Bạn đang xem bài viết Úc Châu Trong Sứ Mạng Dân Chủ Hóa Việt Nam được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Chiều 17/9/2010, một buổi tiếp tân để chào mừng các phái đòan Tiểu bang và Lãnh thổ về tham dự Đại Hội đã được tổ chức tại dinh Toàn Quyền tiểu bang Victoria, do Tòan Quyền Giáo sư Tiến sĩ David De Ketser chủ toạ. Thủ hiến Victoria và lãnh tụ đảng Đối lập tiểu bang cũng đã cử đại diện tham dự. Ông Toàn Quyền đã bày tỏ lòng ngưỡng phục đến những đóng góp và thành công của cộng đồng người Việt tự do tại Úc châu.
Đại Hội đã chính thức khai mạc sáng 18/9/2010. Từ Quốc Nội hai vị lãnh đạo Phong Trào Dân Chủ: Hòa Thượng Thích Không Tánh và Linh mục Nguyễn Văn Lý (Khối 8406) đã gởi thơ chúc Đại Hội thành công để đẩy mạnh diễn trình giải thể chế độ cộng sản. Diễn văn của quan khách Úc gồm dân biểu Luke Donalleland đại diện Chính Phủ Lao Động Victoria, dân biểu Gorden Phillip đại diện đối lập, Thị Trưởng thành phố Dandenong, bà Jenny Tan đại diện Ủy Ban Sắc Tộc Sự Vụ. Ngòai ra còn có sự hiện diện của dân biểu Murray Thompson đảng Tự Do. Hai dân biểu Luke Donalleland và Murray Thompson là những người bạn luôn gắn bó với cộng đồng và với Phong Trào Đấu tranh cho Dân Chủ tại Việt Nam .
Ông Nguyễn Thế Phong chủ tịch CĐNVTD tại Úc châu đã chào đón, đáp lời quan khách và khai mạc Đại Hội. Trong bài phát biểu ông Phong đã nhấn mạnh đến việc cộng đồng chúng ta đang gặp nhiều thử thách do Nghị Quyết 36 của đảng Cộng sản Việt Nam đề ra. Sau đó trước Đại Hội ông Phong đã thuyết trình đề tài này: “Đối Phó với Nghị Quyết 36”.
Theo ông Phong trong 35 năm qua Việt cộng vẫn luôn luôn gởi người ra hải ngọai đánh phá gây chia rẽ để chúng ta không còn khả năng hướng đến việc hổ trợ phong trào đấu tranh cho tự do và dân chủ tại quê nhà. Sự trưởng thành trong đấu tranh chính trị với cộng sản chính là thành tựu to lớn nhất và do công sức của nhiều người thuộc nhiều thế hệ trong suốt 35 năm qua. Ông nhấn mạnh việc Việt cộng sử dụng NQ 36 để hướng dẫn và những khỏan tài chánh to lớn trợ cấp cho bọn cộng sản nằm vùng tăng cường họat động gây bất ổn cộng đồng.
Chúng ta nay là người Úc, mọi đe dọa và phá họai cộng đồng chúng ta là trực tiếp đe dọa và phá họai an ninh nước Úc. Do đó việc chống lại NQ 36 không phải chỉ là trách nhiệm của cộng đồng chúng ta mà là trách nhiệm chung của nước Úc. Ông kêu gọi cộng đồng chúng ta hãy tố cáo, hợp tác với chính phủ và các cơ quan công quyền để đập tan những hoạt động phạm pháp, đe dọa đến sự tự do và an nguy của người dân và nước Úc do nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam gây ra.
Thứ bẩy tuần này ngày 25/9/2010 tại Footscray Victoria, cộng đồng sẽ xuống đường đến từng cơ sở của cái gọi là “Hội Doanh Nhân Việt Nam – Australia” để lên án các thành phần trở cờ như Trần Bá Phúc, Phan văn Danh khởi động một cao trào tích cực chống NQ 36 của Việt cộng tại hải ngọai.
Ông Phong đã đề ra nhiều giải pháp và đã nhấn mạnh việc việc CĐNVTD hải ngọai cần tổ chức thành một cơ cấu thế giới thì mới có thể chống lại NQ36 một cách có hiệu quả.
Một cơ cấu CĐNVTD hải ngọai, một tiếng nói chung là đề tài thuyết trình kế tiếp của ông Võ Minh Cương “Nghị Hội Cộng Đồng Người Việt Hải Ngọai”. Ông Cương nhấn mạnh việc một cơ cấu thống nhất mới có thể tập trung được nội lực để hướng đến giải thể chế độ cộng sản tại Việt Nam . Đề tài này đã tạo ra khá nhiều tranh luận. Tựu chung mọi người đều đồng ý đây là một chuyện phải làm. Nhưng cần làm thế nào để cơ cấu này có thể làm việc hiệu quả vì vậy cần phải bàn luận kỹ lưỡng, phải thăm dò và tham khảo các Cộng đồng hải ngọai trước khi tiến hành tổ chức Nghị Hội.
Một số tham dự viên đại diện các Tổ Chức Chính Trị đóng góp rằng mọi diễn trình để hình thành cơ cấu này cần có sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị. Vì chính các tổ chức chính trị là một phần của cơ thể cộng đồng. Phần cơ thể này lại rất năng động và kinh nghiệm trong quá trình đấu tranh giải thể chế độ cộng sản. Một số tiểu bang, như Victoria, NSW,…, từ lâu đã xây dựng một cơ cấu Ban Chấp Hành làm việc với sự cố vấn của các Hội Đòan Tổ Chức đây là một mô hình rất khả thi có thể áp dụng vào cơ cấu CĐNVTD Hải Ngọai.
Đương nhiên khi chúng ta đã quyết tâm chống lại NQ36 và đẩy mạnh tiến trình dân chủ hóa Việt Nam thì chúng ta phải trực tiếp lên án và trực diện đối đầu bọn Việt gian Việt cộng. Và cũng vì đang sống tại Úc chúng ta cần phải có những cố vấn về luật pháp và phải có tài chánh để sẵn sàng khi bị bất cứ ai đưa ra tòa. Những điều nêu trên là đề tài của ông Lê Công và Đại Hội đã quyết định sẽ thành lập một Ủy Ban Cố Vấn Pháp Lý và Quỹ Pháp Lý cho Cộng Đồng.
Bài thuyết trình cuối cùng của luật sư Lưu Tường Quang về nhu cầu phải hòan tất một bản Nội Quy mới đáp ứng hiện tại và tạo một hướng đi cho tương lai. Luật sư Quang cho biết Bản Nội Quy hiện tại chưa có hai phần Sứ Mạng và Viễn Kiến , tòan Đại Hội đã đồng thuận thêm vào như sau:
Mission / Sứ mạng: Kết hợp các thế hệ người Việt tự do trong nỗ lực đóng góp vào xã hội đa văn hoá đa nguyên Úc Châu và đấu tranh cho một nền dân chủ pháp trị và nhân quyền tại Việt Nam .
Vision / Viễn Kiến: Hướng đến một xã hội định cư hài hòa Úc Châu và đất nước cội nguồn Việt Nam độc lập, dân chủ, tự do và phú cường.
Người Việt tại Úc châu luôn luôn hướng về Quê Cha Đất Tổ và vận động dân chủ hóa Việt Nam . CĐNVTD tại Úc châu chỉ chấp thuận một chính quyền Việt Nam dân chủ do dân bầu ra dưới sự giám sát Quốc tế.
Đề nghị nói trên khác với Nội Quy hiện nay về vai trò cố vấn và chỉ một (1) Chủ tịch Cộng đồng Liên Bang vừa mãn nhiệm. Đề nghị này giúp Nội Quy của Cộng Đồng tương tự hơn với các Tổ Chức Hiện Đại Tây Phương và để tránh việc các cựu Chủ tịch Cộng đồng Liên Bang vì một lý do gì không thể tiếp tục sứ mạng đã được cộng đồng giao phó mà theo Nội Quy đang sử dụng thì vẫn còn quyền lực.
Luật sư Lưu Tường Quang còn nhấn mạnh việc chúng ta cần thay đổi cách làm việc nặng văn hóa Việt Nam không còn thích hợp với thời đại hay môi trường sinh họat dân chủ tại Úc. Thí dụ trước đây khi có hai vị đồng phiếu thì vị lớn tuổi sẽ đắc cử. Luật sư Quang đề nghị ngược lại Nội Quy sẽ chính thức công nhận nếu hai vị đồng phiếu thì vị nhỏ tuổi sẽ đắc cử và nếu hai vị cùng tuổi thì vị thuộc phái nữ sẽ đắc cử.
Các thay đổi đều gây nhiều bàn thảo và tranh luận vì thế Đại Hội đã quyết định giao cho CĐNVTD tại NSW bàn thảo và sọan lại.
Phần cuối của Đại Hội là Ban Chấp Hành tiểu bang và lãnh thổ bầu ra một Ban Chấp Hành Liên Bang. Kết quả Đại Hội đã tín nhiệm một Ban Chấp Hành rất trẻ trung nhưng đầy kinh nghiệm cộng đồng và đấu tranh. Ở độ tuổi dứơi 50 có hai ông Ông Nguyễn Thế Phong (VIC) Chủ tịch và Ông Lê Công (ACT) Phó Chủ tịch Ngoại Vụ. Ở độ tuổi dưới 40 có Luật sư Võ Trí Dũng (NSW) Phó Chủ tịch Nội Vụ và Cô Trịnh Mailan (VIC) Tổng Thư ký. Vừa qua 20 tuổi có Cô Kim Sunhi ( VIC ) Thủ Quỹ . Tính ra trung bình quý vị Tân Ban Chấp Hành chỉ ở khỏang 35 tuổi cùng tuổi với 35 Năm Người Việt Định Cư tại Úc để đủ năng lực và khả năng tiếp nhận sứ mệnh dân chủ hóa Việt Nam.
Melbourne, Úc Đại Lợi
22/09/2010
© Nguyễn Quang Duy
© Đàn Chim Việt
Quốc Tịch – Đại Sứ Quán Việt Nam Tại Pháp
THỦ TỤC ĐĂNG KÝ XÁC MINH QUỐC TỊCH VIỆT NAM
Đối tượng : Người Việt Nam định cư tại Pháp (hoặc tại các nước do ĐSQVN tại Pháp kiêm nhiệm) chưa mất quốc tịch Việt Nam theo pháp luật Việt Nam mà không có giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 11 của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, nếu có yêu cầu xác định quốc tịch Việt Nam và cấp hộ chiếu Việt Nam thì đăng ký với Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp theo trình tự và thủ tục sau đây:
Hồ sơ : nộp trực tiếp tại ĐSQ theo lịch hẹn trước vào các buổi sáng thứ 2, 4 và chiều thứ 5, gồm có :
Tờ khai đăng ký xác định quốc tịch và cấp hộ chiếu Việt Nam theo mẫu (Tờ khai xác nhận có quốc tịch Việt Nam M03-LS);
Sơ yếu lý lịch tự thuật theo mẫu có dán ảnh (SYLL-M01-LS)
Bản sao một trong các giấy tờ chứng minh về nhân thân đang có giá trị sử dụng (hộ chiếu, thẻ căn cước, thẻ tạm trú, …);
Một hoặc các giấy tờ để làm căn cứ xác định quốc tịch Việt Nam (bản sao và bản chính để đối chiếu) bao gồm:
Giấy tờ về hộ tịch, quốc tịch, hộ khẩu, căn cước hoặc giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp;
Các giấy tờ khác do Việt Nam cấp trong đó có ghi chú quốc tịch Việt Nam và có ảnh của người yêu cầu.
Tiếp nhận và xử lý hồ sơ: Đại sứ quán tiếp nhận và phỏng vấn trực tiếp người nộp hồ sơ theo lich hẹn vào các buổi sáng thứ hai, thứ tư, thứ sáu từ 9h30 đến 12h. Hồ sơ của người yêu cầu sẽ được gửi về về trong nước để xác minh theo quy định. Đại sứ quán sẽ thông báo kết quả xác minh (qua điện thoại hoặc email) sau khi nhận được trả lời của các cơ quan chức năng ở trong nước.
Đặt lịch hẹn trực tuyến
LIÊN HỆ:
Điện thoại: 01 44 14 64 00 Email: [email protected] Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp/Ambassade du Vietnam Bộ phận Quốc tịch – Hộ chiếu 61, rue de Miromesnil 75008 PARIS
Luật An Ninh Mạng Bỏ Quy Định Đặt Máy Chủ Tại Việt Nam
(Thethaovanhoa.vn) – Ngày 12/6, Quốc hội đã thông qua dự thảo Luật An ninh mạng. Đây là dự luật quan trọng, được đại biểu Quốc hội và đông đảo cử tri quan tâm.
Trao đổi với phóng viên sáng 13/6, ông Nguyễn Thanh Hồng, Ủy viên thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội, chỉ rõ mục tiêu lớn nhất của Luật An ninh mạng vừa được Quốc hội thông qua là xây dựng không gian mạng lành mạnh, góp phần phát triển kinh tế, đảm bảo quốc phòng an ninh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, cơ quan trong và ngoài nước.
Vì vậy, trong Luật có nhiều quy định tập trung vào hoạt động phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi xâm phạm không gian mạng nhằm mục đích xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Ủy viên thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Nguyễn Thanh Hồng cho biết, trong quá trình thẩm tra, Ủy ban rất quan tâm đến việc làm thế nào thiết lập cơ chế pháp lý, bên cạnh Luật An toàn thông tin mạng, để xây dựng môi trường không gian mạng lành mạnh, là cơ hội phát triển kinh tế, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, nhất là đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội trên không gian mạng.
Quốc hội biểu quyết thông qua Luật An ninh mạng với tỷ lệ tán thành 86,86%. (Ảnh: Dương Giang/TTXVN)
Ủy viên thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Nguyễn Thanh Hồng khẳng định khi Luật ra đời, không có việc kiểm tra, kiểm soát các hệ thống thông tin trên không gian mạng.
Luật chỉ tập trung vào hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia. Đó là hệ thống thông tin quan trọng về quân sự, quốc phòng, an ninh, đảm bảo hoạt động điều hành của Chính phủ, các bộ, ngành trên lĩnh vực phát triển kinh tế- xã hội.
“Đây là vấn đề được dư luận rất quan tâm và có nhiều ý kiến trái chiều. Một số diễn đàn trên mạng và trong dư luận nhân dân còn nhầm lẫn về chuyện dự án luật này khi được Quốc hội thông qua sẽ xâm phạm quyền tự do của cá nhân, tổ chức, của doanh nghiệp,” ông Nguyễn Thanh Hồng nêu.
Đối với vấn đề đặt máy chủ lưu trữ dữ liệu người dùng tại Việt Nam, ông Nguyễn Thanh Hồng nhấn mạnh, Luật An ninh mạng khi được thông qua không còn quy định này.
Bên cạnh đó, việc quy định đặt máy chủ và lưu trữ dữ liệu tại Việt Nam không phải lần đầu tiên được quy định trong Luật này. Nghị định số 72/2013/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định các tổ chức, doanh nghiệp thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp, thiết lập mạng xã hội, cung cấp dịch vụ nội dung thông tin trên mạng viễn thông di động, cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử phải “có ít nhất 1 hệ thống máy chủ đặt tại Việt Nam đáp ứng việc thanh tra, kiểm tra, lưu trữ, cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và giải quyết khiếu nại của khách hàng.”
Tuy nhiên, trên cơ sở tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, cử tri, tổ chức chính trị, tổ chức nghề nghiệp, các chuyên gia, nhà khoa học, dự thảo Luật đã bỏ quy định đặt máy chủ tại Việt Nam.
Về việc lưu trữ dữ liệu người dùng tại Việt Nam, Ủy viên thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Nguyễn Thanh Hồng đánh giá, quy định này là cần thiết nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp.
Dẫn chứng việc thời gian qua, Facebook đã cung cấp cho Công ty Cambridge Analytica dữ liệu của 87 triệu người dùng, trong đó có gần 500 nghìn dữ liệu người dùng tại Việt Nam để phục vụ mục đích chính trị, ông Nguyễn Thanh Hồng chỉ rõ cần có giải pháp phòng ngừa nhằm tránh việc một số doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên mạng xã hội, sử dụng thông tin của cá nhân nhằm mục đích không hợp pháp, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp.
Có ý kiến cho rằng việc thực hiện Luật An ninh mạng sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin, ông Nguyễn Thanh Hồng cho rằng, nhận định này không chính xác.
Mục tiêu của Luật là phát hiện hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng, có giải pháp phòng ngừa việc xâm nhập tấn công vào các hệ thống thông tin của Nhà nước, doanh nghiệp, thậm chí thông tin cá nhân trên các trang mạng xã hội.
Thời gian qua, một số tổ chức, cá nhân nước ngoài tấn công vào hệ thống mạng lan truyền chương trình virus độc, chiếm giữ dữ liệu của cá nhân, tổ chức, yêu cầu cá nhân tổ chức trả tiền mới khôi phục lại các dữ liệu.
“Đây là minh họa rõ ràng cho thấy, Luật An ninh mạng ra đời góp phần bảo đảm sự an toàn cho các hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia, thiết lập cơ chế bảo vệ người dùng khi có sự cố xảy ra”, ông Nguyễn Thanh Hồng nêu.
Luật An ninh mạng vừa được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 5 ngày 12/6 quy định nhiều hành vi bị cấm trên không gian mạng.
Luật An Ninh Mạng: Google, Facebook Phải Đặt Máy Chủ Tại Việt Nam?
Mấy hôm nay, cư dân mạng đang rất quan tâm đến câu chuyện “Liệu các ông lớn như Google, Facebook có phải rút khỏi thị trường Việt Nam khi mà hoạt động chưa có Giấy phép, chưa có Văn phòng đại diện không?”
Nhiều bạn phản đối điều khoản quy định buộc các ông lớn này phải có Giấy phép hoạt động, đặt cơ quan đại diện và máy chủ quản lý dữ liệu người dùng Việt Nam trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…tại Dự thảo Luật an ninh mạng:
…
5. Các doanh nghiệp nước ngoài khi cung cấp dịch vụ viễn thông, internet tại Việt Nam tuân thủ pháp luật, tôn trọng chủ quyền, lợi ích và an ninh quốc gia Việt Nam và lợi ích của người sử dụng, có giấy phép hoạt động, đặt cơ quan đại diện và máy chủ quản lý dữ liệu người sử dụng Việt Nam trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo mật thông tin người dùng và thông tin tài khoản của người dùng; xử lý nghiêm các hành vi sai phạm theo quy định của pháp luật.
Với rất nhiều lý do, nhưng mình biết lý do chính là các bạn “không thể sống thiếu” Facebook, Google – là các ông lớn mà Dự luật này đang nhắm đến.
Bởi căn cứ điều khoản trên, các ông lớn sẽ không được phép hoạt động tại Việt Nam nếu không tuân thủ pháp luật nước này.
Mọi điều luật được ban hành đều có lý do nhất định, lý do chính là bảo vệ an ninh quốc gia, rồi đến bảo vệ người dùng (xét lợi ích chung của đất nước mới tính đến lợi ích riêng của cá nhân), vì vậy các bạn khoan hãy vội phản đối mà cần xét đến những tình huống thực tế sau:
Khi bạn sử dụng gmail, facebook, nhỡ họ làm lộ thông tin bảo mật của bạn, vậy thì bạn sẽ kiện họ ở đâu? Kiện trong nước không được rồi bạn ra nước ngoài, nhưng là nước nào để kiện về tội vi phạm bí mật thông tin cá nhân đây để đòi lại quyền lợi cho mình?
Hoặc khi thông qua các công cụ chat chit, email các thứ của Google, Facebook, bạn bị lừa đảo, và mất một số tiền lớn bởi cá nhân đó là người nước ngoài, vậy bạn sẽ nhờ ai giải quyết? Tòa án Việt Nam có giải quyết không?
…
Và có rất nhiều trường hợp mà người dùng có thể bị thiệt hại, cần có hành lang pháp lý cụ thể, nhất là nước ta trong giai đoạn hội nhập, mở cửa cho các doanh nghiệp nước ngoài vào thị trường Việt Nam, chúng ta cần thiết lập sân chơi chung cho tất cả đều bình đẳng, có như vậy, mới tăng cơ hội cạnh tranh và hơn hết là bảo vệ quyền lợi người dùng.
Thử hỏi, cùng là một trang tìm kiếm nhưng trang tìm kiếm do người Việt tạo ra buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt pháp luật Việt Nam, nên sẽ gặp rất nhiều rào cản ban đầu để hình thành và sau đó là phát triển, trong khi đó, trang tìm kiếm của nước ngoài lại không buộc làm điều đó vì không có hành lang pháp lý buộc họ phải làm điều đó, vậy thì đâu là sự công bằng?
Tất nhiên, kẻ không bị trói chân sẽ thỏa sức để phát triển, nhưng phát triển như thế nào, theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực thì không thể biết được, còn kẻ bị trói chân quá chặt thì chắc chắn sẽ khó phát triển.
Vậy nên, theo mình, điều khoản nêu trên tại Dự thảo Luật an ninh mạng là hoàn toàn hợp lý, vừa đảm bảo công bằng, bình đẳng giữa các doanh nghiệp hoạt động trong cùng lĩnh vực viễn thông, internet, vừa đảm bảo an ninh quốc gia và người tiêu dùng.
Dự Luật An Ninh Mạng Sửa Quy Định Đặt Máy Chủ Ở Việt Nam
Chiều 10/1, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự thảo Luật An ninh mạng. Theo khoản 4 điều 27 của dự thảo, các doanh nghiệp nước ngoài khi cung cấp dịch vụ viễn thông, internet tại Việt Nam phải t uân thủ pháp luật, tôn trọng chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia Việt Nam; phải đ ặt trụ sở hoặc cơ quan đại diện trên lãnh thổ Việt Nam khi có từ 10.000 người Việt Nam sử dụng trở lên hoặc khi có yêu cầu của Chính phủ.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nước ngoài phải l ưu trữ tại Việt Nam dữ liệu người sử dụng Việt Nam và các dữ liệu quan trọng khác được thu thập, tạo ra từ hoạt động khai thác cơ sở hạ tầng không gian mạng quốc gia của Việt Nam…
“Điểm c khoản 4 điều 27 đã được sửa lại. Trước đây quy định đặt máy chủ ở Việt Nam, nhưng có ý kiến nói rằng máy chủ còn hoạt động nhiều thứ, vì vậy dự luật không quan tâm đến máy chủ nữa mà chỉ quan tâm đến dữ liệu. Các nhà khoa học cũng đã hội thảo và đi đến kết luận đây là bản chất của vấn đề”, Thượng tướng, Bộ trưởng Công an Tô Lâm thông tin.
Kiểm soát thông tin từ Việt Nam
Theo Thứ trưởng Thông tin Truyền thông Nguyễn Thành Hưng, trong nghị định 72 về q uản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng đã có yêu cầu đặt máy chủ, tuy nhiên “chuyện này chưa thành tiền lệ trên thế giới nên còn tranh cãi”.
Ông Hưng cho rằng: “Thời buổi an ninh, an toàn thông tin mạng như hiện nay, phải lưu trữ thông tin trong thời gian nhất định để khi có vi phạm pháp luật thì cơ quan điều tra trích xuất dữ liệu để xử lý”.
Đại diện Bộ Khoa học Công nghệ cũng đồng tình với Bộ Công an về nguyên tắc kiểm soát thông tin từ Việt Nam. Theo vị này, nếu ai đó tung thông tin từ Việt Nam nhưng máy chủ đặt ở nước ngoài sẽ khó kiểm soát. “Về nguyên lý, thông tin từ Việt Nam đi ra mình phải kiểm soát. Còn nếu đặt ở nước ngoài thì rất khó”, ông nói.
Thiếu tướng Đinh Thế Cường – Cục trưởng Cục công nghệ Thông tin (Bộ Quốc phòng) phân tích, về kỹ thuật, thông tin đi vào hay đi ra một quốc gia đều có thể sao lưu, ghi lại. Việt Nam cần thông tin quốc tế vào và cũng cần chuyển tải thông tin chính thống ra nước ngoài. Tuy nhiên, để tránh tình trạng vi phạm an ninh thì cơ quan chức năng cần có chứng cứ để điều tra, kiểm soát khi cần thiết.
“Việc đặt máy chủ bắt buộc trong nước hay không không cần thiết mà phải làm sao kiểm soát được tất cả thông tin đi vào, đi ra. Vấn đề này Chính phủ có yêu cầu giao Bộ Quốc phòng chỉ đạo xây dựng tường lửa quốc gia, cùng Bộ Công an quản lý. Như vậy sau này hoàn toàn có thể kiểm soát được thông tin”, ông Cường cho hay.
Dữ liệu người dùng mạng xã hội là tài sản quốc gia
Chủ nhiệm Uỷ ban Quốc phòng An ninh Võ Trọng Việt cho hay, quy định về việc đặt cơ quan đại diện, l ưu trữ tại Việt Nam dữ liệu người sử dụng Việt Nam còn có ý kiến khác nhau. C ác doanh nghiệp không muốn vì sợ rườm rà về thuế; còn cơ quan chức năng đặt vấn đề nếu không quản lý thì sẽ có hiểm hoạ về an ninh.
“Lo ngại của cơ quan an ninh và các doanh nghiệp đều chính đáng. Nhưng cơ sở pháp lý nào để công an đề xuất như vậy? Phải kiểm tra trước hay sau những thông tin quan trọng về an ninh quốc gia”, ông Việt đặt câu hỏi.
“Máy chủ hay không máy chủ không quan trọng, mà thông tin phải ở Việt Nam và các cơ quan quản lý của Việt Nam phải quản lý, nghĩa là quản lý thông tin do người Việt Nam sử dụng ở Việt Nam”, Bộ trưởng Công an nói.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân bày tỏ băn khoăn, “quy định lưu trữ dữ liệu tại Việt Nam người sử dụng Việt Nam có khả thi không, khi kho dữ liệu ở không gian mạng. Nếu họ chuyển ra nước ngoài thì làm sao mình biết?”
Giải trình vấn đề này, Bộ trưởng Tô Lâm cho hay, về nguyên tắc, dữ liệu của Việt Nam thì phải ở Việt Nam, “đấy là yêu cầu, còn cách thức tổ chức như thế nào thì sau này sẽ bàn”.
Trung tướng Hoàng Phước Thuận (Cục trưởng An ninh mạng, Bộ Công an) nói: “Cơ sở dữ liệu người dùng Việt Nam phải đặt tại Việt Nam và Cục an toàn thông tin mạng đủ khả năng kiểm soát”.
Theo ông, nếu có luật thì các nhà cung cấp dịch vụ xuyên biên giới buộc phải thực hiện theo luật và cung cấp các hệ thống để Việt Nam kiểm soát được.
“Cơ sở dữ liệu người dùng Việt Nam là tài sản quốc gia rất lớn, nếu chúng ta không kiểm soát được thì nó có thể bị sử dụng để tấn công vào các mục tiêu khác, có thể sử dụng để chiếm đoạt bí mật, không những của cá nhân đó mà bắc cầu tấn công vào hệ thống thông tin quan trọng của quốc gia. Vì vậy, việc bảo vệ hệ thống cơ sở dữ liệu người dùng rất cần thiết”, ông Thuận nhấn mạnh.
Ông cho rằng, với hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý như hiện nay thì “chắc chắn chúng ta không đấu tranh được gì, không bảo vệ được bí mật của quốc gia”.
Dự luật phải đồng nhất với cam kết thương mại quốc tế
28 cơ quan bảo vệ dữ liệu quốc gia châu Âu đã thống nhất không cho phép Facebook sử dụng ứng dụng WhatsApp để truyền dữ liệu 36 triệu người dù ng WhatsApp lên Facebook…
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cũng cho rằng, nếu đặt vấn đề ban hành luật rồi không còn xảy ra các trường hợp thông tin xấu độc nữa thì “không khả thi”. Tuy nhiên, bà đề nghị cơ quan soạn thảo phải nghiên cứu “làm sao để Việt Nam không bị quy vào danh sách các nước cấm đoán internet”, và nội dung của Luật đồng nhất với các cam kết thương mại quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Hoàng Thùy
Đường Lối Cách Mạng Việt Nam Trong Giai Đoạn Mới
Đặc điểm nước ta sau tháng 7 – 1954
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ do Đảng lãnh đạo đã giành được thắng lợi, song sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước vẫn chưa hoàn thành. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, song miền Nam vẫn còn dưới ách thống trị của thực dân và tay sai. Đất nước tạm thời bị chia làm hai miền.
Ở miền Bắc, mặc dù thực dân Pháp rất ngoan cố, nhưng do tinh thần đấu tranh kiên quyết của nhân dân ta, nên đến ngày 10-10-1954 tên lính Pháp cuối cùng đã rút khỏi Hà Nội và ngày 16-5-1955, toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp đã phải rút khỏi miền Bắc. Ngay sau khi hòa bình lập lại, nhân dân miền Bắc khẩn trương khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và tiến hành thực hiện các nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhằm tạo tiền đề đưa miền Bắc từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Ở miền Nam, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.
Để thực hiện âm mưu nói trên, trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, ngày 7-7-1954, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về Sài Gòn làm Thủ tướng Chính phủ bù nhìn thay Bửu Lộc. Ngày 17-7-1955, theo chỉ đạo của Mỹ, Diệm tuyên bố không hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước và ngày 23-10-1955 đã tổ chức cái gọi là “trưng cầu dân ý” để phế truất Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống.
Sau khi dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, Mỹ – Diệm đã liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét để bình định miền Nam, áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, chia cắt lâu dài đất nước ta. Thực chất, đây là một cuộc chiến tranh đơn phương đẫm máu chống lại nhân dân miền Nam trong tay không có vũ khí. Với chính sách “tố cộng”, “diệt cộng”, loại cộng sản ra ngoài vòng pháp luật để trừng trị, và với khẩu hiệu “thà giết nhầm hơn bỏ sót”, chúng thẳng tay đàn áp tất cả các lực lượng chống đối. Chỉ tính đến cuối năm 1955, hàng chục vạn cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng đã bị bắt và bị giết hại.
Đứng trước những biến đổi phức tạp nêu trên, lịch sử lại đặt cho Đảng ta một yêu cầu bức thiết là phải vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cách mạng Việt Nam tiến lên phù hợp với tình hình mới của đất nước và phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại.
Xuất phát từ việc nhận thức sâu sắc tình hình thế giới và đặc điểm cơ bản của tình hình đất nước sau tháng 7-1954, trải nhiều hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, chủ trương chiến lược cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới của Đảng đã từng bước hình thành.
Chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) Chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hộiSau khi hòa bình được lập lại, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Tuy nhiên, miền Bắc bước vào khôi phục kinh tế trong điều kiện có nhiều khó khăn. 143.000 ha ruộng đất bị bỏ hoang, hàng trăm ngàn gia đình không có nhà ở, hàng chục vạn người không có việc làm, nhiều tệ nạn do xã hội cũ để lại còn hoành hành, phần lớn xí nghiệp ngừng hoạt động, hàng hoá khan hiếm. Nhiệm vụ trước mắt là tiếp quản những vùng giải phóng theo quy định của Hiệp định Giơnevơ. Việc tiếp quản đó bước đầu thuận lợi, nhân dân ta đã làm chủ hoàn toàn Thủ đô từ ngày 10-10-1954. Hướng đấu tranh chủ yếu của nhân dân miền Bắc thời kỳ này là chống âm mưu của địch dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào ta di cư vào Nam. Trong hoạt động này, do chậm phát hiện và chưa thấy hết âm mưu thâm độc của Mỹ – Pháp, nên gần một triệu người miền Bắc đã bị cưỡng ép di cư vào Nam.
Xuất phát từ tình hình trên, Đảng chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng từng bước được hình thành và phát triển.
Tháng 9-1954, Bộ Chính trị đã đề ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của miền Bắc là hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, trước hết là phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp, ổn định xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tăng cường và mở rộng hoạt động quan hệ quốc tế… để sớm đưa miền Bắc trở lại bình thường sau chín năm chiến tranh.
Hội nghị lần thứ bảy tháng 3-1955 và lần thứ tám tháng 8-1955 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) đã nhận định: Mỹ và tay sai đã hất cẳng Pháp ở miền Nam, công khai lập nhà nước riêng chống phá Hiệp định Giơnevơ, đàn áp phong trào cách mạng. Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sứccủng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
Để củng cố miền Bắc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ, trước hết cần hoàn thành cải cách ruộng đất, chia ruộng đất cho nông dân, xóa bỏ chế độ sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ; đưa miền Bắc tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội; kiện toàn lãnh đạo các cấp và củng cố Mặt trận Dân tộc thống nhất.
Hội nghị đề ra kế hoạch 3 năm (1955-1957) với những mục tiêu cụ thể:
– Khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, trên cơ sở đó phát triển sản xuất, nhằm giảm bớt khó khăn cho nhân dân. Phấn đấu phục hồi mức sản xuất năm 1939 – năm có mức sản xuất cao nhất ở Việt Nam thời Pháp thuộc.
– Chủ trương khôi phục nông nghiệp là trọng tâm. Ban hành nhiều chính sách khuyến nông.
– Đề ra chính sách khôi phục tiểu thủ công nghiệp và công thương nghiệp. Ban hành nhiều chính sách bảo hộ cho các xí nghiệp công, tư thương nghiệp được phát triển sản xuất để phục vụ dân sinh; không vội vàng thủ tiêu những công thương nghiệp tư nhân, nếu thấy có lợi cho nền kinh tế. Coi trọng thành phần kinh tế quốc doanh, tạo điều kiện cho thành phần này dần dần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Tháng 12-1957, Hội nghị lần thứ mười ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đánh giá thắng lợi về khôi phục kinh tế và đề ra nhiệm vụ soạn thảo đường lối cách mạng trong giai đoạn mới. Đến tháng 11-1958, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười bốn đề ra kế hoạch ba năm phát triển kinh tế – văn hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh (1958-1960).
Hội nghị xác định cải tạo kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và buôn bán nhỏ, tư bản tư doanh, chuyển sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất thành sở hữu tập thể xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức toàn dân và tập thể. Lấy cải tạo làm trọng tâm nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố chế độ dân chủ nhân dân. Xây dựng, củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Tháng 4-1959, Hội nghị lần thứ mười sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) thông qua hai nghị quyết quan trọng: Nghị quyết về vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp và Nghị quyết về vấn đề cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.
Về hợp tác hóa nông nghiệp, Hội nghị xác định hình thức và bước đi của hợp tác xã là: hợp tác hóa đi trước cơ giới hóa, do vậy hợp tác hóa phải đi đôi với thủy lợi hóa và tổ chức lại lao động, để phát huy tính ưu việt và sức mạnh của tập thể. Hội nghị chỉ rõ ba nguyên tắc cần được quán triệt trong suốt quá trình xây dựng hợp tác xã là: tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ.
Về cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, Hội nghị chủ trương cải tạo hòa bình đối với giai cấp tư sản. Về chính trị, vẫn coi giai cấp tư sản là thành viên của Mặt trận Tổ quốc, về kinh tế không tịch thu tư liệu sản xuất của họ, mà dùng chính sách chuộc lại, thông qua hình thức công tư hợp doanh, sắp xếp công việc cho người tư sản trong xí nghiệp, dần dần cải tạo họ thành người lao động.
Chủ trương đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội đã tạo nên những chuyển biến cách mạng trong nền kinh tế và xã hội ở miền Bắc nước ta. Miền Bắc được củng cố, từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương ổn định, vững mạnh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Chủ trương tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền NamNắm vững âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ ở Việt Nam và Đông Dương, nên ngay trước ngày ký Hiệp định Giơnevơ, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) từ ngày 15 đến ngày 17-7-1954, đã chỉ rõ: “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ”.
Ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào và cán bộ chiến sĩ cả nước: “Trung Nam Bắc đều là bờ cõi của ta, nước ta nhất định sẽ thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng” 2.
Về cách mạng miền Nam, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9-1954 nêu rõ: Đế quốc Mỹ và tay sai đang mưu tính, phá hoại Hiệp định Giơnevơ nhằm chia cắt lâu dài Việt Nam. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam phải chuyển từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị. Nhiệm vụ của Đảng ở miền Nam trong giai đoạn mới là: ” lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến, củng cố hòa bình, thực hiện tự do dân chủ,… cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập. Đồng thời phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống những hành động khủng bố, đàn áp, phá cơ sở của ta, bắt bớ cán bộ ta và quần chúng cách mạng, chống nhữnghành động tiến công của địch, ngụy, giữ lấy quyền lợi quần chúng đã giành được trong thời kỳ kháng chiến, nhất là ở những vùng căn cứ địa và vùng du kích cũ của ta“.
Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị về tình hình và công tác của các đảng bộ miền Nam, tháng 10-1954, Xứ ủy Nam Bộ được thành lập, do Lê Duẩn, ủy viên Bộ Chính trị làm Bí thư.
Bản Đường lối vạch rõ ngày 20-7-1956 đã không có tổng tuyển cử như Hiệp định Giơnevơ quy định. Chế độ thống trị của Mỹ, Diệm ở miền Nam lúc bấy giờ là một chế độ độc tài, phátxít, hiếu chiến. Để chống Mỹ-Diệm, nhân dân miền Nam chỉ có con đường cứu nước và tự cứu mình là con đường cách mạng. Ngoài con đường cách mạng không có một con đường khác.
Mục đích của cách mạng miền Nam là phải đánh đổ chính quyền độc tài phátxít Mỹ – Diệm, thực hiện một chính quyền liên hiệp dân chủ có tính chất dân tộc, độc lập, để giải phóng nhân dân miền Nam ra khỏi ách đế quốc phong kiến độc tài phátxít Mỹ – Diệm để cùng với toàn quốc thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập dân tộc 2.
Đường lối cách mạng miền Nam là một trong những văn kiện quan trọng, góp phần vào sự hình thành đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam của Đảng.
Tháng 12-1957, tại Hội nghị lần thứ mười ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, nước ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ cách mạng nói trên đều quan trọng, coi nhẹ một nhiệm vụ nào cũng đều sai lầm.
Tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười lăm. Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam; Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp đấu tranh chính trị và vũ trang để đánh đổ chính quyền thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam.
Ban Chấp hành Trung ương cũng nêu rõ, đế quốc Mỹ là đế quốc hiếu chiến cho nên cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang lâu dài và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta.
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương cũng nêu rõ cần tăng cường công tác Mặt trận để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân; củng cố, xây dựng Đảng bộ miền Nam thật vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để đủ sức lãnh đạo trực tiếp cách mạng miền Nam.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ mười lăm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã đáp ứng đúng nhu cầu của lịch sử, mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh cách mạng độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960)Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960. Tới dự có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước. Gần 20 đoàn đại biểu quốc tế đến dự Đại hội.
Trong diễn văn khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”.
Về đường lối chiến lược cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới:
Trên cơ sở phân tích tình hình và đặc điểm nước ta, Đại hội xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới:
Một là, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Cách mạng ở miền Bắc và cách mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, song trước mắt đều hướng vào mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất nước.
Đại hội còn xác định vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi miền. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là nhiệm vụ thiêng liêng của nhân dân cả nước ta. Đó là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Đại hội chủ trương kiên quyết giữ vững đường lối hòa bình để thống nhất nước nhà, vì chủ trương phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân cả nước ta cũng như của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Song ta phải luôn luôn đề cao cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đứng lên đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc. Lịch sử đã chứng minh rằng, đường lối trên phản ánh đúng quy luật vận động của cách mạng ở từng miền và chung của cả nước trong giai đoạn 1954-1975. Nó thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ của Đảng ta trong việc tìm ra một đường lối phù hợp với hoàn cảnh mới. Như vậy, một Đảng thống nhất lãnh đạo một đất nước tạm thời bị chia cắt, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền là nét độc đáo và đặc điểm lớn nhất của cách mạng nước ta.
Về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
Xuất phát từ đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội xác định rằng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt. Đó là quá trình đấu tranh gay go giữa hai con đường, con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật nhằm đưa miền Bắc từ một nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội về kinh tế được xem là hai mặt của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản xuất, hai mặt này có quan hệ mật thiết, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển.
Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được xem là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Cùng với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về kinh tế, phải tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa, nhằm thay đổi cơ bản đời sống tư tưởng, tinh thần và văn hóa của toàn xã hội phù hợp với chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện mục tiêu nói trên, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh; thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật, biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến.
Thành công của Đại hội là cơ sở cho toàn Đảng, toàn dân đoàn kết chặt chẽ thành một khối, là nguồn sức mạnh cho chúng ta sáng tạo, chúng ta xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.
Cập nhật thông tin chi tiết về Úc Châu Trong Sứ Mạng Dân Chủ Hóa Việt Nam trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!