Xu Hướng 6/2023 # Xem Xét Yêu Cầu Áp Dụng Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời Đồng Thời Với Việc Nộp Đơn Khởi Kiện # Top 10 View | Bac.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Xem Xét Yêu Cầu Áp Dụng Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời Đồng Thời Với Việc Nộp Đơn Khởi Kiện # Top 10 View

Bạn đang xem bài viết Xem Xét Yêu Cầu Áp Dụng Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời Đồng Thời Với Việc Nộp Đơn Khởi Kiện được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

1. Quy định của BLTTDS 2015 về quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện

Khoản 2 Điều 111 BLTTDS 2015 quy định: “Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay chứng cứ, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 114 của Bộ luật này đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Tòa án đó”.

Đồng thời, Điều 133 BLTTDS 2015 cũng quy định người yêu cầu áp dụng BPKCTT phải làm đơn với nội dung quy định tại khoản 1 của Điều luật này và phải cung cấp cho Tòa án chứng cứ để chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng BPKCTT đó.

Như vậy, trường hợp người khởi kiện yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện thì Thẩm phán cần phải xác định các loại giấy tờ, tài liệu, chứng cứ mà người khởi kiện phải nộp bao gồm: Đơn khởi kiện (theo Mẫu số 23-DS) [1]; đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT; tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm; tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng BPKCTT.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 133 BLTTDS 2015 thì đối với trường hợp yêu cầu áp dụng BPKCTT quy định tại khoản 2 Điều 111 BLTTDS 2015 thì sau khi nhận được đơn yêu cầu cùng với đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo, Chánh án Tòa án phân công ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu.

Một vấn đề cần phải hết sức lưu ý là cần nhận thức đúng về trình tự, thủ tục khởi kiện và trình tự, thủ tục yêu cầu áp dụng BPKCTT là khác nhau. Trong thực tiễn, có trường hợp người khởi kiện đã yêu cầu áp dụng BPKCTT ngay trong đơn khởi kiện. Đối với trường hợp này, Thẩm phán được phân công xem xét đơn khởi kiện phải căn cứ vào Điều 133 BLTTDS 2015 hướng dẫn người khởi kiện làm đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT [2].

2. Điều kiện và thủ tục áp dụng BPKCTT trong trường hợp người khởi kiện yêu cầu đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện

Điều kiện áp dụng BPKCTT trong trường hợp người khởi kiện yêu cầu đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện bao gồm: Điều kiện khởi kiện, điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 111 BLTTDS 2015, điều kiện thực hiện biện pháp bảo đảm đối với các BPKCTT quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10, 11, 15 và 16 Điều 114 BLTTDS 2015.

Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết đơn yêu cầu cần phải nhanh chóng xem xét đơn khởi kiện, đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT và tài liệu, chứng cứ kèm theo để đánh giá điều kiện khởi kiện, điều kiện áp dụng BPKCTT. Nếu không đủ điều kiện khởi kiện thì trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT và các chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện. Nếu đủ điều kiện khởi kiện thì tiếp tục xem xét giải quyết đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT.

Trong thời hạn 48 giờ, kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm phán được phân công thụ lý đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT phải xem xét và ra quyết định áp dụng BPKCTT; nếu không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết [3].

Trường hợp áp dụng BPKCTT buộc phải thực hiện biện pháp bảo đảm thì Thẩm phán ra quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm (theo Mẫu số 15-DS); người yêu cầu phải nộp cho Tòa án chứng từ bảo lãnh được bảo đảm bằng tài sản của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoặc gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá mà Tòa án ấn định (tương đương với tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh do hậu quả của việc áp dụng BPKCTT không đúng). Thời hạn thực hiện biện pháp bảo đảm không được quá 48 giờ, kể từ thời điểm nộp đơn yêu cầu. Khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá phải được gửi vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng nơi có trụ sở của Tòa án quyết định áp dụng BPKCTT trong thời hạn do Tòa án ấn định [4].

Trong trường hợp thực hiện biện pháp bảo đảm vào ngày lễ hoặc ngày nghỉ thì khoản tiền bảo đảm được gửi giữ tại Tòa án. Tòa án phải làm thủ tục giao nhận và gửi ngay khoản tiền đó vào ngân hàng vào ngày làm việc tiếp theo.

Do tính chất đặc thù của việc áp dụng BPKCTT đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện, trường hợp đơn khởi kiện đã có các nội dung để xác định việc thụ lý đơn khởi kiện và giải quyết vụ án là thuộc thẩm quyền của Tòa án mình nhưng cần phải sửa đổi, bổ sung một số nội dung khác thì Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT ngay theo quy định tại khoản 3 Điều 133 BLTTDS 2015. Việc yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện và thụ lý vụ án được thực hiện theo quy định tại Điều 193 và Điều 195 BLTTDS 2015.

3. Hủy bỏ việc áp dụng BPKCTT trong trường hợp trả lại đơn khởi kiện

Theo quy định của BLTTDS 2015, Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện trong các trường hợp sau đây [5]:

(1) Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu người khởi kiện không có quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 186 và Điều 187 BLTTDS 2015 hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự [6].

(2) Trả lại đơn khởi kiện nếu người khởi kiện chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật [7].

(3) Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện đối với trường hợp sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ các trường hợp được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015 (là trường hợp vụ án mà Tòa án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, xin thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu và theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại)[8].

(4) Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện trong trường hợp đã hết thời hạn 07 ngày quy định tại khoản 2 Điều 195 của BLTTDS 2015 mà người khởi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, trừ trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng.

(5) Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện trong trường hợp vụ việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án và theo quy định của pháp luật, vụ việc này thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác hoặc đang do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác giải quyết [9]

(6) Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện trong trường hợp đã yêu cầu người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 193 BLTTDS 2015 mà người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện [10].

(7) Trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp người khởi kiện rút đơn khởi kiện.

Khi trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, Thẩm phán phải có Thông báo trả lại đơn khởi kiện (theo Mẫu số 27-DS) trong đó nêu rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, đồng thời gửi Thông báo này cho Viện kiểm sát cùng cấp. Thông báo trả lại đơn khởi kiện theo mẫu đã nêu rõ trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện người khởi kiện có quyền khiếu nại với Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện để người khởi kiện thực hiện quyền khiếu nại của họ. Đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ mà Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện phải được sao lại và lưu tại Tòa án để làm cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu.

Trường hợp Tòa án đã ra quyết định áp dụng BPKCTT mà Tòa án trả lại đơn khởi kiện theo quy định của BLTTDS 2015 thì Thẩm phán ra quyết định hủy bỏ việc áp dụng BPKCTT theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 138 BLTTDS 2015 (Mẫu số 21-DS). Trường hợp hủy bỏ BPKCTT, Thẩm phán phải xem xét, quyết định để người yêu cầu áp dụng BPKCTT nhận lại chứng từ bảo lãnh được bảo đảm bằng tài sản của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác hoặc khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá quy định tại Điều 136 BLTTDS 2015, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 113 BLTTDS 2015.

1 Các mẫu văn bản tố tụng trong bài viết này là các mẫu được ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự (sau đây viết là Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP). 2 Xem khoản 1 và khoản 3 Điều 133 BLTTDS 2015. 3 Xem khoản 3 Điều 133 BLTTDS 2015. 4 Xem Điều 136 BLTTDS 2015. 5 Xem khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015. 6 Xem điểm a khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015 và Điều 2 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án (sau đây viết là Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP). 7 Xem điểm b khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015 và Điều 3 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP. 8 Xem điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015. 9 Xem điểm đ khoản 1 Điều 192 và Điều 4 Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP. 10 Xem điểm e khoản 1 Điều 182 và Điều 5 Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP. 11 Xem Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP. ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án.

Thủ Tục Áp Dụng Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời Theo Bộ Luật Ttds 2022

03/09/2020

Luật sư Nguyễn Mạnh Tuấn

Về bản chất, biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT) là một công cụ mà các bên tranh chấp được sử dụng để bảo vệ các quyền và lợi ích của mình một cách tạm thời cho đến khi vụ án được giải quyết xong. Theo đó, thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự được quy định như thế nào? Luật Minh Gia tư vấn nội dung này như sau:

1. Luật sư tư vấn về thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Tố tụng Dân sự.

Các biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định trong BLTTDS năm 2015 đã góp phần giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự nói chung trong thời gian qua vẫn còn xảy một số ra sai sót, vi phạm. Như vậy, khi cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, đương sự cần thực hiện thủ tục như thế nào? Hãy liên hệ Luật Minh Gia để được hỗ trợ giải đáp một số nội dung về:

– Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

– Điều kiện để áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

– Hậu quả pháp lý của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

– Khi nào chấm dứt việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Để bảo vệ quyền lợi của mình, bạn nên tìm hiểu các quy định của pháp luật nếu không có thời gian tìm hiểu, hãy liên hệ với Luật Minh Gia bằng cách gửi câu hỏi hoặc gọi 1900.6169 để được tư vấn.

2. Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Tố tụng Dân sự.

Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định, hướng dẫn tại Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015, cụ thể như sau:

1. Người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải làm đơn gửi đến Tòa án có thẩm quyền. Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải có các nội dung chính sau đây:

a) Ngày, tháng, năm làm đơn;

b) Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

c) Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

d) Tóm tắt nội dung tranh chấp hoặc hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình;

đ) Lý do cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

e) Biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng và các yêu cầu cụ thể.

Tuỳ theo yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà người yêu cầu phải cung cấp cho Tòa án chứng cứ để chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó.

2. Yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 111 của Bộ tố tụng dân sự 2015 được giải quyết như sau:

a) Trường hợp Tòa án nhận đơn yêu cầu trước khi mở phiên tòa thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải xem xét, giải quyết. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, nếu người yêu cầu không phải thực hiện biện pháp bảo đảm hoặc ngay sau khi người đó thực hiện xong biện pháp bảo đảm quy định tại Điều 136 của Bộ luật này thì Thẩm phán phải ra ngay quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu;

3. Đối với trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều 111 của Bộ tố tụng dân sự 2015 thì sau khi nhận được đơn yêu cầu cùng với đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo, Chánh án Tòa án phân công ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn 48 giờ, kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm phán phải xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết.

4. Trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 10 và khoản 11 Điều 114 của Bộ tố tụng dân sự 2015 thì chỉ được phong tỏa tài khoản, tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện.

Áp Dụng Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời Trong Phần Quyết Định Của Bản Án Sơ Thẩm

Điểm c khoản 2 Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS năm 2015) quy định: “Bản án gồm có phần mở đầu, phần nội dung vụ án và nhận định và phần quyết định của Tòa án, cụ thể như sau: […] c) Trong phần quyết định phải ghi rõ các căn cứ pháp luật, quyết định của Hội đồng xét xử về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án, về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo đối với bản án; trường hợp có quyết định phải thi hành ngay thì phải ghi rõ quyết định đó“.

Mặt khác, khoản 1 Điều 139 BLTTDS năm 2015 quy định: “Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu lực thi hành ngay“ và theo Điều 140 BLTTDS năm 2015 thì “Đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đang giải quyết vụ án về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời […]”

Từ các quy định trên, thực tiễn xét xử còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau trong việc ghi nhận nội dung áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bản án sơ thẩm.

1.Thực tiễn xét xử

Vụ án thứ nhất[1]Ngày 24-01-2018, Công ty H khởi kiện yêu cầu buộc Công ty B trả số tiền gốc 1.920.512.821 đồng và yêu cầu tính lãi 08%/năm với số tiền 195.892.306 đồng. Ngày 26-3-2018, Tòa án cấp sơ thẩm ban hành Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 01/2018/QĐ-BPKCTT về việc phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ đối với Công ty B.

Ngày 02-7-2018, Tòa án cấp sơ thẩm đã ban hành Bản án sơ thẩm “[…] Tiếp tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 01/2018/QĐ-BPKCTT ngày 26-3-2018 […]”.

Bị đơn Công ty B có đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm với nội dung […] không đồng ý việc Tòa án tuyên xử tiếp tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời […]. Tòa án cấp phúc thẩm quyết định: “Không chấp nhận kháng cáo của Công ty B và giữ nguyên bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm […]. Tiếp tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số: 01/2018/QĐ-BPKC ngày 26-3-2018 […]”.

Ở[2]gày 26-6-2018, chị Đ khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh H. Hai bên có tranh chấp về con chung và tài sản chung. Ngày 18-10-2018, Tòa án cấp sơ thẩm ban hành Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 105/2018/QĐ-BPKCTT phong tỏa tài sản là phần đất do chị Đ đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trên đất có căn nhà của chị Đ. Ngày 21-11-2018, Tòa án cấp sơ thẩm đã ban hành Bản án sơ thẩm quyết định: “[…] Tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số: 105/2018/QĐ-BPKCTT ngày 18-10-2018 […] đến khi Tòa án có quyết định thay đổi, hủy bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời”.

Nguyên đơn chị Đ kháng cáo Bản án sơ thẩm, trong đó có yêu cầu Tòa án ra quyết định thu hồi Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 105/2018/QĐ-BPKCTT. Quyết định Tòa án cấp phúc thẩm: “Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của chị Trần Thị Đ và sửa một phần Bản án sơ thẩm số […]. Hủy phần 4 quyết định của bản án sơ thẩm về việc tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 105/2018/QĐ-BPKCTT ngày 18-10-2018 […]”.

2.Quan điểm khác nhau

Điểm c khoản 2 Điều 266 BLTTDS năm 2015 đã khẳng định nội dung về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là một trong những nội dung thuộc phần quyết định của Bản án sơ thẩm. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra, nếu trước đó đã có Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Hội đồng xét xử có được quyết định tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời đó trong Bản án sơ thẩm hay không? Trong trường hợp việc tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời được ghi nhận trong Bản án sơ thẩm thì đương sự có được quyền kháng cáo đối với phần nội dung này hay không?

Quan điểm thứ nhất: Không được ghi nhận việc tiếp tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bản án sơ thẩm.

Theo quan điểm này, chỉ khi tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử quyết định không chấp nhận yêu cầu áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Hội đồng xét xử sơ thẩm mới ghi nhận nội dung này trong Bản án sơ thẩm. Hay nói cách khác, việc tiếp tục duy trì việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng trong các giai đoạn tố tụng trước đó sẽ không được ghi nhận trong Bản án sơ thẩm. Bởi lẽ:

Thứ nhất, theo các quy định tại Chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” trong BLTTDS năm 2015, biện pháp khẩn cấp tạm thời được Tòa án áp dụng thông qua việc ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tại mẫu số 17-DS và 18-DS ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP cũng ghi nhận Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời dành cho Thẩm phán (trước phiên tòa) và Hội đồng xét xử sơ (phúc) thẩm (tại phiên tòa). Như vậy, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải được ban hành bằng một quyết định độc lập, không thể ghi nhận trong nội dung của Bản án sơ thẩm.

Thứ hai, quy định tại khoản 2 Điều 266 BLTTDS năm 2015 là về nội dung của Bản án sơ thẩm và ghi nhận các quyết định của Hội đồng xét xử sơ thẩm. Do đó, Bản án sơ thẩm về nguyên tắc chỉ có thể ghi nhận việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng xét xử tại phiên tòa sơ thẩm, không thể ghi nhận lại việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án trước phiên tòa (thuộc thẩm quyền của Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án). Mặt khác, theo điểm b khoản 2 Điều 133, Điều 137 BLTTDS năm 2015, trường hợp Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu áp dụng, thay đổi, bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên tòa thì phải thông báo ngay tại phòng xử án và ghi vào biên bản phiên tòa. Kết hợp với phân tích nêu trên, nội dung của Bản án sơ thẩm về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chỉ có thể là về việc Hội đồng xét xử quyết định không chấp nhận yêu cầu áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên tòa.

Thứ ba, theo quy định của BLTTDS năm 2015, biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng chỉ hết hiệu lực thi hành nếu như bị Tòa án thay đổi (Điều 137 BLTTDS năm 2015) hoặc hủy bỏ (Điều 138 BLTTDS năm 2015). Do đó, nếu như tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử không áp dụng những căn cứ này thì biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng đương nhiên tiếp tục có hiệu lực thi hành. Nói cách khác, việc ghi nhận tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bản án sơ thẩm là hoàn toàn không cần thiết.

Đây chính là hướng giải quyết của Tòa án cấp phúc thẩm trong Vụ án thứ hai. Cụ thể, trong Bản án sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định: “[…] Tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời […] đến khi Tòa án có quyết định thay đổi, hủy bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời”. Khi xét kháng cáo của nguyên đơn, Tòa án cấp phúc thẩm đã nhận định việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên duy trì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bản án sơ thẩm là “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng”.

Quan điểm thứ hai: Bản án sơ thẩm phải ghi nhận việc tiếp tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đã có và đương sự có quyền kháng cáo đối với phần quyết định tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bản án sơ thẩm.

Theo quan điểm này, việc tiếp tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là một trong những nội dung phải được ghi nhận trong phần quyết định của Bản án sơ thẩm và đương sự có quyền kháng cáo đối với phần nội dung này. Quan điểm này có thể được lý giải bởi những lý do sau:

Thứ nhất, khoản 2 Điều 266 BLTTDS năm 2015 như đã đề cập đã khẳng định một trong những nội dung phải được ghi nhận trong phần quyết định của Bản án sơ thẩm là “về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời“. Bên cạnh đó, Mục III.6 Công văn số 212/TANDTC-PC của Tòa án nhân dân tối cao ngày 13-9-2019 về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử quy định: “[…] việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thể hiện ở một quyết định của Tòa án hoặc ghi nhận trong bản án và được thực hiện theo trình tự, thủ tục riêng biệt […]”. Như vậy, theo BLTTDS năm 2015 và Công văn số 212/TANDTC-PC thì việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là một trong những nội dung mà Tòa án cấp sơ thẩm phải ghi nhận trong phần quyết định của Bản án sơ thẩm, việc ghi nhận này bao gồm cả những biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được Tòa án áp dụng trước và tại phiên tòa sơ thẩm.

Thứ hai, việc ghi nhận này cũng phù hợp với quy định về thủ tục ra bản án và quyết định của Tòa án tại phiên tòa. Bởi lẽ, khoản 2 và khoản 3 Điều 235 BLTTDS năm 2015 quy định, chỉ có quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, chuyển vụ án, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ giải quyết vụ án, hoãn phiên tòa, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, tạm ngừng phiên tòa là Hội đồng xét xử phải ban hành bằng văn bản tại phiên tòa. Đối với những quyết định khác, Hội đồng xét xử không cần ban hành bằng văn bản mà chỉ cần ghi nhận trong biên bản phiên tòa. Như vậy, việc quyết định tiếp tục duy trì việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không được liệt kê trong số những quyết định phải ban hành bằng văn bản riêng. Do đó, Bản án sơ thẩm ghi nhận việc tiếp tục duy trì việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là hoàn toàn hợp lý.

Thứ tư, khoản 2 Điều 482 BLTTDS năm 2015 quy định những bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, khiếu nại, kháng nghị, kiến nghị bao gồm: i) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao động trở lại làm việc, trả lương, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất tinh thần của công dân; quyết định về tính hợp pháp của cuộc đình công; ii) Quyết định về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Có thể thấy, việc kháng cáo Bản án sơ thẩm không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Ngoài ra, bên cạnh quyền hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm còn có thẩm quyền hủy một phần Bản án sơ thẩm để xét xử lại[4]. Do đó, trong trường hợp cần duy trì việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo toàn chứng cứ hoặc đảm bảo thi hành án, Hội đồng xét xử phúc thẩm hoàn toàn có thể thực hiện thẩm quyền hủy một phần bản án mà không hủy việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Thứ năm, việc ghi nhận nội dung áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bản án sơ thẩm và cho phép đương sự có quyền kháng cáo sẽ giúp Tòa án cấp phúc thẩm có thể khắc phục được những sai sót trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án cấp sơ thẩm trong trường hợp đương sự đã không khiếu nại theo thời hạn quy định của pháp luật, qua đó bảo vệ tốt hơn cho quyền lợi hợp pháp của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Đây dường như là quan điểm mà Tòa án cấp phúc thẩm trong vụ án thứ nhất đã vận dụng, việc tiếp tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải được ghi nhận trong phần quyết định của Bản án sơ thẩm và đương sự có quyền kháng cáo đối với phần nội dung này của Bản án sơ thẩm.

Quan điểm thứ ba: Bản án sơ thẩm phải ghi nhận việc tiếp tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đã có nhưng đương sự không có quyền kháng cáo đối với phần quyết định tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời ản án sơ thẩm.

Thứ nhất, đối với quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được ban hành độc lập, khoản 1 Điều 139 và Điều 140 BLTTDS năm 2015 đã khẳng định một cách minh thị các quyết định này có hiệu lực thi hành ngay và đương sự chỉ có quyền khiếu nại.

Mặt khác, Mục 13.2 Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27-4-2005 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định tại Chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của BLTTDS trước đây có quy định: ” Trong trường hợp đương sự kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm mà trong đơn kháng cáo hoặc kèm theo đơn kháng cáo, đương sự khiếu nại quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ BPKCTT của Tòa án cấp sơ thẩm, thì Tòa án cấp phúc thẩm thông báo ngay cho họ biết là Tòa án cấp phúc thẩm không có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và giải thích cho họ biết họ có quyền yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm thay đổi, áp dụng bổ sung BPKCTT; hủy bỏ BPKCTT đã được áp dụng hoặc ra quyết định áp dụng BPKCTT theo quy định chung của Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn tại Nghị quyết này”. Với quy định trên, Hội đồng thẩm phán TANDTC đã khẳng định Tòa án cấp phúc thẩm chỉ có thể xem xét yêu cầu hủy bỏ, thay đổi, áp dụng bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời. Nói cách khác, Tòa án cấp phúc thẩm không có quyền xem xét kháng cáo (và cả khiếu nại) đối với quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Thứ hai, trong những vụ án nêu trên, Bản án sơ thẩm chỉ khẳng định lại (không phải thay thế) cho Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được ban hành trước đó. Do đó, nếu cho phép kháng cáo, kháng nghị đối với phần quyết định của Bản án sơ thẩm về nội dung này, sẽ dẫn đến sự mâu thuẫn giữa hiệu lực đối với cùng một trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (Quyết định ban hành độc lập thì không được kháng cáo, kháng nghị còn Bản án sơ thẩm thì lại được).

Thứ tư, Mục III.6 Công văn số 212/TANDTC-PC của Tòa án nhân dân tối cao ngày 13-9-2019 về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử quy định: “[…] việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thể hiện ở một quyết định của Tòa án hoặc ghi nhận trong bản án và được thực hiện theo trình tự, thủ tục riêng biệt; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu lực thi hành ngay và không bị kháng cáo, kháng nghị […]”. Như vậy, theo Công văn số 212/TANDTC-PC thì cho dù việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thể hiện dưới hình thức là một quyết định độc lập hoặc được ghi nhận trong Bản án sơ thẩm thì đương sự cũng không có quyền kháng cáo.

Tòa án huyện Châu Đức, BRVT đã mở phiên tòa xét xử vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” – Ảnh: Trần Minh Quế

Mẫu Quyết Định Hủy Bỏ Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời Của Thẩm Phán

Ngày 13/01/2017, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP. Theo đó, 93 biểu mẫu biểu mẫu về tố tụng dân sự sẽ được áp dụng từ ngày 24 tháng 02 năm 2017. Mẫu Quyết định hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời của Thẩm phán cũng được ban hành trong số này.

(Ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13 tháng 01 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao)

HỦY BỎ BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI

TÒA ÁN NHÂN DÂN…………………………

Căn cứ vào khoản 1 Điều 112 và Điều 138 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Xét thấy(3) ………………………………………………………………………………………………………………

1. Huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời……… quy định tại Điềucủa Bộ luật tố tụng dân sự đã được Tòa án nhân dân ……………. áp dụng tại Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số…../…../QĐ-BPKCTT ngày….. tháng….. năm……..trong vụ án(4)……………………………………… (5) ………………………………

2(6) ………………………………………………………………………………………………………………………..

3. Quyết định này có hiệu lực thi hành ngay.

(1) Ghi tên Tòa án nhân dân ra quyết định huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu là Tòa án nhân dân cấp huyện thì cần ghi rõ Tòa án nhân dân huyện nào thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nào (ví dụ: Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh H), nếu là Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì ghi rõ Tòa án nhân dân tỉnh (thành phố) nào (ví dụ: Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội), nếu là Toà án nhân dân cấp cao thì ghi rõ: Tòa án nhân dân cấp cao tại (Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh).

(2) Ô thứ nhất ghi số, ô thứ hai ghi năm ra quyết định (ví dụ: Số: 02/2017/QĐ-BPKCTT).

(3) Tòa án ra quyết định huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc trường hợp nào quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g và h khoản 1 Điều 138 của Bộ luật tố tụng dân sự thì ghi theo quy định tại điểm đó (ví dụ: nếu thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 138 của Bộ luật tố tụng dân sự thì ghi: “Xét thấy người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đề nghị huỷ bỏ”).

(4) Ghi tên biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Tòa án hủy bỏ và điều luật của Bộ luật tố tụng dân sự mà Tòa án căn cứ (ví dụ: Hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại Điều 116).

(5) Ghi quan hệ tranh chấp của vụ án mà Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

(6) Tùy từng trường hợp mà Tòa án quyết định việc người đã thực hiện biện pháp bảo đảm được nhận lại chứng từ bảo lãnh được bảo đảm bằng tài sản của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác hoặc khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá theo quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật tố tụng dân sự.

Cập nhật thông tin chi tiết về Xem Xét Yêu Cầu Áp Dụng Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời Đồng Thời Với Việc Nộp Đơn Khởi Kiện trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!