Xu Hướng 3/2023 # Xây Dựng Văn Hóa, Con Người Việt Nam Trong Nghị Quyết Trung Ương 9 (Khóa Xi) # Top 4 View | Bac.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Xây Dựng Văn Hóa, Con Người Việt Nam Trong Nghị Quyết Trung Ương 9 (Khóa Xi) # Top 4 View

Bạn đang xem bài viết Xây Dựng Văn Hóa, Con Người Việt Nam Trong Nghị Quyết Trung Ương 9 (Khóa Xi) được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) – một Nghị quyết có ý nghĩa như chiến lược văn hóa của Đảng trong thời kỳ đầu đổi mới, tại Hội nghị lần thứ chín, ngày 09/6/2014, Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) đã ra Nghị quyết về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

So với tiêu đề Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) thì tại Nghị quyết này, xây dựng con người Việt Namđược đưa lên tiêu đề; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện là nhiệm vụ đầu tiên trong 6 nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa. Đây là nét đặc sắc của Nghị quyết Trung ương 9 về văn hóa, là kết quả trực tiếp của thành tựu phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về văn hóa, về vị trí, vai trò của văn hóa trong thời kỳ mới. Để nhận thức sâu sắc sự phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về văn hoá, chúng ta cùng nhau tìm hiểu một số Nghị quyết của Đảng về văn hoá trong hơn 70 năm qua.

Đầu năm 1943, thời điểm Đảng lãnh đạo nhân dân ta chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, trong Đề cương văn hóa Việt Nam 1943, Đảng ta quan niệm, văn hóa bao gồm: Tư tưởng, học thuật (khoa học) và nghệ thuật (văn học, nghệ thuật) với vai trò: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Cũng vào năm 1943, trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, Hồ Chí Minh đã viết tập thơ Nhật ký trong tù. Cuối tập thơ này, trong mục đọc sách, Bác Hồ đã viết ý nghĩa của văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng, toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.

Phan Ngọc Bình @ 09:24 25/08/2015 Số lượt xem: 457

Nghị Quyết Trung Ương 9 (Khóa Xi) Với Vấn Đề Xây Dựng Lòng Yêu Nước Của Con Người Việt Nam Trong Thời Kỳ Mới

Hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), đã thảo luận, quyết định ban hành Nghị quyết “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Trong đó, đặt lên hàng đầu việc xây dựng lòng yêu nước của con người Việt Nam trong thời kỳ mới.

1. Con người, đạo đức và nhân cách là cốt lõi của văn hóa.

Văn hóa nói lên trình độ phát triển, sức sống và nguồn trữ năng, nhất là trữ năng tinh thần của một dân tộc, một đất nước; là diện mạo của quốc gia, được ví như tấm căn cước để dân tộc đến với thế giới nhân loại và hội nhập quốc tế. Con người là chủ thể sáng tạo văn hóa, vừa sản xuất ra văn hóa vừa cảm thụ, tiêu dùng và quảng bá văn hóa trong xã hội; đến lượt nó, văn hóa phát triển, hoàn thiện con người. Không có hoạt động sáng tạo của chủ thể người – ở tầm phổ quát là nhân dân, dân tộc và nhân loại thì không có bất cứ một thứ văn hóa nào được tạo ra. Cũng như vậy, nếu không được nuôi dưỡng, giáo dục, rèn luyện trong môi trường văn hóa, bằng sự cảm thụ các giá trị văn hóa, đặc biệt là văn hóa tinh thần (tư tưởng, đạo đức, văn học, nghệ thuật, truyền thống, bản sắc dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại được tiếp biến để thâu thái và phát huy thành sức mạnh nội sinh) thì con người không thể thành người, không thành nhân cách. Không có đạo đức, nhân cách nào hình thành và phát triển ở bên ngoài xã hội, ở bên ngoài những tác động của văn hóa. Bởi vậy, văn hóa và con người gắn liền với nhau như một chỉnh thể. Nói văn hóa, đương nhiên, tự nhiên và tất yếu đã nói tới con người, nghĩa là nói tới đạo đức, nhân cách – nơi kết tinh của văn hóa, là giá trị của mọi giá trị văn hóa. Thực tế cho thấy, xem nhẹ các giá trị đạo đức và giáo dục đạo đức thì chẳng những không thể tạo ra con người lành mạnh mà văn hóa cũng không thể phát triển vững chắc được. Về vấn đề này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, “cần đánh giá đúng mức tính nghiêm trọng của tình trạng lạc hậu, ngoại lai về văn hóa, những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, thói giả dối, bệnh thành tích,… đang có xu hướng lan rộng. Phải chăng, trong hơn 15 năm qua, kinh tế nước ta có tăng trưởng, đời sống nhân dân được cải thiện, nhưng văn hóa, đạo đức xã hội lại có nhiều biểu hiện xuống cấp, thậm chí có mặt nghiêm trọng?” 1 Câu hỏi này thực sự là một tình huống có vấn đề, gây nên nỗi lo ngại lớn của Đảng, tâm trạng bức xúc của xã hội. Thẳng thắn thừa nhận rằng, để xảy ra tình trạng suy thoái đạo đức xã hội là một trong những khuyết điểm nổi bật trong 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII). Rõ ràng là, từ nhận thức đến lãnh đạo, quản lý và tổ chức chỉ đạo thực hiện Nghị quyết, về giáo dục đạo đức, nhất là đạo đức truyền thống đối với con người Việt Nam nói chung, lớp trẻ nói riêng trong điều kiện phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế đã không được quan tâm đúng mức, thậm chí bị xem nhẹ. Đây cũng là một điểm nghẽn của sự phát triển đất nước như Đảng ta đã chỉ ra và là nguyên nhân dẫn đến chất lượng thấp của nguồn nhân lực. Do đó, cần nhìn thẳng vào sự thật, tìm đúng nguyên nhân và áp dụng những giải pháp hữu hiệu nhằm chấn hưng đạo đức xã hội, coi đó là vấn đề cốt lõi của văn hóa, con người Việt Nam. Không vượt qua điểm nghẽn này thì các điểm nghẽn khác về thể chế và hạ tầng kỹ thuật – công nghệ cũng khó mà vượt qua được, càng không thể nói tới phát triển bền vững.

Điều sâu xa nhất của phát triển bền vững là phát triển bền vững con người, từ cá thể đến cộng đồng người trong xã hội, xét trên tất cả các mặt thể lực, tâm lực và trí lực. Quy tụ lại là chất lượng nhân cách con người, đó là vốn người, vốn nhân lực, thành phần quan trọng nhất, có tính quyết định tổng lượng vốn xã hội trong phát triển đất nước. Phát triển kinh tế – xã hội, quản lý và quản trị xã hội mà không tính đến thước đo nhân văn, tức là văn hóa, sẽ dẫn tới mất triển vọng, thậm chí có nguy cơ biến dạng, thoái hóa thành phản phát triển. Mọi tình huống phản phát triển đều đồng thời là phản văn hóa, nó không hướng đích, mà còn làm tổn thương tới chân – thiện – mỹ, làm đạo đức suy đồi, nhân cách bị tha hóa, xã hội bị băng hoại về giá trị. Chính vì thế, Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI), coi xây dựng và phát triển con người với một hệ giá trị là sự nhấn mạnh, điểm cốt lõi của văn hóa, chủ thể sáng tạo văn hóa và cũng là mục tiêu hướng tới của văn hóa. Đây cũng là tính mới, điểm mới, chỗ phát triển so với Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII).

2. Xây dựng lòng yêu nước – Giá trị hàng đầu của con người Việt Nam trong thời kỳ mới.

Lòng yêu nước là một tình cảm thiêng liêng gắn liền với ý thức về đất nước, Tổ quốc, niềm tự hào dân tộc, sản phẩm của hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Điểm xuất phát, cái nôi, cũng là cội nguồn của lòng yêu nước là tình yêu quê hương, xứ sở, mảnh đất chôn rau cắt rốn của mình, không gian sinh tồn của mỗi gia đình, cộng đồng, quốc gia dân tộc. Nó đồng thời gắn liền với tình thương yêu con người, thủy chung tình nghĩa, đó là người Mẹ và Tình Mẹ. Từ người mẹ cụ thể đã sinh thành, mang nặng đẻ đau, ấp ủ 9 tháng 10 ngày và “vượt cạn” trong nỗi đau thân xác mà cũng là hạnh phúc của tâm hồn nuôi dưỡng ta khôn lớn thành người bằng cả bầu sữa và lời ru đến Người Mẹ vĩ đại là Tổ quốc đã rèn đúc cho ta phẩm giá, nhân cách làm người.

Xây dựng lòng yêu nước cho con người Việt Nam, xét về thực chất là giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức, niềm tự hào dân tộc và Tổ quốc mình. Đó là sự kết hợp giữa giáo dục nhận thức với bồi dưỡng tình cảm, củng cố niềm tin để thúc đẩy hành động. Đây là hoạt động tự giác, sáng tạo, có chủ đích mà các chủ thể giáo dục tác động thường xuyên, bền bỉ tới các đối tượng, trong đó cần đặc biệt chú trọng tới cán bộ, đảng viên, công chức và thế hệ trẻ. Nhất là, giáo dục niềm tự hào chính đáng về dân tộc và truyền thống dân tộc, đó cũng là sự hình thành, kết tinh từ lịch sử. Giáo dục lòng trung thành và đức hy sinh vì Đảng, vì Tổ quốc, dân tộc và nhân dân cho các đối tượng nói chung, đối với cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang nói riêng là một nội dung quan trọng, cần phải được quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị, trong lúc bình thường cũng như khi nền độc lập, tự do của Tổ quốc lâm nguy.

Giáo dục lòng yêu nước để xây dựng lòng yêu nước như một giá trị văn hóa, thấm sâu vào ý thức, tinh thần, thành sức mạnh của lý trí và tình cảm, tâm hồn mỗi người Việt Nam, ở mọi thế hệ, tạo ra sức cộng hưởng lớn của ý chí và hành động, muôn người như một trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vào lúc này trở nên vô cùng hệ trọng. Đó phải là điểm tương đồng lớn nhất, nổi bật nhất để quy tụ đoàn kết, thống nhất, đồng thuận toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, phát huy cao độ nội lực trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH,HĐH, phát triển đất nước, hội nhập quốc tế. Nền tảng tinh thần và sức mạnh nội sinh ấy vừa bắt nguồn, vừa là kết quả được tạo ra từ lòng yêu nước của mỗi con người, cả cộng đồng dân tộc Việt Nam, như Nghị quyết đã xác định: “Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” 2.

3. Xây dựng lòng yêu nước để thực hành văn hóa làm người, Ái Quốc để Ái Dân.

Vào lúc này, giáo dục lòng yêu nước, ý thức dân tộc và trách nhiệm với Tổ quốc mà sâu xa là trách nhiệm trước dân, vì cuộc sống hạnh phúc của dân với giáo dục lý tưởng cách mạng, xây dựng và chỉnh đốn Đảng hòa quyện, thống nhất làm một. Từng tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải coi việc thực hiện Nghị quyết về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam chẳng những là nghĩa vụ, trách nhiệm chính trị trước Đảng, trước dân mà còn là sự thôi thúc của đạo đức, lương tâm, danh dự và lẽ sống vì dân, vì nước, vì độc lập dân tộc và CNXH mà Đảng có sứ mệnh cao cả dẫn dắt cả dân tộc thực hiện.

Nhân dân ta luôn có niềm tin, tự hào về Đảng của mình. Qua những chặng đường lịch sử vẻ vang, đoàn kết trong Đảng, sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân đã trở thành một giá trị văn hóa bền vững, làm nên sức sống của Đảng, uy tín và ảnh hưởng sâu rộng của Đảng trong lòng dân và trong xã hội. Xây dựng và thực hành văn hóa trong Đảng, trong dân lúc này phải sao cho lòng dân – ý Đảng và phép Nước trở thành nguồn xung lực văn hóa tinh thần mạnh mẽ, đủ sức kích hoạt mọi hành động, sáng tạo, góp sức vào công cuộc chấn hưng dân tộc, chấn hưng đạo đức, chấn hưng giáo dục. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam nhằm vào sự chấn hưng đó để phát triển bền vững.

Trong nỗ lực sáng tạo để cụ thể hóa những giải pháp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, với điểm nhấn quan trọng là xây dựng lòng yêu nước, chúng ta cần nuôi dưỡng bền bỉ nhu cầu văn hóa theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Khi Người nói, Đảng ta là một Đảng cách mạng chân chính, Đảng là đạo đức là văn minh, đảng viên đi trước làng nước theo sau, một tấm gương sống còn quý hơn hàng trăm bài diễn văn,… là lúc Người quan tâm đặc biệt tới chất lượng văn hóa ở trong Đảng. Đó không chỉ là văn hóa chính trị mà còn là văn hóa đạo đức, là đem đạo đức cách mạng để chiến thắng “giặc nội xâm”, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Để làm cho sức mạnh nội sinh của văn hóa trở thành hiện thực, thành động lực mạnh mẽ của phát triển bền vững, phải bắt đầu từ trong Đảng lan tỏa rộng rãi trong xã hội, thấm sâu vào trong kinh tế và chính trị, trong đời sống của nhân dân.

Những đúc kết như châm ngôn văn hóa của Hồ Chí Minh, đặc biệt là về đạo đức cách mạng cần được chúng ta hiểu thấu và thực hành nghiêm túc nhất. Đó là, “dĩ công vi thượng”, “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”, “phụng công thủ pháp”, “thực hành dân chủ rộng rãi”, “dùng văn hóa để tẩy sạch quan liêu tham nhũng”, “có đủ bốn đức cần, kiệm, liêm, chính mới là người hoàn toàn”, v.v. Người nhiều lần nhấn mạnh “Tổ quốc trên hết”, “Dân tộc trên hết”, “Dân là quý nhất”, “không làm điều gì trái ý dân”, v.v. Đó là những chỉ thị văn hóa trong đạo làm người, trong đạo lý và đạo nghĩa cách mạng và bao nhiêu những lời đẹp đẽ khác, thể hiện đạo đức, lẽ sống cao thượng của Người mà chúng ta cần thực hành. Ngày nay, phát triển đất nước thực hiện độc lập – tự do – hạnh phúc cho dân tộc và nhân dân là lợi ích cốt lõi, cao nhất của quốc gia – dân tộc, là thông điệp lớn nhất của phát triển theo tư tưởng, hoài bão, khát vọng Hồ Chí Minh. Đó cũng là định hướng và mục tiêu của xây dựng lòng yêu nước cho con người Việt Nam.

Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì lòng yêu nước ấy lại nổi lên như một làn sóng mạnh mẽ, to lớn, lướt qua mọi sự nguy hiểm, nhấn chìm tất cả bè lũ cướp nước và bán nước. Bác Hồ đã nói với chúng ta như vậy. Người còn nhấn mạnh, thà hy sinh tất cả chứ quyết không chịu làm nô lệ; không có gì quý hơn độc lập, tự do. Nỗi đau mất nước và nỗi nhục nô lệ đã thức tỉnh cả dân tộc chiến đấu hy sinh, giữ gìn và nâng cao phẩm giá Việt Nam. Ý thức dân tộc và lòng yêu nước ấy, tiếp nối truyền thống ông cha, ngày nay chúng ta thấm thía nỗi nhục nghèo nàn lạc hậu, phải đánh thắng giặc ngoại xâm, đánh thắng nghèo nàn lạc hậu, đánh thắng cả “giặc nội xâm” vốn ẩn nấp trong mỗi con người, nó đang trỗi dậy làm tổn hại tới dân, làm suy yếu Đảng và dân tộc. Đem văn hóa soi đường cho quốc dân đi, đem lòng yêu nước biến thành hành động yêu nước để tận trung với nước, tận hiếu với dân như Bác Hồ đã suốt đời thực hiện. Đó là đòi hỏi bức xúc hiện nay đối với Đảng và nhân dân ta. Ái Quốc và Ái Dân là tên của Bác lúc sinh thời. Ở đó, Bác nhắn gửi, ký thác và thúc giục chúng ta ra sức thực hành văn hóa – văn hóa làm người.

GS, TS. HOÀNG CHÍ BẢO, Hội đồng Lý luận Trung ương

1 – ĐCSVN – Văn kiện Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI), Nxb CTQG, H. 2014, tr. 8.

Chuyên Đề Giới Thiệu Nghị Quyết Hội Nghị Trung Ương 9 Khóa Xi ” Về Xây Dựng Và Phát Triển Văn Hóa, Con Người Việt Nam Đáp Ứng Yêu Cầu Phát Triển Bền Vững Đất Nước.”

Hội nghị về văn hóa ở Mêhicô (1982), bắt đầu thập kỷ văn hóa, UNESCO đã đưa ra định nghĩa: “Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng” .

Năm 2002, UNESCO bổ sung: “Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin.”

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh :”Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá”.

chế văn hóa từng bước được hoàn thiện. Hệ thống văn bản pháp quy, pháp luật được xây dựng, bổ sung tạo hành lang pháp lý cho hoạt động và sáng tạo văn hóa, thiết lập trật tư, kỷ cương, ngăn chặn sự " xâm nhập" của sản phẩm độc hại từ bên ngoài như Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Di sản văn hóa, Luật sở hữu trí tuệ, quyền tác giả, Luật Điện ảnh... Chính phủ ban hành nhiều chiến lược phát triển về văn hóa, gia đình, thể thao, du lịch. Bộ Chính trị, khóa X ban hành Nghị quyết 23, ngày 16-6-2008 về văn học-nghệ thuật ... (13)- Đội ngũ làm công tác văn hóa, văn nghệ có bước trưởng thành. Công tác đào tạo cán bộ và chuẩn bị nhân lực cho hoạt động văn hóa được quan tâm hơn. Cả nước có 33 trường đại học, 47 trường cao đẳng, 27 trường trung cấp có đào tạo nhân lực hoạt động văn hóa. Cấp xã đã bố trí 1 công chức theo dõi lĩnh vực văn hóa. (14)- Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc, góp phần giới thiệu, quảng bá văn hóa Việt Nam, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, cùng với quá trình đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước.Nhiều sự kiện văn hóa quốc tế đã được tổ chức ở Việt Nam và sự kiện văn hóa của Việt Nam đã được tổ chức ở nước ngoài gây được tiếng vang, tạo ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn bè quốc tế về truyền thống văn hóa, nghệ thuật của Việt Nam. 2- Những khuyết điểm, hạn chế: Tuy nhiên, so với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. (1)-Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng. (2)-Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. (3)-Môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng. (4)-Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có một số tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm chí có hại. Hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn sáng tác. (5)-Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được ngăn chặn. (6)-Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng phí nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ quan truyền thông có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích . (7)-Cơ chế, chính sách về kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, về huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa chưa cụ thể, rõ ràng. (8)-Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp. (9)-Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều hạn chế, bất cập. (10)- Hoạt động giao lưu, hợp tác văn hóa với nước ngoài vòn hạn chế cả về đầu tư nguồn lực, về tầm nhìn, tình hiệu quả.Hình ảnh Việt Nam, văn hóa Việt Nam còn hạn chế ở khu vực và thế giới. Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ. 3- Nguyên nhân của khuyết điểm, hạn chế: 3.1- Nguyên nhân khách quan: Sự biến đổi nhanh chóng, nhiều yếu tố mới, phức tạp của đời sống xã hội đã tác động nhiều chiều, dẫn tới sự thụ động, lúng túng trong lãnh đạo, quản lý, tổ chức hoạt động văn hóa. Mặt trái của cơ chế thị trường, của toàn cầu hóa đã những ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống văn hóa, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là lớp trẻ. Sự phát triển mạnh mẽ và quốc tế hóa công nghệ thông tin, truyền thông, giải trí, tiêu dùng cùng với quá trình giao lưu văn hóa với nhiều mặt tích cực và cả những mặt tiêu cực đã tạo ra những thách thức, khó khăn lớn cho công tác lãnh đạo, quản lý và hoạt động văn hóa. Xuất phát điểm nền kinh tế của nước ta còn thấp, nên đầu tư của Nhà nước và xã hội cho sự nghiệp văn hóa chưa tương xứng với yêu cầu ngày càng cao của các tầng lớp dân cư. Điều kiện giữa các vùng, miền không đồng đều, nhất là ở những vùng khó khăn : vung sâu, vùng xã, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Các thuế lực thù địch thực hiện chiến lược " Diễn biến hòa bình" trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, chống phá ta ngày càng quyết liệt. 3.2- Nguyên nhân chủ quan: - Nguyên nhân chủ yếu là do nhiều cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực văn hóa; lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết liệt. Không ít cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể chính trị-xã hội các cấp chưa quán triệt đầy đủ những nộ dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII, nên nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò, đặc trưng của văn hóa; mới hiểu văn hóa là những hoạt động văn hóa cụ thể, có có biểu hiện lơi lỏng trong lãnh đạo, tổ chức thực hiện Nghị quyết. Chưa chú trọng đúng mức do chưa thấy hết tầm quan trọng của văn hóa đối với việc xây dựng con người, để cho tình hình tư tưởng, đạo đức, lối sống có nhiều mặt bị sa sút so với thời điểm ra đời Nghị quyết, để nhiều hoạt động văn hóa chạy theo thành tích, phô trương, thiếu chiều sâu nhân văn, thiếu tính bền vững. - Việc cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ và trong một số trường hợp thiếu khả thi. Do vậy, chưa động viên tối đa các cá nhân và chủ thể văn hóa tham gia vào sáng tạo và truyền bá văn hóa, ngăn chặn, đẩy lùi sản phẩm độc hại, tiêu cực. - Công tác quản lý nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lõng; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Phương thức lãnh đạo, quản lý của các cấp từ trung ương đến địa phương về văn hóa chậm đổi mới, chưa thoát khỏi lối mòn mệnh lệnh, bao cấp, đơn giản; chưa lường hết tính phức tạp và những tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế. - Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và còn dàn trải. - Chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho hoạt động văn hóa còn nhiều bất cập về cơ sở, vật chất, kỹ thuật; về giáo trình, tài liệu; đội ngũ giáo viên và phương pháp giảng dạy. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ các cấp còn yếu về trình độ, năng lực, kinh nghiệm nên chưa làm tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp và chỉ đạo, quản lý các hoạt động văn hóa. IV-MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM XÂY DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI ViỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 1- Mục tiêu. 1.1- Mục tiêu chung: Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 1.2- Mục tiêu cụ thể : + Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước. + Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Xây dựng văn hóa trong hệ thống chính trị, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người Việt Nam hoàn thiện nhân cách. + Hoàn thiện thể chế, chế định pháp lý và thiết chế văn hóa bảo đảm xây dựng và phát triển văn hóa, con người trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. + Xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam. + Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền và các giai tầng xã hội. Ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội. Một số chỉ tiêu văn hóa đến năm 2020 được ghi trong các Chiến lược phát triển ở các lĩnh vực đã được Thủ tướng phê duyệt: 100% số tỉnh, thành phố có đủ các thiết chế văn hóa; 90-100% số quận, huyện, thị xã có nhà văn hóa; 60-70% số làng, bản, ấp có nhà văn hóa; phủ sóng truyền hình số mặt đất đạt 80% địa bàn dân cư; đạt 01 bản sách/đầu người trong thư viện công cộng; đạt 05 bản sách/ người/năm; 100% di tích quốc gia đặc biệt, 70% di tích quốc gia được Nhà nước đầu tư bảo tồn; 70-80% số gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa; 65-70% số làng, bản, khu phố đạt tiêu chuẩn văn hóa; 80% doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa; cơ bản đưa các dân tộc thiểu số rất ít người ( có số dân dưới 10.000 người) ra khỏi tình trạng cần bảo vệ khẩn

Nghị Quyết Trung Ương 5 (Khóa Viii) Xây Dựng Con Người Phát Triển Toàn Diện

Ngày 16/7/1998, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa VIII) đã ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết ra đời đã nhanh chóng được cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp trong toàn tỉnh triển khai thực hiện và trở thành nội dung sinh hoạt chính trị sâu rộng của các cấp, ngành, các tầng lớp nhân dân.

Bên cạnh đó, trong 15 năm qua, các thành phần xã hội đã có sự đóng góp vô cùng to lớn, cùng với Nhà nước xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn (cầu, đường, trường, trạm, điện, chợ,…) với giá trị hàng ngàn tỉ đồng đã đem lại bộ mặt nông thôn ngày càng khang trang, cảnh lầy lội, giao thông cách trở, giao thương khó khăn đã không còn. Tinh thần tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau thoát nghèo được nhân dân hưởng ứng, hằng năm toàn tỉnh có trên 3.000 hộ nghèo được xây dựng nhà tình thương đã khẳng định tinh thần đoàn kết trong cộng đồng xã hội.

Công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh cũng được thực hiện tốt với việc khôi phục tái hiện lại di sản văn hóa phi vật thể như: lễ hội cúng đình, lễ hội Thiên hộ Võ Duy Dương, Đốc Binh Kiều, Đốc Binh Vàng,… hoặc khảo sát, lập hồ sơ đề nghị cấp có thẩm quyền xếp hạng 1 di tích cấp quốc gia đặc biệt, 13 di tích cấp quốc gia, 50 di tích cấp tỉnh. Thành tựu của khoa học công nghệ trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội cũng đã phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh trong những năm qua. Đó là sự nỗ lực, phấn đấu, sự sáng tạo của đội ngũ trí thức, nhà khoa học, với hàng trăm đề tài nghiên cứu được ứng dụng vào lao động, sản xuất, dịch vụ và sinh hoạt đạt hiệu quả cao.

Sự nghiệp giáo dục-đào tạo đã đóng góp tích cực cho chương trình đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh. Bên cạnh việc dạy chữ, dạy người, ngành giáo dục đào tạo còn cung ứng cho xã hội một lực lượng lao động ngày càng có chất lượng cao trên tất cả các lĩnh vực ngành nghề, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Hoạt động thông tin đại chúng của tỉnh đã có sự phát triển vượt bậc để tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến công chúng, nhằm tạo ra sự đồng thuận, thống nhất về ý chí và hành động của toàn dân để xây dựng và bảo vệ đất nước, đồng thời các cơ quan thông tin đại chúng còn tôn vinh, biểu dương các cá nhân, tập thể tiêu biểu, tạo động lực thi đua yêu nước trong toàn xã hội, bên cạnh còn phê phán, lên án những biểu hiện tiêu cực, những hành vi vi phạm pháp luật.

Con người mãi mãi là nhân tố trung tâm của mọi vấn đề, của mọi thời đại, từ cổ chí kim, con người làm nên tất cả, trong đó có nền văn hóa của dân tộc. Trong tất cả các khái niệm về văn hóa thì vai trò của con người là quyết định, chính vì vậy Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) tập trung chăm lo cho con người phát triển toàn diện sẽ là nền tảng, là cơ sở để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một tất yếu khách quan.

Huỳnh Văn Bé

Cập nhật thông tin chi tiết về Xây Dựng Văn Hóa, Con Người Việt Nam Trong Nghị Quyết Trung Ương 9 (Khóa Xi) trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!