và lòng chung thủy của nhân vật trữ tình: dù ở đâu, nơi nào, hoàn cảnh và cuộc đời có đổi thay thì em cũng chỉ có một tình yêu duy nhất đối với anh.
– Nhận xét gì về cách viết của tác giả trong câu: “Dẫu xuôi về phương Bắc – Dẫu ngược về phương Nam”: Cách viết mới lạ, khác biệt với lô gic thông thường của tự nhiên.
– Tác dụng nghệ thuật của cách viết: nhấn mạnh dụng ý rằng: dù cho hoàn cảnh có đổi thay, trái đất có xoay chiều đổi hướng thì tình yêu vẫn không hề thay đổi, vẫn kiên định.
– Dấu – trong câu thơ “Hướng về anh – một phương” có ý nghĩa: Tách câu thơ làm đôi, bổ sung ý nghĩa cho câu thơ.
-Tác dụng của dấu – trong câu thơ là gì: tạo nên điểm nhấn cho câu thơ, làm cho ý thơ thêm mạnh mẽ, kiên định.
Viết đoạn văn cảm nhận cái hay, cái đẹp của đoạn thơ. Phải đảm bảo các ý sau:
Giới thiệu về vị trí đoạn thơ:
– Cảm nhận về cái hay (nội dung) đoạn thơ: Thể hiện tấm lòng thủy chung, son sắt của người phụ nữ với nét riêng vừa nữ tính, vừa kiên định. Đó chính là nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu đã được thơ ca xưa nay nói đến nhiều. Nhưng đến Xuân Quỳnh vẫn mang có nét duyên dáng, ý nhị, sâu sắc.
– Cảm nhận về cái đẹp (hình thức) của đoạn thơ: Câu thơ 5 chữ vừa trang trọng, vừa linh hoạt, phù hợp với diễn tả tâm trạng, cảm xúc. Cách nói mới lạ gây bất ngờ cho người đọc, gợi những liên tưởng sâu xa về tình yêu và lòng chung thủy. Câu thơ cuối nhấn mạnh vào vế “một phương” như một lời tạc dạ về lòng chung thủy. Đánh giá chung về đoạn thơ.
Đề 2: “Thơ Xuân Quỳnh thể hiện một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường”. (SGK Văn học 12, tập 1,Nxb Giáo dục, Hà Nội,2000, tr.250). Phân tích bài thơ Sóng để làm rõ nhận định trên.
Gợi ý :
1.Giới thiệu bài thơ:
+ Bài thơ sáng tác tại biển Diêm Điền năm 1967, in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào (1968).
+ Bài thơ đã hội tụ những vẻ đẹp của tâm hồn Xuân Quỳnh trong tình yêu- một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường.
2. Giải thích nhận định:
+ Nhận định trên có ý nghĩa khái quát về thơ và con người Xuân Quỳnh. Đấy là những vần thơ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ: tình yêu là cái đẹp, cái cao cả, tình yêu là sự hoàn thiện con người.
+ Nhận định còn có ý nghĩa khái quát: thơ Xuân Quỳnh tiêu biểu cho tiếng nói tâm tư, tình cảm của giới mình.
3. Phân tích bài thơ để chứng minh nhận định:
+ Một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường:
+ Một tâm hồn phụ nữ luôn có những rung động mãnh liệt, luôn rạo rực đầy khát khao, luôn tìm cách lí giải tâm hồn mình và đi tìm nguồn cội của tình yêu:
“Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể”
Và:
“Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau”
+ Một tâm hồn phụ nữ hồn hậu, chân thành với tình yêu đắm say, trong sáng và chung thủy:
“Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức”
Hay:
“Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh- một phương”
+ Một tâm hồn phụ nữ hi vọng vào tình yêu cao cả trước thử thách nghiệt ngã của thời gian và cuộc đời sẽ hoàn thiện mình:
“Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở”
+ Một tình yêu không vị kỉ mà đầy trách nhiệm, muốn hòa nhập vào cái chung để hiến dâng trọn vẹn:
“Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ”
* Nghệ thuật biểu hiện:
Sử dụng thể thơ năm chữ, âm điệu bắng trắc của những câu thơ thay đổi, đan xen nhau, nhịp điệu phù hợp với nhịp điệu vận động của sóng và phù hợp với cảm xúc của nhân vật trữ tình.
Sử dụng từ ngữ gợi hình, gợi cảm, diễn tả những trạng thái đối lập mà thống nhất của sóng và của tình cảm con người.
Hình tượng sóng trong bài thơ đã thể hiện sinh động và chính xác những cảm xúc và khát vọng trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu.
* Đánh giá:
+ Nhận định trên hoàn toàn xác đáng. Từ ý kiến trên và bài thơ giúp ta nhìn lại tâm hồn mình để sống đẹp trong tình yêu và trong cuộc đời.
Tìm Hiểu Văn Bản: Sóng – Xuân Quỳnh
– Phong cách thơ: Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằn thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường.
– Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước
– Xuân Quỳnh từng là diễn viên múa của Đoàn văn công nhân dân Trung ương, là biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III
– Xuân Quỳnh xuất thân trong một gia đình công chức, mồ côi mẹ từ nhỏ, Xuân Quỳnh ở với bà nội
2. Tác phẩm
a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác
– Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tê ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), là một bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh
– Bài thơ in trong tập Hoa dọc chiến hào
b. Bố cục( 4 phần):
– Phần 1 (khổ 1+2) : Sóng – Khát vọng tình yêu của người con gái.
– Phần 2 (khổ 3+4) : Ngọn nguồn của sóng – Truy tìm sự bí ẩn của tình yêu.
– Phần 3 (khổ 5+6+7) : Sóng – Nỗi nhớ thủy chung trong tình yêu.
– Phần 4 (Khổ 8+9) : Những suy tư về cuộc đời và khát vọng trong tình yêu.
II. Trọng tâm kiến thức
1. Sóng – Khát vọng tình yêu của người con gái.
– Hình tượng sóng bao trùm, xuyên suốt bài thơ. Sóng được miêu tả cụ thể, sinh động với nhiều trạng thái mâu thuẫn (lúc dữ dội, ồn ào, lúc lặng lẽ,…) gợi ra vẻ đẹp của thiên nhiên mênh mông.
– Đồng thời sóng cũng được miêu tả có hồn, có tính cách, tâm trạng, mang ý nghĩa biểu tượng. Sóng là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho tâm hồn, tính cách của người phụ nữ đang yêu, là sự hóa thân, phân thân của cái tôi trữ tình. Sóng song hành cùng em, tuy hai mà một, có lúc phân chia, có lúc hòa nhập nhằm diễn tả một cách mãnh liệt hơn khát vọng tình yêu của nhà thơ.
– Sóng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ. Âm điệu bài thơ dạt dào, thể thơ năm chữ với cách ngắt nhịp linh hoạt, kết cấu trùng điệp, bài thơ gợi ra nhịp điệu của sóng biển sôi nổi, dạt dào, lúc dịu êm, sâu lắng. Đó cũng là nhịp điệu của sóng lòng đang tràn ngập khát khao tình yêu.
– Tác giả mượn hình ảnh sóng để nói và nghĩ về tình yêu. Hành trình của sóng tìm đến biển là hành trình tình yêu vượt lên cái nhỏ bé, tầm thường để hướng về sự cao thượng, vị tha, đồng điệu. Đó là khát vọng muôn đời của con người trong tình yêu.
– Khổ thơ đầu là trạng thái của sóng – trạng thái tâm hồn của người phụ nữ đang yêu:
Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể
– Kết cấu đối lập, song hành: dữ dội/ dịu êm, ồn ào/ lặng lẽ.
– Đặt là dịu êm, lặng lẽ ở cuối câu, ý thơ như nghiêng hẳn về phía đó. Xuân Quỳnh mượn trạng thái thất thường, đối lập của sóng để diễn tả những phức tạp, bí ẩn trong tâm trạng người con gái khi yêu. Đó là tâm trạng vừa phong phú, vừa phức tạp của một trái tim phụ nữ nhạy cảm và khát khao yêu đương: có lúc nồng nàn, sôi nổi, đắm say; cũng có lúc dịu dàng, đằm thắm. Những mặt trạng thái ấy mâu thuẫn mà thống nhất với nhau.
– Con sóng không bằng lòng với khuôn khổ nhỏ hẹp của sông, nên nó tìm ra tận bể để hiểu đúng tầm vóc, bản chất của mình.
– Trái tim yêu của người phụ nữ cũng vậy: không chấp nhận sự tầm thường, hạn hẹp, tù túng mà luôn muốn vươn tới cái lớn lao, cao cả để tìm thấy chính mình trong tình yêu. Đó cũng là quan niệm mới mẻ trong tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh: sự chủ động, kiêu hãnh khi yêu của người phụ nữ, không nhỏ bé, cam chịu mà mạnh mẽ, táo bạo.
– Hành trình của sóng tìm ra biển là hành trình tình yêu hướng tới cái vô biên, tuyệt đích. Tâm hồn người phụ nữ khi yêu muốn vượt lên những giới hạn tầm thường để tìm đến tình yêu cao đẹp, lớn lao, được là chính mình. Nói cách khác, đó là khát vọng vươn tới sự đồng cảm, thấu hiểu trong tình yêu.
– Khổ thơ thứ hai nói đến tình yêu của tuổi trẻ là khát vọng muôn đời:
Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ
– Tình yêu là khát vọng chính đáng muôn đời của con người. Sóng trường tồn cùng thời gian cũng như tình yêu muôn đời vẫn bồi hồi, thổn thức trong trái tim con người, nhất là tuổi trẻ. Như vậy, mượn hình ảnh sóng, Xuân Quỳnh đã bộc lộ khát vọng được yêu, được sống hết mình trong tình yêu.
2. Ngọn nguồn của sóng – Truy tìm sự bí ẩn của tình yêu.
– Tình yêu là lẽ tự nhiên như hơi thở, cần thiết như ăn cơm, uống nước hàng ngày. Ấy thế mà tình yêu là gì mà có sức quyến rũ đến như vậy thì chưa ai giải thích được. Ngay đến Xuân Diệu – một nhà thơ tình nổi tiếng, một con người luôn khát khao giao cảm với đời, say đắm với tình yêu mà cũng bất lực:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu Có nghĩa gì đâu một buổi chiều Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt Bằng mây nhè nhẹ gió đìu hiu
– Làm sao có thể cảnh giác được tình yêu. Nó đến lúc nào ta đâu có biết và nó chiếm hồn ta lúc nào ta đâu có hay. Trước một vấn đề khó lí giải như vậy, em làm sao tránh khỏi sự băn khoăn trăn trở:
Trước muôn trùng sóng bể Em nghĩ về anh, em? Em nghĩ về biển lớn, Từ nơi nào sóng lên?
– Em nghĩ nghĩa là em đang thao thức, đang lo lắng, đang đặt ra nhiều câu hỏi.
– Điệp từ em nghĩ làm cho câu thơ đằm lại dịu dàng và càng làm rõ hơn sự suy nghĩ trong lòng em. Và như thế nhà thơ có một chút bối rối ưu tư muốn tìm hiểu về anh về em về biển lớn chứ không phải chỉ quen bồng bềnh, quen si mê, chỉ yêu và đơn thuần chỉ là yêu. Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không đơn giản, yêu cháy bỏng nồng say nhưng không vì thế mà hời hợt.
– Đến đây, nhân vật trữ tình có vẻ không thống nhất. Nếu ở đoạn thơ trên, em còn giấu mình trong lớp sóng ngoài kia thì đến đoạn này dường như nhà thơ không kìm chế nổi tình yêu đang dâng lên dạt dào trong ngực trẻ. Nhân vật trữ tình đã thoát ra khỏi lớp áo ẩn dụ để xưng em:
Em nghĩ về anh em Em nghĩ về biển lớn Từ nơi nào sóng lên?
– Anh phải chăng là biển lớn, là cuộc đời mênh mông. Em là con sóng dạt dào, là biểu tượng cho một tình yêu trỗi dậy. Xuân Quỳnh nghĩ về tình yêu, về anh nhưng vẫn nghĩ đến cuộc đời chung. Đó là điều đáng quý. Nhà thơ nắm bắt được mối liên hệ giữa hạnh phúc riêng và cuộc sống chung của mọi người.
– Nếu sóng tìm ra tận bể để tự hiểu mình thì em cũng sẽ tìm đến tình yêu anh để hiểu sâu hơn về con người đích thực của em.
– Và trước không gian bao la của biển cả, làm sao em không trăn trở với những câu hỏi tự ngàn xưa:
Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau?
– Xuân Quỳnh muốn cắt nghĩa về nguồn gốc của sóng để đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi về sự khởi nguồn của tình yêu trong trái tìm mình. Nhà thơ muốn dựa vào quy luật của tự nhiên để tìm ra qui luật của tình yêu.
– Lời thú nhận nhỏ nhẹ, thành thực có phần nũng nịu, bối rối: em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau?. Tình yêu như sóng biển, làm sao hiểu hết được, tình yêu là tiếng nói của cảm xúc, trái tim nên khó lí giải. Cách cắt nghĩa tình yêu chân thành, đầy nữ tình của Xuân Quỳnh.
– Thế là ra tận bể mà sóng vẫn chưa hiểu nổi mình. Em đã hòa nhập vào biển lớn của tình yêu mà nào em đã hiểu em. Em yêu anh từ đâu? Khi nào? Từ cái gì? Ánh mắt, nụ cười, giọng nói?
– Mọi câu hỏi đặt ra đều tha thiết tìm về cội nguồn của nó. Nhưng em cũng không biết nữa. Mà biết để làm gì? Chỉ cần hiểu rằng: Ta vẫn yêu nhau là đủ. Cái thiêng liêng nhất, tuyệt diệu nhất trong tình yêu là sự giao cảm, hòa hợp sâu xa giữa hai tâm hồn, hai nửa cuộc đời tự nguyện gắn bó với nhau để tạo thành một chỉnh thể trọn vẹn, vĩnh viễn không trước cũng không sau.
3. Sóng – Nỗi nhớ thủy chung trong tình yêu.
– Xuân Diệu từng viết:
Uống xong lại khát là tình Gặp rồi lại nhớ là mình với ta
Hay Nguyễn Đình Thi:
Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước Mỗi tối anh nằm, mỗi miếng anh ăn
– Còn Xuân Quỳnh thể hiện nỗi nhớ trong tình yêu qua nhiều cung bậc:
+ Trong tình yêu, ta vẫn thường thấy hai mặt yêu và nhớ, yêu say đắm thì nhớ thiết tha:
Cong sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước
+ Đó là những cung bậc khác nhau của nỗi nhớ anh. Dù trên mặt nước hay dưới lòng sâu thì con sóng vẫn đều có bờ. Bờ là nơi đến của sóng, là đối tượng để sóng vuốt ve, vỗ về, là cái đích để đi đâu về đâu sóng lúc nào cũng nhớ đến, cũng không quên, ngay cả đó là ngày hay đêm:
Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được
+ Nỗi nhớ có cái biểu hiện ra bên ngoài, có cái ẩn chứa tự sâu trong đáy lòng. Vắng anh, em nhớ, khi thức, em nhớ đến anh. Đó là biểu hiện bình thường. Nhưng ở đây, trong mơ em vẫn nhớ. Đó là nỗi nhớ da diết, khắc khoải, thổn thức cứ trằn trọc không yên:
Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức.
– Lòng thủy chung vừa như một thuộc tính, vừa là bản chất của tình yêu chân chính:
+ Xưa nay, nỗi nhớ luôn gắn liền với khái niệm thời gian vô tận và không gian vô cùng. Với thời gian, nó không có ngày đêm; với không gian, nó không có phương hướng. Không gian có bốn phương là Đông, Tây, Nam, Bắc nhưng trongn tình yêu thì chỉ có một phương duy nhất và đó chính là anh. Trong đời, em quen biết nhiều người, họ có thể hơn hẳn anh thế nhưng em lại chọn anh, yêu anh và chỉ biết có anh. Chỉ riêng anh là khiến em luôn nghĩ tới và hướng về:
Dẫu xuôi về phương Bắc Dẫu ngược về phương Nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh một phương
+ Những người đang yêu bao giờ cũng hướng về nhau, họ là mặt trời suốt đời soi sáng và sưới ấm cho nhau.
+ Dùng hình thức điệp, điệp cấu trúc kết hợp với nghệ thuật đối lập qua cách nói ngược xuôi bắc, ngược nam, tác giả muốn nhấn mạnh rằng: bất chấp sự cách trở của không gian và thời gian, người phụ nữ vẫn giữ vững lời thề vàng đá, vẫn thủy chung son sắt.
+ Tình yêu đẹp là vậy, trong sáng là vậy, mãnh liệt bay bổng là vậy nhưng nó không tránh khỏi những dâu bể của đời thường. Chính vì thế những người đang yêu ngoài sự say mê còn phải đủ nghị lực và lí trí để vượt qua mọi thử thách, giông bão của cuộc đời với niềm tin sẽ tới đích:
Ở ngoài kia đại dương Trăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở.
+ Những con sóng ở đại dương dù gió xô bão táp tới phương nào đi chăng nữa thì cuối cùng sóng vẫn trở về với bờ. Em cũng như sóng, cho dù gặp bao khó khăn em cũng sẽ vượt qua hết để đến với anh, bởi tình yêu anh đã cho em sức mạnh.
4. Những suy tư về cuộc đời và khát vọng trong tình yêu.
– Từ nỗi nhớ lúc dữ dội – ồn ào, lúc êm đềm – lặng lẽ, ý thơ dồn thành khát vọng sống mãnh liệt của sóng. Sóng tìm đến cái đích cảu tình yêu trong một niềm tin mạnh mẽ:
+ Xuân Quỳnh mượn quy luật của sóng biển, mây trời để diễn tả quy luật của lòng người. Là một phụ nữ nhạy cảm và đa đoan, Xuân Quỳnh ý thức rất đời: cuộc sống là dài, rộng, là muôn vời cách trở.
+ Càng thấp thỏm, lo âu, Xuân Quỳnh càng cháy bỏng một niềm tin tha thiết, cảm động: tình yêu sẽ vượt qua mọi trở ngại để tới đích, như những con sóng con nào chẳng tới bờ và mây vẫn bay về xa.
– Lời thơ cứ thế triền miên cùng sóng. Cuối cùng sóng hiện ra trong khát khao hạnh phúc mãnh liệt nhất: khát khao tình yêu vĩnh hằng, bất tử:
Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ.
+ Đứng trước biển, đối diện với cái mênh mông rộng lớn của thời gian và không gian Xuân Quỳnh ý thức được sự hữu hạn của đời người và sự mong manh của hạnh phúc.
+ Nhà thơ muốn được có mặt mãi trên cõi đời để được sống và bất tử trong tình yêu. Khát vọng hóa thân và phân thân trong sóng thật mạnh mẽ. Hai chữ “tan ra” vừa cháy bỏng nồng nhiệt, vừa thăm thẳm nỗi niềm phụ nữ – cái thăm thẳm của hai khát vọng hòa làm một: yêu hết mình và dâng hiến hết mình. Đó cũng chính là vẻ đẹp thánh thiện của người phụ nữ trong tình yêu.
III. Tổng kết
1. Nội dung
Qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hòa hợp giữa sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó thấy được tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.
2. Nghệ thuật
– Bài thơ mang âm hưởng dạt dào, nhịp nhàng, gợi nhịp độ của con sóng liên tiếp.
– Thể thơ 5 chữ với những dòng thơ thường là không ngắt nhịp, các câu thơ ngắn, đều đặn gợi sự nhịp nhàng.
– Thành công trong việc xây dựng hình tượng sóng: hình tượng sóng trở đi trở lại với nhiều cung bậc, gợi nhũng trạng thái cảm xúc đa dạng trong cõi lòng người con gái đang yêu.
Soạn Bài Sóng (Xuân Quỳnh)
Soạn bài Sóng (Xuân Quỳnh) Bố cục
Phần 1 (2 khổ đầu) mối quan hệ giữa sóng và tình yêu
Phần 2 ( 4 khổ tiếp): tình yêu, nỗi nhớ của người con gái khi yêu
Phần 3 (còn lại) khát vọng được yêu thương, thấu hiểu
Câu 1 (trang 156 sgk ngữ văn 12 tập 1):
Âm điệu, nhịp điệu của bài thơ xao xuyến, rộn ràng, được tạo bởi các yếu tố:
– Những câu thơ năm chữ ngắn gọn
– Nhịp thơ lúc nhịp nhàng, lúc dồn dập
– Vần thơ: đa dạng, linh hoạt bằng các vần chân, vần cách, gợi hình ảnh các đợt sóng nối tiếp nhau.
Câu 2 (trang 156 sgk ngữ văn 12 tập 1):
Hình tượng sóng mang nghĩa thực và nghĩa biểu tượng, gợi lên âm hưởng sóng biển: dạt dào, nhẹ nhàng
– Song hành hai hình tượng “sóng” và “em” diễn tả chân thực tình yêu đôi lứa
+ Trong khổ thơ 1 và 2, sóng được đặt trong những trạng thái đối cực: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ gợi sự liên kết trạng thái tâm lí của tình yêu
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
+ Hành trình của sóng chính là khát vọng tìm cái rộng lớn, cao cả – biển cả
→ Khát vọng chinh phục tình yêu, khát vọng muôn đời của con người
– Khổ 3 và khổ 4, hình tượng sóng, nhà thơ nhận thức về tình yêu của mình- tình yêu sánh ngang biển lớn, cuộc đời.
– Tác giả đặt câu hỏi hoài nghi, băn khoăn về nguồn cội của sóng, của tình yêu thương nhưng bất lực
Khổ thơ 5 và 6: Nỗi nhớ trong tình yêu được so sánh bằng những liên tưởng độc đáo, thú vị
+ Nỗi nhớ trong lòng người con gái đang yêu: thao thức khi ngủ, thức, da diết, mãnh liệt
Trong nỗi nhớ da diết, nhà thơ thể hiện được sự thủy chung tuyệt đối, niềm tin son sắt vào tình yêu- cuộc sống, tình yêu nào cũng tới bến bờ hạnh phúc
– Khổ 8: Câu thơ mang màu sắc triết lí, thể hiện sự lo âu, trăn trở
+ Sự khao khát hạnh phúc hiện tại, ý thức sâu sắc sự hữu hạn của đời người và sự mong manh bền chặt của tình yêu
– Khổ 9: Ước nguyện chân thành được hòa mình vào biển lớn, tình yêu và cuộc đời
+ Khát vọng sống hết mình cho tình yêu với sự hi sinh, dâng hiến
Câu 3 (trang 156 sgk ngữ văn 12 tập 1):
Sóng và em có quan hệ tương đồng, sóng ẩn dụ cho tình yêu cũng như tâm hồn nhân vật “em”
+ Sóng và em lúc hòa hợp, lúc tách rời
+ Kết cấu song hành làm tăng hiệu quả của nhận thức, khám phá chủ thể trữ tình, tình yêu thủy chung, bất diệt
– Kết cấu bài thơ là kết cấu liền mạch của suy nghĩ, cảm xúc: cô gái nhìn ra biển cả, quan sát và suy ngẫm về tình yêu, những biến chuyển tinh tế
Người phụ nữ đang yêu tìm thấy sự tương đồng giữa các trạng thái tâm hồn, với những con sóng
+ Sự đa dạng muôn màu sắc, trạng thái: dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ
+ Không rõ cội nguồn, không thể định nghĩa, lý giải được
+ Sự mãnh liệt, sâu sắc trong khát khao sống, yêu thương
+ Sự chung thủy, gắn bó bền chặt
→ Sóng và em là sự cộng hưởng trọn vẹn trong suốt bài thơ, trải qua nhiều cung bậc tình yêu để hòa quyện vào nhau
→ Hình tượng sóng là ước vọng đời thường trong tình yêu của người phụ nữ
Câu 4 (trang 157 sgk ngữ văn 12 tập 1):
Bài thơ là lời tự bộc bạch của một tâm hồn phụ nữ đang yêu:
– Tâm hồn sôi nổi, mạnh mẽ, khao khát yêu thương
– Là người thấu hiểu, chung thủy với tình yêu
– Tâm hồn bộc trực, thành thực bày tỏ tình yêu nhưng vẫn đầy nữ tính, chung thủy
Luyện tậpCó nhiều bài thơ so sánh tình yêu với sóng và biển, những câu thơ, bài thơ đó:
+ Khúc thơ tình người lính biển (Trần Đăng Khoa)
+ Biển ( Xuân Diệu)
+ Hai nửa vầng trăng (Hoàng Hữu)
Bài giảng: Sóng (Xuân Quỳnh) – Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)
Ngân hàng trắc nghiệm miễn phí ôn thi THPT Quốc Gia tại chúng tôiĐọc Hiểu Văn Bản Sóng (Xuân Quỳnh) Gắn Liền Với Đời Sống Thực Tiễn
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN
======
NGÔ THỊ HỒNG NGỌC
ĐỌC HIỂU VĂN BẢN “SÓNG” (XUÂN QUỲNH) GẮN LIỀN VỚI ĐỜI SỐNG THỰC TIỄN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Ngữ văn
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học ThS. NGUYỄN THỊ MAI HƢƠNG
HÀ NỘI – 2023
LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn tới Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện cho tôi có cơ hội học tập, rèn luyện và có cơ hội được thực hành nghiên cứu khoa học tại trường. Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong tổ Phương pháp dạy học Ngữ văn cùng toàn thể các thầy cô trong khoa Ngữ văn đã nhiệt tình giảng dạy. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thạc sĩ Nguyễn Thị Mai Hƣơng, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và truyền đạt cho tôi những kinh nghiệm khoa học quý báu giúp tôi hoàn thành khóa luận đúng thời hạn. Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, người thân, bạn bè đã động viên, chia sẻ và tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành khóa luận này. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2023 Tác giả khóa luận
Ngô Thị Hồng Ngọc
LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn của Thạc sĩ Nguyễn Thị Mai Hƣơng, chưa được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào. Nếu có gì sai sót, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm theo đúng quy định của việc nghiên cứu khoa học. Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2023 Tác giả khóa luận
Ngô Thị Hồng Ngọc
DANH MỤC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
Kí hiệu
Ý nghĩa
THPT
Trung học phổ thông
HS
Học sinh
GV
Giáo viên
GS
Giáo sư
TS
Tiến sĩ
SGK
Sách giáo khoa
Nxb GD
Nhà xuất bản giáo dục
MỤC LỤC MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………………………….. 1 1. Lý do chọn đề tài …………………………………………………………………………… 1 2. Lịch sử vấn đề ……………………………………………………………………………….. 2 3. Mục đích nghiên cứu ……………………………………………………………………… 3 4. Nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………………………………… 4 5. Đối tượng nghiên cứu …………………………………………………………………….. 4 6. Phạm vi nghiên cứu ……………………………………………………………………….. 4 7. Phương pháp nghiên cứu ………………………………………………………………… 4 8. Dự kiến đóng góp ………………………………………………………………………….. 5 9. Bố cục khóa luận …………………………………………………………………………… 5 NỘI DUNG …………………………………………………………………………………………. 6 Chương 1.CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN …………………………….. 6 1.1. Cơ sở lí luận ……………………………………………………………………………….. 6 1.2. Cơ sở thực tiễn ……………………………………………………………………………. 9 1.2.1. Đọc hiểu văn bản trữ tình gắn liền với đời sống thực tiễn …………. 11 1.2.2. Thực trạng tiếp nhận văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh) trong trường THPT ………………………………………………………………………………………….. 11 Chương 2. CÁC BIỆN PHÁP DẠY HỌC ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN “SÓNG” (NGỮ VĂN 12) GẮN LIỀN VỚI ĐỜI SỐNG THỰC TIỄN ………………….. 14 2.1. Đặc trưng của văn bản trữ tình ……………………………………………………. 14 2.1.1. Khái niệm văn bản trữ tình ……………………………………………………. 14 2.1.2. Đặc trưng của văn bản trữ tình ………………………………………………. 15 2.1.2.1. Lấy việc bộc lộ nội tâm con người làm mục đích, nội dung biểu đạt………………………………………………………………15 2.1.2.2. Chủ thể trữ tình…………………………………………………………16 2.1.2.3. Ngôn ngữ trữ tình……………………………………………19
2.2. Các biện pháp dạy học đọc – hiểu văn bản “Sóng” (Ngữ văn 12) gắn liền với đời sống thực tiễn ………………………………………………………………… 21 2.2.1. Biện pháp chung ………………………………………………………………….. 21 2.2.1.1. Đọc tiếp cận văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh)…………………21 2.2.1.2.Tái hiện hình tượng nhân vật trữ tình: Sóng và Em…………..23 2.2.1.3. Đọc hiểu văn bản “Song” (Xuân Quỳnh)…………………….23 2.2.2. Phương hướng dạy học đọc – hiểu văn bản “Sóng” (Ngữ văn 12) gắn liền với đời sống thực tiễn ……………………………………………………….. 25 2.2.2.1. Dạy đọc hiểu văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh) trong trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn…………………………………..25 2.2.2.2. Quan niệm nhân sinh mới mẻ trong văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh)…………………………………………………………………..35 Chương 3. GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM ………………………………………………… 41 KẾT LUẬN ……………………………………………………………………………………….. 54 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Môn Ngữ văn là một trong những môn quan trọng trong trường THPT và vấn đề giảng dạy Ngữ văn luôn là vấn đề được mọi người quan tâm. Bởi kiến thức trong môn học có vai trò đặc biệt đối với đời sống con người. Trong đó, tri thức trong văn học đem lại giá trị sống phong phú, giúp con người hoàn thiện mình hơn. Tuy nhiên với giới trẻ hiện nay và đặc biệt là học sinh THPT thì việc học văn cũng như tiếp nhận các tác phẩm văn học ngày càng trở nên khó khăn. Học sinh thờ ơ với các văn bản trữ tình vì xa rời hiện thực cuộc sống. Do vậy, việc học văn càng trở nên nhàm chán vô vị, học sinh học với thái độ học đối phó. Việc học sinh trong nhà trường THPT quay lưng lại với các tác phẩm trữ tình nói riêng và bộ môn Ngữ văn nói chung nguyên nhân không chỉ là thái độ vô cảm của các em trong việc cảm thụ hay tiếp nhận một tác phẩm văn học. Có thể văn học trữ tình còn xa lạ với các em do khoảng cách, thời gian tâm lí càng khiến học sinh không tiếp nhận. Bên cạnh đó là phương pháp dạy học của một số giáo viên vẫn dạy văn theo lối truyền thống, chưa thực sự có ý thức đổi mới trong phương pháp dạy cũng như cách truyền đạt nên không tạo ra cho học sinh sự hứng thú khi học. Từ những nguyên nhân trên, chúng tôi thiết nghĩ cần phải tạo tâm thế hứng thú cho học sinh khi học bộ môn Ngữ văn, đặc biệt là các văn bản trữ tình, người dạy cần phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn trong nhà trường THPT. Ý thức được vấn đề đó, người dạy học sẽ có cái nhìn toàn diện tích cực về văn học và vai trò của bộ môn Ngữ văn trong đời sống. Nâng cao chất lượng dạy học nhằm truyền đạt những kiến thức không thể thiếu mang giá trị nhân văn là cách chúng ta mang đến cho học sinh những
1
hành trang tinh thần quý giá với đời sống tình cảm phong phú để các em trưởng thành làm người, hiểu cuộc đời, từ đó biết yêu thương, biết chia sẻ để sống có ý nghĩa hơn cho bản thân, gia đình và cho xã hội. Trên tinh thần đổi mới của Bộ Giáo dục về dạy – học Ngữ văn, chúng tôi chọn đề tài: Đọc – hiểu văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh) gắn liền với đời sống thực tiễn với mong muốn đi tiếp con đường mà các nhà giáo dục quan tâm. Nghiên cứu này chúng tôi muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc dạy học với hi vọng tác phẩm sẽ đến gần hơn và trở nên thiết thực hơn với học sinh THPT. 2. Lịch sử vấn đề Bàn về vấn đề phương pháp dạy học và dạy học Ngữ văn có từ rất sớm, xuất phát đầu tiên ở các nước phương Tây. Xuất hiện với một số cuốn sách như: “Phương pháp dạy học văn” của IA Rex. Trình bày phương pháp học một cách rất cụ thể, nhấn mạnh vai trò đọc sáng tạo. Coi đó là phương pháp đặc thù nhằm phát triển năng lực cảm thụ văn học trên phương diện nghệ thuật thông qua Đọc – hiểu. “Phương pháp dạy học văn ở trường THPT” V.A Nhiconxki (Ngọc Toàn và Bùi Lê dịch) cho rằng dạy học văn có vị trí và vai trò chủ đạo của người học trong nhà trường và hoạt động đọc diễn cảm trong quá trình tiếp nhận. Ở Việt Nam những năm 80, những cuốn sách bàn về đọc văn và văn học như:”Cảm thụ văn học giảng dạy văn học” của GS Phan Trọng Luận: Tầm quan trọng của việc đọc, đọc từng câu, từng chữ không thể nhảy cóc. Đọc không chỉ dừng lại ở việc quan sát bề mặt câu chữ mà phải thấy được bề sâu từng ý nghĩa mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm: “Văn học và nhân cách” GS Nguyễn Thanh Hùng cũng nhấn mạnh đến sự phát triển của quá trình đọc
2
được hoạt động liên tưởng, tưởng và giới thiệu nghệ thuật. Ngoài ra còn có nhiều bài báo, chuyên đề, chuyên luận như: Báo văn nghệ (14.2.1988)”Môn văn như thực trạng và giải pháp”, GS Trần Đình Sử. Đề cập tới ba mục tiêu của việc dạy văn, rèn luyện khả năng đọc hiểu, bám sát tác phẩm không suy đoán tùy tiện. Trong bài viết: “Dạy đọc hiểu là tạo nên nền tảng văn hóa cho người đọc”, GSTS Nguyễn Thanh Hùng chỉ ra việc đọc hiểu giúp hình thành và củng cố, phát triển năng lực, nắm vững và sử dụng Tiếng Việt một cách thành thạo. Từ bình diện văn hóa ấy, bài viết xác định: Đọc là một hoạt động có văn hóa, có ý nghĩa cơ bản cho sự phát triển của nhân cách. Chuyên đề: “Đọc và tiếp nhận văn chương”, GSTS Nguyễn Thanh Hùng khẳng định: Tiếp nhận tác phẩm văn học là một quá trình vì nó chỉ diễn ra một hoạt động duy nhất là hoạt động đọc văn. GS Phan Trọng Luận trong chuyên đề: “Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học” đã phân tích tầm quan trọng của hoạt động đọc. Đọc từ chữ đầu đến chữ cuối, đọc để tri giác bằng mắt, tai tất cả các hình ảnh, chi tiết, từ ngữ. Quá trình đọc là quá trình thâm nhập từng bước vào nội dung ý nghĩa của tác phẩm. Tất cả các nghiên cứu trên của văn chương cho rằng đọc là hoạt động đầu tiên của tiếp nhận văn chương. Dựa vào nghiên cứu trên khóa luận này chúng tôi tiến hành tổ chức: Đọc – hiểu văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh) trong nhà trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn. 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này chúng tôi nhằm mục đích: Xác lập các hoạt động các bước dạy văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh) theo hướng đọc hiểu. Làm rõ các vấn đề xung quanh gắn với đời sống thực tiễn. Khóa luận sẽ đi nghiên cứu đặc điểm của thể loại trữ tình góp phần xây dựng quy trình dạy
3
văn gắn liền với đời sống. Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học văn ở trường THPT theo hướng dạy văn là dạy học sinh biết cách làm người – con người không chỉ có tri thức mà còn có khả năng thích ứng cao, biết giao tiếp, ứng xử trong đời sống. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Khóa luận thực hiện các nhiệm vụ sau: Tìm hiểu cơ sở của dạy học Ngữ văn với đời sống và quy trình dạy học đọc – hiểu văn bản trữ tình ở trường THPT gắn với đời sống thực tiễn. Vận dụng những hiểu biết trên để đọc – hiểu văn bản “Sóng” của Xuân Quỳnh (SGK Ngữ văn lớp 12 tập 1 Nxb GD) trong trường THPT gắn với đời sống thực tiễn. 5. Đối tƣợng nghiên cứu Chúng tôi tập trung nghiên cứu: Lí thuyết đọc – hiểu, đọc – hiểu văn bản gắn với đời sống thực tiễn. Vận dụng và hướng dẫn HS biết cách đọc hiểu văn bản “Sóng” của Xuân Quỳnh (SGK Ngữ văn lớp 12 tập 1 Nxb GD) trong trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn. 6. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu trong phạm vi các đặc trưng chung của thể loại trữ tình mà cụ thể là các đặc trưng của thơ trữ tình. Đặc biệt, đi sâu vào hoạt động đọc – hiểu văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh) trong trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn. 7. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp lí thuyết: phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu. Phương pháp thực nghiệm: vận dụng lí thuyết đọc – hiểu vào thiết kế bài giảng “Sóng” của Xuân Quỳnh (SGK Ngữ văn 12 tập 2, Nxb GD) trong trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn.
4
8. Dự kiến đóng góp Định hướng việc dạy học văn bản trữ tình trong trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn. Chúng tôi muốn góp một phần nhỏ vào việc đổi mới phương pháp dạy học. Đồng thời, bản thân có dịp nâng cao kiến thức, trau dồi kinh nghiệm phục vụ sự nghiệp trong tương lai. Bên cạnh đó, khóa luận góp phần hình thành và phát triển khả năng tìm tòi và nghiên cứu khoa học của người viết. 9. Bố cục khóa luận Khóa luận gồm 3 phần: – Mở đầu – Nội dung – Kết luận
5
NỘI DUNG
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 1.1. Cơ sở lí luận Trong thời đại công nghệ thông tin hiện đại như ngày nay, con người có rất nhiều cách để tiếp cận một tác phẩm văn học. Trong đó đọc – hiểu là phương pháp phổ biến nhất để gần hơn với các tác phẩm văn học vì văn chương là nghệ thuật ngôn từ. Theo SGK Ngữ văn nâng cao lớp 10: Đọc là “hoạt động nắm bắt ý nghĩa trong các kí hiệu của văn bản, khác với nghe là hoạt động nắm bắt ý nghĩa từ tín hiệu âm thanh”. Đọc ở đây đòi hỏi hiểu nội dung từ ngữ, tình cảm, cái đẹp của văn bản và có thể sử dụng văn bản đó vào đời sống cá nhân và xã hội. Hiểu là nắm được những thông tin chính của văn bản và ý nghĩa mà tác giả muốn gửi gắm, bên cạnh đó giải thích và biểu đạt được cái hay của văn bản. Hiểu là ngộ ra, nhận ra những triết lý nhân sinh mà tác giả gửi gắm qua từng văn bản. Đồng thời thời cũng là sự bổ sung những ý kiến mới tăng thêm giá trị cho tác phẩm. Theo chúng tôi Nguyễn Thanh Hùng thì “Đọc – hiểu là đọc cái chủ quan của người viết bằng cách đồng hóa tâm hồn, tình cảm, suy nghĩ của mình vào trang sách. Đọc – hiểu không chỉ là tái tạo âm thanh, từ và chữ viết mà còn là quá trình nhuần thấm tín hiệu nghệ thuật chưa mã hóa đồng thời với việc huy động vốn sống, kinh nghiệm cá nhân của người đọc để lựa chọn giá trị tư tưởng thẩm mĩ và ý nghĩa vốn có của văn chương. Đọc – hiểu là đón đầu những gì đang đọc qua từng từ, từng câu, từng đoạn rồi mới quay về với những gì đã đọc để kiểm chứng và đi tìm sự hợp sức của tác giả để tác phẩm được tái tạo trong tính cụ thể và giàu tưởng tượng”. [5,tr.5] Trong cuốn “Hiểu văn dạy văn” chúng tôi Nguyễn Thanh Hùng khẳng
6
định: Đọc – hiểu không những là những hình thức tiếp nhận nội dung, vẻ đẹp thẩm mĩ của văn bản đó mà còn là hoạt động tâm sinh lí, có tính trực giác và khái quát. Nó hàm chứa trong đó kinh nghiệm cá nhân của bạn đọc. Đây là mối quan hệ giữa chủ thể sáng tác và chủ thể tiếp nhận, tạo ra quá trình giao tiếp ngầm giữa nhà văn và bạn đọc. Người đọc chính là người đồng sáng tạo trong văn chương. Còn theo GS Nguyễn Thái Hòa: Đọc – hiểu là một phương pháp: “Nói một cách khái quát dù đơn giản hay phức tạp đều là hành vi ngôn ngữ, sử dụng linh hoạt một thủ pháp, thao tác bằng cơ quan thị giác và thính giác để tiếp nhận và phân tích, giải mã và ghi nhớ nội dung thông tin, cấu trúc văn bản”. GS đã chỉ ra đọc – hiểu là một hành vi ngôn ngữ và coi đó là một thao tác dùng thị giác và thình giác. Người đọc đi tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của văn bản, không chỉ vậy đọc – hiểu còn là quá trình ghi nhớ nội dung thông tin và cấu trúc văn bản. Sách giáo viên Ngữ văn 6 đã nêu ra khái niệm đầu tiên về đọc – hiểu, về phương pháp đọc – hiểu: “Cách làm chủ yếu vẫn là bằng hình thức nêu các câu hỏi hướng dẫn nhưng nhấn mạnh phương châm đề cao công việc hoạt động của học sinh, nhằm tìm hiểu văn bản theo 3 hướng sau: Đọc – hiểu; suy nghĩ – vận dụng; liên tưởng – tích lũy các phương pháp dạy học hiện đại”. Từ những ý kiến và hiểu biết trên, chúng tôi đi đến xác lập khái niệm về phương pháp đọc – hiểu trên tinh thần tham khảo, học hỏi: Theo nghĩa rộng: Đọc – hiểu là thuật ngữ chỉ chung cho phương thức và mục đích của việc lĩnh hội tri thức và nắm bắt thông tin. Đó là hoạt động nhận thức nói chung thông qua con đường giải mã văn bản bằng ngôn từ. Theo nghĩa hẹp: Đọc – hiểu là hoạt động thưởng thức nghệ thuật ngôn từ, hưởng thụ thẩm mĩ của con người. Nó bao gồm nhiều hành động thể chất và thao tác tư duy (tưởng tượng, liên tưởng, phán đoán…) để đi đến đích là
7
8
9
Những tác phẩm được lựa chọn trong nhà trường có một giá trị tiêu biểu “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Nội dung đã được sàng lọc, xác định qua thời gian nên mang tính thời sự và có giá trị thực tiễn. Xã hội càng phát triển, đặc biệt trong thời đại hội nhập, nhu cầu vươn tới một nền giáo dục chất lượng cao, đào tạo ra những con người có khả năng thích nghi với cuộc sống, giải quyết những vấn đề thiết thực của cuộc sống ngày càng cấp thiết. Đó là cái đích hướng của giáo dục, trong đó Ngữ văn là một môn học có vai trò rất quan trọng. Từ trước tới nay, môn Ngữ văn được coi là môn học đặc thù với rất nhiều đặc tính: Vừa rèn luyện về ngôn ngữ, rèn luyện tư duy hình tượng cũng như khả năng sáng tạo của học sinh, vừa rèn luyện khả năng cảm thụ văn chương lại vừa tăng khả năng giáo dục nhân cách, đạo đức. Mục đích của việc dạy văn trong nhà trường là đào tạo ra những con người có tư duy độc lập, sáng tạo, có kĩ năng đọc, kĩ năng viết và kĩ năng đáp ứng các nhu cầu trong cuộc sống. Tuy nhiên, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan, việc dạy và học Ngữ văn trong nhà trường hiện nay chưa đáp ứng được những nhu cầu trên. Theo điều tra của nhiều công trình nghiên cứu về việc dạy – học văn hiện nay, kết quả học tập môn Ngữ văn rất đáng báo động. Nhiều học sinh không biết cách viết như thế nào cho hợp lí một bài văn, không biết cách hành văn thậm chí còn không chịu tìm hiểu văn bản trong chương trình cũng như các sách tham khảo bên ngoài. Đáng nói hơn là nhiều học sinh, sinh viên ra trường vẫn không biết cách viết một lá đơn xin việc, không trình bày được ý tưởng trong công viêc một cách mạch lạc…tức là đã thiếu đi những kĩ năng sống cơ bản lẽ ra phải được trang bị và môn Ngữ văn là yếu tố giúp hình thành những kĩ năng cơ bản đấy. Vì vậy, dạy học Ngữ văn trong nhà trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn là vấn đề cần thiết.
10
1.2.1. Đọc hiểu văn bản trữ tình gắn liền với đời sống thực tiễn Như đã trình bày ở lí do chọn đề tài: Đối với những văn bản văn chương thuộc thể loại trữ tình, học sinh thường có quan niệm chúng quá lãng mạn, xa rời thực tế cuộc sống và cho rằng đó chỉ là cảm nhận của giới văn nghệ sĩ nên tiếp nhận văn bản trữ tình theo hướng “học cho xong”. Trong thực tế, những văn bản trữ tình lại mang giá trị nhân sinh tích cực mà học sinh chưa thật sự khám phá hoặc chưa muốn khám phá. Người giáo viên với vai trò hướng dẫn tổ chức hoạt động học của học sinh chính là chiếc cầu nối giúp học sinh nhận ra và tiếp thu những giá trị đó qua phương pháp đọc – hiểu văn bản. Nếu như trong những giờ dạy học đọc – hiểu văn bản trữ tình giáo viên có thể dẫn dắt học sinh tới những giá trị nhân sinh thực tiễn, học sinh có thể áp dụng vào trong cuộc sống của mình thì chắc chắn sẽ không còn khô khan với các em nữa mà thay vào đó học sinh sẽ hào hứng hơn, tiếp thu hiệu quả hơn. Trong giờ học giáo viên giúp học sinh biết rung cảm với nhịp đập trái tim con người trước cuộc sống muôn màu, bồi đắp lòng tin yêu con người và cuộc sống, biết căm ghét những gì hạ thấp nhân phẩm và ngăn cản sự phát triển toàn diện của con người. Nếu không gắn với lợi ích thực tiễn đặc biệt trong môi trường xã hội công nghiệp hóa – hiện đại hóa hiện nay thì việc dạy đọc – hiểu văn bản trữ tình trong nhà trường THPT sẽ trở nên nặng nề, giáo điều và không đạt được hiệu quả như mong muốn. 1.2.2. Thực trạng tiếp nhận văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh) trong trƣờng THPT Việc đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông trong đó có việc đổi mới phương pháp dạy học văn theo tinh thần khoa học hiện đại đã và đang diễn ra phổ biến và thu được kết quả khả quan. Việc chúng tôi chọn đề tài này xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học đã được quy định tại Luật giáo dục của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 14
11
tháng 6 năm 2005 ở Khoản 2 Điều 5: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học khả năng tự học, lòng say mê tự học và ý chí vươn lên”. Đặc điểm cấu trúc chương trình THPT hiện nay quan tâm đến việc dạy tác phẩm văn học theo thể loại. Nhiều văn bản mới như văn bản nhật dụng được đưa vào chương trình. Vì vậy, nghiên cứu cảm thụ không chỉ đóng khung một cách phiến diện vào vấn đề hứng thú mà cần chú ý nhiều hơn vào giá trị thực tiễn (gắn liền với tâm lí, sinh lí, xã hội, mĩ học…). Không thể dạy văn theo cách tĩnh và thiếu mối liên hệ biện chứng giữa văn học và thực tế cuộc sống, khuynh hướng khoa học ngày nay yêu cầu một cách nghiêm ngặt về khảo nghiệm thực tiễn trữ tình. Bởi những đặc trưng rất riêng của văn bản trữ tình so với các loại văn bản khác, đòi hỏi học sinh phải có năng lực cảm thụ văn chương mới có thể phân tích, cắt nghĩa, bình giá những chi tiết, hình ảnh trong văn bản. Trong khi trên thực tế, học sinh không có hứng thú với những bài thơ trung đại bởi chúng khó hiểu, công thức, cũng không có hứng thú với thơ hiện đại bởi cho rằng đó là những văn bản xa rời thực tế và không phù hợp với tâm lí đương thời. Giáo viên với tư cách là người hướng dẫn, tổ chức các hoạt động của học sinh nhằm giúp học sinh chủ động chiếm lĩnh tri thức. Trong quá trình dạy, đôi lúc còn gặp phải lúng túng khi truyền tải những kiến thức, cảm xúc thẩm mĩ mà văn bản trữ tình đem lại. Nguyên nhân một phần do giáo viên chưa liên hệ thực tế vào bài dạy khiến học sinh thấy mơ hồ và không hứng thú, tạo ra một khoảng trống không có sự liên hệ giữa học sinh và văn bản dẫn đến tình trạng “học cho xong”. Mặc dù trên thực tế, văn bản trữ tình có được viết ở thời đại nào cũng tái hiện cuộc sống, tái hiện hiện thực. Vậy nên sẽ khô khan nếu dạy đọc – hiểu văn bản trữ tình mà không gắn liền với thực tiễn. Văn bản “Sóng” của Xuân Quỳnh là nhịp sóng lòng được nhà thơ hóa
12
thân và dành tặng cho đời nhiều cảm xúc, là một văn bản trữ tình trong chương trình SGK Ngữ văn THPT lớp 12. Đây là “một câu chuyện cổ tích về tình yêu được nhà thơ kể lại”, là “đứa con tinh thần” thể hiện rõ nhất hồn thơ của nữ thi sĩ. Trong chương trình Ngữ văn THPT, khi tiếp cận văn bản “Sóng” – một văn bản trữ tình của một tác giả nổi tiếng được đánh giá là nét mới mẻ trong thi ca Việt Nam vì một nữ nhân làm thơ về tình yêu của phụ nữ, học sinh có thể thấy văn bản này hay, thấy thích những vần thơ lạ nhưng chưa hiểu về văn bản, hiểu về tình yêu mà Xuân Quỳnh muốn gửi gắm cũng như quan niệm nhân sinh mới mẻ chứa đựng trong đó. Điều gì đã làm cho văn bản “Sóng” có sức sống trường tồn trong gần thế kỉ qua? Nhìn nhận thực trạng này và với mục đích nâng cao chất lượng dạy học văn nói chung. Trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Đọc – hiểu văn bản “Sóng” (Xuân quỳnh) gắn liền với đời sống thực tiễn” với mục đích giúp học sinh tiếp nhận văn bản trữ tình và nhận thức được quan niệm nhân sinh mới mẻ. Chúng tôi muốn góp một phần nhỏ vào việc đổi mới dạy học với hi vọng tác phẩm văn học sẽ gần gũi, thiết thực và hứng thú hơn với học sinh trong trường THPT.
13
Chƣơng 2. CÁC BIỆN PHÁP DẠY HỌC ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN “SÓNG” (NGỮ VĂN 12) GẮN LIỀN VỚI ĐỜI SỐNG THỰC TIỄN 2.1. Đặc trƣng của văn bản trữ tình 2.1.1. Khái niệm văn bản trữ tình Thể loại văn học là dạng thức của tác phẩm văn học được hình thành và phát triển tương đối ổn định trong quá trình phát triển của lịch sử văn học thể hiện sự giống và khác nhau về cách tổ chức tác phẩm, về các loại đặc điểm của hiện tượng đời sống và tính chất của mối quan hệ giữa nhà văn và các loại hiện tượng đời sống ấy. Mỗi thể loại văn học lại có những đặc điểm riêng về nội dung và hình thức nhằm đáp ứng và phản ánh phù hợp với hiện tượng đời sống, quan điểm tư tưởng mà mà văn học muốn gửi gắm, phản ánh. Chính vì thế, sự phân chia thể loại là một yêu cầu không thể thiếu. Nhìn chung, đến nay còn rất nhiều sự tranh luận xung quanh vấn đề phân chia thể loại nhưng với giới hạn của đề tài về vấn đề dạy học đọc – hiểu văn học theo đặc trưng thể loại gắn liền với đời sống thực tiễn nên bài viết này chỉ đi sâu vào thể loại trữ tình mà cụ thể là văn bản trữ tình. Về nội dung, có thể thấy những tác phẩm trữ tình thường đi sâu vào khám phá thế giới nội tâm, cảm xúc bên trong – những cảm xúc rất đa dạng, mơ hồ. Đó có thể là niềm vui, nỗi buồn, sự chia li, hi vọng hay đau đớn… Đặc biệt, cảm xúc của nhân vật trữ tình trong những tác phẩm trữ tình thường bộc lộ một cách trực tiếp, có thể thiên về tình cảm cá nhân, có khi suy tư về nhân tình thế thái, về số phận con người, về thăng trầm xã hội, về cảm xúc thời đại…. Về hình thức, tác phẩm trữ tình thường có hình thức ngắn gọn mang tính chất tâm tình, giàu nhạc điệu, ngôn ngữ mang tính cách điệu hàm súc, tư tưởng được mã hóa vào những biểu tượng nghệ thuật đầy ý nghĩa.
14
Bài Thơ: Sóng (Xuân Quỳnh
Đề bài: Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh. Anh (chị) cảm nhận gì về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua hình tượng này?
Sóng được in trong tập Hoa dọc chiến hào, xuất bản năm 1968 của nữ nhà thơ tình nổi tiếng Xuân Quỳnh. Bài thơ nói về tâm trạng, tình yêu mãnh liệt của người con gái khi yêu. Hãy đến với bài thơ bằng nhạc điệu, bài thơ là âm điệu của một cõi lòng bị sóng khuấy động, đang rung lên đồng điệu đồng nhịp với sóng biển. Rạo rực đến xôn xao, khát khao đến khắc khoải, có một hình tượng sóng được vẽ lên bằng âm điệu, một âm điệu dập dồn, chìm nổi, miên man như hơi thở chạy suốt cả bài.
Sắc điệu trữ tình của bài thơ được gợi lên từ hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình xôn xao trong lòng người con gái đang yêu khi đứng trước biển ngắm nhìn những con sóng vô hồi, bất tận. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, đó là sự hoá thân của cái tôi trữ tình của nữ sĩ, lúc thì hoà nhập, lúc sự phân thân của “em” – người con gái đang yêu một cách say đắm. Sóng đã khơi gợi một hồn thơ phong phú, hồn nhiên, sôi nổi. Thông qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã có một cách nói rất hay để diễn tả tâm trạng của người con gái.
Thật tự nhiên và thơ mộng, con sóng nhớ bờ nên ngày đêm sóng vỗ, sóng thao thức với thời gian và đại dương. Cũng giống như bên đợi thuyền, thuyền nhớ bến, lúc nào lòng người con gái cũng bồi hồi nhớ thương:
Lòng em nhớ đến anhCả trong mơ còn thức
“Còn thức” tức là lúc nào em cũng nhìn thấy rõ hình bóng anh, ánh mắt anh… Một tình yêu cuồng nhiệt, say mê. Con sóng khao khát được đến bờ để được vỗ về, ve vuốt:
Hôn thật khẽ thật êmHôn êm đềm mãi mãi(Xuân Diệu)
Cũng như “em” muốn được gần bên anh, được hoà nhịp vào trong tình yêu với anh. Tình yêu của người con gái thật mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc trọn vẹn của lứa đôi.Người con gái đã bày tỏ lòng mình một cách chân thành, say đắm, thắm thiết. Chân thật và thuỷ chung là đặc tính của tình yêu:
Dẫu xuôi về phương Bắc…Hướng về anh một phương.
Sóng đã bày tỏ nỗi lòng của người con gái, khát vọng được sống hết mình trong một tình yêu đẹp, sắt son thuỷ chung. Người ta thường nói xuôi vào Nam, ngược ra Bắc; nhưng ở đây, trong nỗi nhớ chất đầy nhà thơ lại dùng ngược lại. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn không có giới hạn.
Cuối cùng sóng đã nói hộ nhà thơ nỗi khát vọng được sống trọn vẹn trong tình yêu. Tình yêu lứa đôi đẹp đẽ, nồng nàn như trăm ngàn con sóng nhỏ giữa đại dương mênh mông, muốn được hoà nhịp vào biển lớn của tình yêu cộng đồng:Cả bài thơ, nếu kể đến nhan đề, thì tác giả đã mười một lần nhắc đến từ “sóng”. Sóng vỗ như tâm tình xôn xao. Sóng cho ta nhiều ấn tượng về âm điệu của sóng, cũng như giọng điệu tâm tình, nhịp điệu của bài thơ. Thơ hồn nhiên, liền mạch về cảm xúc, trong sáng trong cách diễn đạt của tác giả. Sóng vỗ trên đại dương mênh mông cũng chính là sóng vỗ trong lòng người con gái.
Từ hình tượng “sóng” Xuân Quỳnh cho ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Với tình yêu chân thành, thắm thiết, người phụ nữ muốn sống hết mình, sống trọn vẹn trong tình yêu đẹp. Yêu là nhớ ngày mong đêm, người phụ nữ khát khao được hoà nhập gần gũi trong tình yêu ấy. Họ yêu thật nồng nàn, say đắm, thuỷ chung.
Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu.
Ôi con sóng nhớ bờNgày đêm không ngủ được
Đọc xong bài thơ Sóng ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước nhà.
Đây là bài phân tích nằm trong bài thi vào trường Đại học Đà Nẵng của thí sinh Hoàng Thuỳ Nhi, bài thi duy nhất được điểm 10 của khoá thi 2006 vào trường này.
Nhận xét của cán bộ chấm thi:– Người chấm 1: Thạc sĩ Lê An Vinh, giảng viên khoa Ngữ văn, ĐH Sư phạm Đà Nẵng: “Bài làm hoàn chỉnh cả 3 câu, nếu áp với đáp án của Bộ thì vẫn còn thiếu một vài ý nhỏ. Nhưng bù vào đó, là sự cảm thụ văn học rất tốt, tư duy mạch lạc, chất văn bay bổng, cảm xúc dồi dào, đặc biệt giàu sáng tạo.”– Người chấm 2: Thạc sĩ Lương Vĩnh An, giảng viên khoa Ngữ văn, ĐH Sư phạm Đà Nẵng: “So với đáp án của Bộ, bài làm chưa đạt 100%. Nhưng sự sáng tạo trong tư duy, ngôn ngữ, xúc cảm văn chương… thì thật đáng ngạc nhiên. Đọc câu một, nghĩ người làm học thuộc bài, nhưng càng đọc càng không tin đó là một bài làm của thí sinh trong thời hạn 180 phút! Chữ viết đẹp, câu cú rành mạch. Nếu có điểm 11, tôi sẽ cho bài viết điểm đó!”
Nguồn: http://vnexpress.net/Viet…/Xa-hoi/2006/08/3B9ECE13/
Lộ tòng kim dạ bạch,Nguyệt thị cố hương minh.
Cập nhật thông tin chi tiết về Tuyển Tập Các Đề Đọc Hiểu Sóng (Xuân Quỳnh) trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!